|
| |
Những
Vấn đề Thủy lợi ở Đồng bằng sơng Cửu Long của Việt Nam - Phần 1
(Water Resources Problems in the Vietnam’s Mekong Delta – Part 1)
Kể từ năm 1975, một hệ thống thủy lợi qui mơ đă được xây dựng trong tồn vùng
Đồng bằng sơng Cửu Long (ĐBSCL) ở Việt Nam nhằm mục đích phát triển nhanh chĩng
vùng đồng bằng trù phú nầy. Cĩ thể nĩi hệ thống thủy lợi đĩ đă gĩp phần khơng
nhỏ trong việc phát triển kinh tế và xă hội của ĐBSCL và cho cả nước trong thời
gian qua; nhưng cũng chính nĩ đă phát sinh ra nhiều vấn đề, mà ảnh hưởng tiêu
cực càng ngày càng rơ nét, và cĩ thể trở thành một lực cản cho việc phát triển
kinh tế và xă hội bền vững của ĐBSCL trong tương lai. Mức độ nghiêm trọng của
vấn đề được thể hiện qua việc tiến hành nghiên cứu chuyên sâu cĩ đề tài “Luận cứ
khoa học cho giải pháp tổng thể phát triển kinh tế xă hội ĐBSCL trong điều kiện
sống chung với lũ” với sự tham gia của trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh cùng hàng trăm nhà khoa học, quản lư, chuyên viên ở các viện, trường đại
học, và sở ngành liên hệ, được cơng bố trong tháng 10/2005 vừa qua. Để t́m hiểu
thêm chi tiết về những vấn đề do việc xây dựng và điều hành hệ thống thủy lợi ở
ĐBSCL trong 3 thập niên qua, Phĩng viên Đỗ Hiếu đă trao đổi với Kỹ sư (KS)
Nguyễn Minh Quang. Ơng là một kỹ sư cơng chánh chuyên nghiệp (professional
engineer) của tiểu bang California và cũng là một chuyên viên thuộc Hội Khoa học
và Kỹ thuật Việt Nam. Trước năm 1975, KS Quang là một chuyên viên phục vụ tại Ủy
ban Quốc gia Thủy lợi trực thuộc Bộ Cơng Chánh và Giao thơng ở Sài Gịn. Ơng phụ
trách cơng tác nghiên cứu và soạn thảo các kế hoạch phát triển thủy lợi ở miền
Nam Việt Nam cũng như cơng tác đo đạc thủy học và tiên đốn lũ lụt ở ĐBSCL. Xin
kính mời quư thính giả theo dơi.
Hỏi: Trước hết, KS cĩ thể cho quư thính giả của đài Á Châu Tự Do biết tại sao hệ
thống thủy lợi ở ĐBSCL lại phát sinh ra nhiều vấn đề như chúng ta đang nhận thấy
hiện nay.
Đáp: Cĩ thể nĩi, hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL được bắt đầu xây dựng chỉ vài tháng
sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt vào tháng 4/1975. Nhưng măi cho đến hơm
nay, theo sự đánh giá của chính những người cĩ trách nhiệm ở trong nước, nĩ vẫn
“chưa hồn chỉnh và cĩ nhiều bất cập.” Hệ thống thủy lợi nầy được đồn Quy hoạch
Thủy lợi ĐBSCL, được gọi tắt là đồn Quy hoạch Cửu Long (ĐQHCL), đề nghị để “thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chánh trị to lớn” là biến tất cả đất đai cĩ thể trồng
trọt cịn lại ở ĐBSCL thành ruộng lúa cĩ thể trồng nhiều vụ một năm, nhằm đạt chỉ
tiêu 20 triệu tấn lúa/năm trong kế hoạch ngủ niên 1975-1980. Cĩ thể nĩi một cách
ngắn gọn rằng các vấn đề của hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL hiện nay bắt nguồn từ
việc quy hoạch khơng đúng cách và thiếu thực tiễn sau chiến tranh.
Hỏi: Là một chuyên viên thủy lợi ở miền Nam, KS cĩ nhận xét ǵ về ĐQHCL.
