| ||||||
|
Những Vấn đề Thủy lợi ở Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam (2)(Water Resources Problems in the Vietnam’s Mekong Delta – Part 2) Kể từ năm 1975, một hệ thống thủy lợi qui mô đă được xây dựng trong toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) ở Việt Nam nhằm mục đích phát triển nhanh chóng vùng đồng bằng trù phú nầy. Có thể nói hệ thống thủy lợi đó đă góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế và xă hội của ĐBSCL và cho cả nước trong thời gian qua; nhưng cũng chính nó đă phát sinh ra nhiều vấn đề, mà ảnh hưởng tiêu cực càng ngày càng rơ nét, và có thể trở thành một lực cản cho việc phát triển kinh tế và xă hội bền vững của ĐBSCL trong tương lai. Trong chương tŕnh Khoa học và Môi trường tuần trước, Kỹ sư (KS) Nguyễn Minh Quang đă tŕnh bày những sự kiện, mà theo Ông, là nguyên nhân trực tiếp của những vấn đề thủy lợi ở ĐBSCL hiện nay. Tuần nầy, chúng tôi kính mời quư thính giả theo dơi tiếp cuộc trao đổi với Ông. Cũng cần nhắc lại, KS Quang là một kỹ sư công chánh chuyên nghiệp (professional engineer) của tiểu bang California và cũng là một chuyên viên thuộc Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Trước năm 1975, KS Quang là một chuyên viên phục vụ tại Ủy ban Quốc gia Thủy lợi trực thuộc Bộ Công Chánh và Giao thông ở Sài G̣n. Ông phụ trách công tác nghiên cứu và soạn thảo các kế hoạch phát triển thủy lợi ở miền Nam Việt Nam cũng như công tác đo đạc thủy học và tiên đoán lũ lụt ở ĐBSCL.
Hỏi: Theo KS th́ hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL đă phát sinh ra nhiều vấn đề tiêu cực. Vậy, KS có thể cho Quư thính giả của đài biết một cách cụ thể những vấn đề nầy là những vấn đề ǵ không?
Đáp: Những vấn đề do hệ thống thủy lợi hiện nay ở ĐBSCL phát sinh có liên quan đến nhiều phương diện. Nhưng ở đây, tôi chỉ chú trọng đến phương diện thủy học và môi trường, v́ đây là hai phương diện quan trọng nhất và có ảnh hưởng đến các phương diện khác, chẳng hạn như nông ngư nghiệp và xă hội.
Về phương diện thủy học, hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL đă làm thay đổi cơ chế thủy học (flow regime) tự nhiên của ĐBSCL, mà hậu quả là (1) thay đổi t́nh trạng lũ lụt ở ĐBSCL, (2) gia tăng mức độ sạt lỡ và bồi lắng ở ḷng lạch và cửa sông, và có khả năng ảnh hưởng đến việc xói ṃn của bán đảo Cà Mau, và (3) giúp cho nước mặn xâm nhập vào đất liền xa hơn, lâu hơn, và cao hơn.
Về phương diện môi trường, hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL (1) làm nhiều vùng ở hạ nguồn bị nhiễm nước phèn (acid water) nhiều hơn, nhất là ở cuối Đồng Tháp Mười (ĐTM), (2) là một trong những tác nhân làm suy thoái phẩm chất nước ở ĐBSCL, và (3) góp phần không nhỏ trong việc xâm lấn vào những vùng sinh thái tự nhiên c̣n lại trong vùng ĐTM và Tứ giác Long Xuyên (TGLX) và có thể làm cho chúng suy thoái trong tương lai.
Hỏi: KS có thể giải thích tại sao hệ thống thủy lợi hiện nay đă thay đổi t́nh trạng lũ lụt ở ĐBSCL?
Đáp: Thật ra, hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL đă được xây dựng từ năm 1705, nhưng măi đến 1975, hệ thống nầy dường như không có ảnh hưởng đáng kể đến đường thoát lũ thiên nhiên ở ĐBSCL. Nước trong sông Mekong vẫn có thể tràn bờ rồi làm ngập một vùng rộng lớn ở hạ lưu Kratie khi lưu lượng trong sông tăng cao. Nước lũ có thể chảy tràn qua biên giới Việt Miên, chảy tràn qua các giồng cao dọc theo sông Tiền và Hậu, hoặc theo các mương rạch tự nhiên để vào ĐTM và TGLX và làm ngập hai vùng trũng nầy. Từ đây, nước lũ có thể chảy trở lại sông Tiền và Hậu ở hạ lưu, hoặc đổ ra sông Vàm Cỏ Tây hoặc vịnh Thái Lan.
Hệ thống kinh đào hiện nay ở ĐBSCL; sâu hơn, rộng hơn, và dày đặc hơn so với hệ thống kinh đào trước năm 1975; đă tạo thành những ḷng lạch thuận lợi khiến cho nước lũ từ Kampuchia và sông Tiền và Hậu chảy vào ĐTM và TGLX sớm hơn, nhiều hơn, và nhanh hơn. Ở thượng nguồn, hệ thống đê đập làm giảm diện tích của đường thoát lũ khiến mực nước lụt dâng cao hơn. Ở hạ nguồn, lượng nước lũ nầy đă bị hệ thống đường giao thông được nâng cao hoặc hệ thống đê đập cống ngăn mặn ngăn chận khiến cho mực nước lụt ở ĐBSCL sâu hơn và thời gian ngập lụt kéo dài hơn trước.
Hỏi: Các cơ quan chức năng của Việt Nam có nhận thấy ảnh hưởng tiêu cực của hệ thống thủy lợi đối với t́nh trạng lũ lụt ở ĐBSCL không, thưa KS?
Đáp: Thưa, những người có trách nhiệm và các cơ quan chức năng phụ trách việc quy hoạch và xây dựng hệ thống thủy lợi hiện nay ở ĐBSCL đă nhiều lần nhận thấy ảnh hưởng của nó kể từ trận lụt năm 1978, và hơn thế nữa, ảnh hưởng của chúng đă được kiểm chứng. Theo dữ kiện đo đạc của Phân viện Khảo sát Quy Hoạch Thủy lợi Nam Bộ (PVKSQHTLNB), sự gia tăng lưu lượng qua biên giới Việt Miên - từ 6.300 m3/sec trong trận lụt 1991 đến 8.270 m3/sec trong trận lụt 1996, so với lưu lương 2.930 m3/sec trong trận lụt 1961 - là do các kinh cấp I và II nối từ rạch Cái Cỏ - Long Khốt vào ĐTM. Thời gian truyền lũ từ Tân Châu đến Mộc Hóa, thường mất từ 15 đến 17 ngày trong thập niên 1970, chỉ c̣n khoảng 3 đến 5 ngày trong thập niên 1990. Trong trận lụt 2000, mực nước lụt nội đồng trong vùng ĐTM và TGLX cao hơn mực nước cao nhất các năm 1978 và 1996 từ 20 đến 50 cm.
Hỏi: Có những biện pháp nào được đưa ra để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL không?
Đáp: Theo giới chức có trách nhiệm ở Việt Nam, sở dĩ có những ảnh hưởng tiêu cực như nhận thấy trong thời gian qua là v́ hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL chưa được hoàn chỉnh nên chưa phát huy hết tác dụng của nó. Họ dự trù nâng cao tŕnh cho đập Trà Sư từ cao độ 3,8 m như hiện nay lên cao độ 4,2 hoặc 4,5 m; nâng cao tŕnh các quốc lộ 62, 30, 91 và hệ thống đê bao cao hơn mực nước lụt năm 2000. Họ dự trù nạo vét các kinh hiện có như Hồng Ngự và 79 cho sâu hơn và rộng hơn để thoát nước lũ. Và họ dự trù xây một con đê dọc theo bờ phía Nam của kinh Tân Thành – Ḷ Gạch có cao độ từ 5,5 m đến 6,5 m để ngăn chận nước lũ tràn qua biên giới Việt Miên. Nói tóm lại, giới chức có trách nhiệm ở Việt Nam cho rằng hệ thống kinh đào hiện nay chưa đủ rộng và sâu để thoát lũ và hệ thống đường giao thông và đê đập hiện nay chưa đủ cao để ngăn chận nước lũ; do đó, họ muốn đào đấp nhiều hơn.
Hỏi: KS có nhận xét ǵ về những biện pháp nầy?
Đáp: Theo dữ kiện mà tôi có được, những biện pháp mà giới chức có trách nhiệm đề ra chẳng những không có tác dụng tích cực, mà ngược lại, làm cho t́nh h́nh lũ lụt ở ĐBSCL ngày càng thêm nghiêm trọng. Thí dụ như trong mùa nước nổi 2005 vừa qua, mặc dù mực nước lũ cao nhất trong sông Tiền và Hậu chỉ đạt mức 4,32 m ở Tân Châu và 3,87 m ở Châu Đốc (thấp hơn mực nước lũ cao nhất 4,82 m ở Tân Châu và 4,42 m ở Châu Đốc trong trận lụt năm 2002), mực nước lụt trong vùng ĐTM đă tăng nhanh hơn và vượt quá mực nước cao nhất trong năm 2002.