Đáp: ĐQHCL là một trong các đồn quy hoạch, gồm một số chuyên viên thủy lợi “ưu
tú” của miền Bắc, được đưa vào miền Nam để khảo sát, nghiên cứu, và thiết lập kế
hoạch khai thác tiềm năng thủy lợi ở miền Nam. Mỗi đồn phụ trách một vùng hoặc
một lưu vực sơng. Theo nhận xét của tơi, khả năng và kinh nghiệm chuyên mơn của
thành viên trong đồn rất hạn chế, nhưng họ lại rất tự hào về “khả năng chiến đấu
và chiến thắng,” nên họ đă khơng cần nghiên cứu và t́m hiểu những đặc tính phức
tạp của ĐBSCL, một đồng bằng cĩ đặc tính hồn tồn khác với Đồng bằng sơng Hồng
(ĐBSH). Họ cũng khơng để ư đến các ư kiến của chuyên viên thủy lợi của miền Nam
và rất nghi ngờ kết quả nghiên của các cơ quan hoặc cơng ty cố vấn quốc tế. Họ
vẫn dùng các nguyên tắc trị thủy được áp dụng ở ĐBSH từ bao đời.
Hỏi: Nguyên tắc trị thủy ở ĐBSH như thế nào, và tại sao nĩ khơng thích hợp với
ĐBSCL, thưa KS?
Đáp: Dạ thưa, nguyên tắc trị thủy ở ĐBSH đă cĩ từ ngàn xưa và được áp dụng rộng
răi ở nhiều nơi, nhất là ở Trung Hoa. Nguyên tắc nầy cĩ thể gọi là nguyên tắc
đào đấp, v́ chỉ cần đào kinh để dẫn nước và đấp đê để chận nước. Ở ĐBSH, một hệ
thống đê điều kiên cố được đấp dọc theo bờ sơng để ngăn chận nước lũ, và một hệ
thống kinh được đào để dẫn nước sơng vào nơi thiếu nước ngọt để thâm canh tăng
vụ trong mùa khơ.
Ngoại trừ việc đáy sơng Hồng bị bồi lắng và đất đai bạc màu v́ thiếu phù sa,
nguyên tắc nầy tỏ ra cĩ hiệu quả ở ĐBSH; nhưng nĩ khơng thể áp dụng ở ĐBSCL v́
đồng bằng nầy cĩ đặc tính hồn tồn khác với ĐBSH. ĐBSCL là một đồng bằng thấp,
bằng phẳng và cĩ nhiều vùng trũng thấp hơn mặt nước biển trung b́nh; cho nên,
các kinh đào là những lịng lạch thuận lợi cho nước lũ tràn vào những vùng trũng
làm cho những vùng nầy ngập sâu hơn và nhanh hơn. Hệ thống đê biển ngăn chận
nước lũ, khiến nước ngập sâu hơn và kéo dài hơn. Hệ thống đê bao nội đồng làm
giăm diện tích và đổi hướng dịng chảy làm tăng vận tốc và chiều cao nước lũ và
cĩ thể ảnh hưởng đến những vùng trước đây chưa bị ngập lụt.
Hỏi: Vào năm 1991, một kế hoạch tổng thể cho ĐBSCL (Mekong Delta Master Plan) do
hăng Kỹ sư cố vấn NEDECO, Hịa Lan soạn thảo, được cơng bố qua dự án VIE/87/031
do Ngân hàng Thế giới (World Bank), Ủy ban Quốc tế Mekong Lâm thời (Interim
Mekong Committee), và Chương tŕnh Phát triển Liên Hiệp Quốc (United Nations
Development Programme (UNDP)) tài trợ. Kế hoạch nầy cĩ ảnh hưởng ǵ đến hệ thống
thủy lợi ở ĐBSCL khơng?
Đáp: Dự án soạn thảo kế hoạch tổng thể ĐBSCL bắt đầu năm 1987 do NEDECO của Hịa
Lan và Rhein-Ruhr Ingenieor-Gesellschaft (RRIG) của Đức phụ trách. Nhưng trên
thực tế, hai hăng kỹ sư cố vấn nầy chỉ dựa theo chủ trương và chánh sách do nhà
cầm quyền Việt Nam đưa ra mà thơi. Thí dụ như Phân viện Khảo sát Quy hoạch Thủy
lợi Nam Bộ (PVKSQHTLNB), là hậu thân của ĐQHCL, đă yêu cầu NEDECO và RRIG đưa
vào kế hoạch tổng thể ĐBSCL tất cả 45 cơng tŕnh thủy lợi do họ nghiên cứu trước
đây, mà hầu hết là đào kinh và đấp đê, nhằm bảo đảm cho việc trồng lúa trong
10-15 năm sắp tới. Thậm chí cĩ nhiều phần trong kế hoạch được giao cho chuyên
viên trong nước soạn thảo và viết phúc tŕnh. Cho nên, kế hoạch tổng thể ĐBSCL
do NEDECO và RRIG soạn thảo chỉ “hợp thức hĩa” cái hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL do
ĐQHCL đưa ra trước đĩ mà thơi.