Một sự kiện thủy học nổi bật được quan sát lần đầu tiên trong lịch sử, đó là, trong 23 trạm của hệ thống đo đạc thủy học ở hạ lưu vực sông Mekong, do Ủy hội sông Mekong điều hành, chỉ có 5 trạm có mực nước vượt quá mức nước lụt do Ủy hội ấn định trong năm 2005. Đó là các trạm Thakhek và Pakse ở Lào, Mukdahan ở Thái Lan, và Tân Châu và Châu Đốc ở Việt Nam. Tuy nhiên, sông Mekong vượt quá mức nước lụt chỉ có 5 ngày ở Thakhek, 7 ngày ở Pakse, và 9 ngày ở Mukdahan, nhưng kéo dài đến 30 ngày ở Tân Châu và 60 ngày ở Châu Đốc.
Hỏi: Trong thời gian gần đây, báo chí trong nước thường loan tin về t́nh trạng ngập lụt, không chỉ ở những vùng trũng ở ĐBSCL mà c̣n ở cả những vùng tương đối cao như B́nh Chánh và Thủ Đức ở thành phố Hồ Chí Minh. Các cơ quan chức năng khẳng định là do triều cường gây nên. KS có nhận xét ǵ về t́nh trạng ngập lụt nầy.
Đáp: Tôi không nghĩ là do triều cường gây ra, mà do tác hại của hệ thống đê biển, đê đập ngăn mặn, và đê bao. Chính hệ thống đê đập nầy đă khiến cho thủy triều không thể chảy tràn vào những vùng ngập mặn trước kia mà chỉ dồn vào những sông rạch không bị hoặc chưa bị ngăn chận và hệ thống kinh mương thủy lợi không hoặc chưa được kiểm soát có hiệu quả. Hậu quả là thủy triều trong sông rạch và hệ thống kinh thủy lợi dâng cao hơn và đi sâu vào đất liền hơn trước năm 1975.
Hỏi: Có nhiều nguồn dư luận Việt Nam và quốc tế cho rằng các đập thủy điện đă và đang được xây dựng trên sông Mekong ở Trung Hoa có ảnh hưởng đến t́nh trạng lũ lụt ở ĐBSCL. KS có nhận xét ǵ về nguồn dư luận nầy.
Đáp: Có nhiều lư do để kết luận rằng các nguồn dư luận đó chỉ là những suy luận mang nhiều cảm tính và không có cơ sở khoa học. Trước hết, lưu lượng phát xuất từ Trung Hoa chỉ chiếm khoảng 15 đến 25 phần trăm lưu lượng lũ của sông Mekong ở Kratie. Thứ hai, ảnh hưởng của đập thủy điện đối với t́nh h́nh lũ lụt chỉ đáng kể ở vùng hạ lưu sát chân đập. Càng xa về hạ lưu, ảnh hưởng sẽ giảm dần và đến lúc nào đó th́ không c̣n đáng kể. Nếu dựa theo dữ kiện thủy học được đo đạc trước và sau khi xây dựng các đập thủy điện, th́ ảnh hưởng thủy học của chúng được quan sát ở trạm Chiang Saen ở Thái Lan, là trạm cực bắc của hệ thống đo đạc thủy học ở hạ lưu vực sông Mekong. Nhưng ảnh hưởng tương tự th́ chưa quan sát được ở trạm Tân Châu và Châu Đốc.
Hỏi: Như vậy, yếu tố nào có ảnh hưởng quan trọng nhất đối với t́nh trạng lũ lụt ở ĐBSCL, thưa KS?
Đáp: Trước hết, do điều kiện khí hậu và địa h́nh, lượng mưa trong vùng trung lưu vực sông Mekong chạy dọc theo triền phía Tây dảy Trường Sơn có ảnh hưởng quan trọng nhất đến t́nh trạng lũ lụt ở ĐBSCL. Trung b́nh, vùng nầy đóng góp khoảng 60 đến 75 phần trăm lưu lượng lũ của sông Mekong tại Kratie, trong số đó khoảng 20 đến 30 phần trăm từ lưu vực sông Sre Pok ở hạ Lào, cao nguyên miền Trung Việt Nam, và vùng đông bắc Kampuchia. Thí dụ trận lụt lịch sữ năm 2000 là do lượng mưa rất cao trong vùng nầy nên. Kế tiếp, bất cứ một dự án thủy lợi nào làm thay đổi lưu lượng phát xuất từ vùng nầy đều có khả năng thay đổi t́nh trạng lũ lụt ở ĐBSCL. Thí dụ như việc xă lũ từ đập thủy điện Yali ở Việt Nam vào đầu tháng 8 năm 2005. Việc xă lũ nầy đă gây lũ lụt ở hạ lưu sông Sesan trong tỉnh Ratanakiri của Kampuchia và có lẽ đă làm mực nước ở nội đồng ĐTM đang tăng nhanh lại càng tăng nhanh hơn vào trung tuần tháng 8.
|
|
Xin vui ḷng liên lạc với butvang@yahoo.com về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương Copyright © 2004 Anh Duong Online Last modified: 08/10/06 |