Hỏi: KS cĩ cho biết, hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL đă được quy hoạch và bắt đầu xây
dựng ngay sau khi chánh quyền Việt Nam Cộng Hịa sụp đổ vào tháng 4 năm 1975.
Nhưng tại sao cho măi đến bây giờ nĩ mới cĩ ảnh hưởng tiêu cực?
Đáp: Hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL bắt đầu cĩ những ảnh hưởng tiêu cực về mặt thủy
học ngay trong trận lụt năm 1978. Mặc dù mực nước sơng Cửu Long tại Tân Châu và
Châu Đốc chưa vượt quá mực nước kỷ lục trong trận lụt 1961 và 1966, diện tích
ngập của trận lụt 1978 trải rộng hơn, và thời gian ngập kéo dài hơn so với hai
trận lụt lịch sữ nầy. Ảnh hưởng tiêu cực của hệ thống thủy lợi nầy, về phương
diện mơi trường, được tŕnh bày một cách đầy đủ và cĩ hệ thống trong nghiên cứu
của Trung tâm Tài nguyên Mekong Úc Châu thuộc trường Đại học Sydney, Australia
vào năm 2001. Nhưng trên thực tế, một số các cơng tŕnh thủy lợi của hệ thống
nầy đă gây ơ nhiễm mơi trường rất sớm. Thí dụ như cống ngăn mặn Kỳ Son ở tỉnh
Long An, đă làm nước trong rạch Kỳ Son bị ơ nhiễm khiến cá chết sạch sau khi nĩ
được đưa vào sử dụng năm 1976.
Hỏi: Những người cĩ trách nhiệm trong việc quy hoạch và xây dựng hệ thống thủy
lợi ở ĐBSCL và các cơ quan chức năng cĩ nhận thấy các tác hại của nĩ khơng, thưa
KS?
Đáp: Dạ thưa, câu trả lời là cĩ. Chính PVKSQHTLNB, là cơ quan quy hoạch hệ thống
thủy lợi ở ĐBSCL, trong một báo cáo cơng bố năm 1999, đă thừa nhận rằng, tơi xin
trích nguyên văn, “Trong hai thập kỷ vừa qua con người đă tác động mạnh mẽ lên
vùng ngập lụt của châu thổ sơng Mekong. Nhiều kênh mới đă được đào, nhiều kênh
cũ đă được nạo vét, mạng lưới kênh cấp II ngày càng được đan dày đă làm tăng khả
năng chuyển lũ qua các vùng ngập. Mặt khác các hệ thống giao thơng đường bộ cũng
được đan dày và tơn cao nhưng khẩu độ cầu cống chưa đủ đă làm ách tắc việc thốt
lũ, làm dâng mực nước lũ một số vùng, trong đĩ đáng chú ư ở vùng ĐTM [Đồng Tháp
Mười] và TGLX [Tứ giác Long Xuyên] của Việt Nam.”
Hỏi: Như vậy, những người cĩ trách nhiệm và các cơ quan chức năng cĩ điều chỉnh
lại hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL sau khi nhận thấy ảnh hưởng tai hại của nĩ khơng?
Đáp: Những người cĩ trách nhiệm trong việc quy hoạch và xây dựng hệ thống thủy
lợi ở ĐBSCL và các cơ quan chức năng liên hệ đă điều chỉnh nhiều lần, nhưng họ
vẫn cho rằng nguyên tắc trị thủy đang được áp dụng là đúng. Do đĩ, họ càng điều
chỉnh th́ ảnh hưởng tiêu cực của hệ thống thủy lợi lại càng nghiêm trọng hơn.
Sau các trận lụt năm 1978, 1984, 1991, 1994, và 1995; hệ thống được điều chỉnh
và được chánh phủ phê duyệt qua quyết định số 99/TTg của Thủ tướng ngày 9 tháng
2 năm 1996 nhằm nạo vét sâu hơn, đào nhiều kinh hơn, đấp đê bao nhiều và cao
hơn, và đấp đê và cống ngăn mặn nhiều hơn. Kết quả là nước lũ nội đồng trong
trận lụt 1996 ở vùng ĐTM và TGLX đă phá kỷ lục. Sau trận lụt 1996, hệ thống thủy
lợi ở ĐBSCL lại được điều chỉnh một lần nữa, và như chúng ta đă biết, trận lụt
năm 2000 đă trở thành một trận lụt lịch sữ, mặc dù mực nước tại Tân Châu và Châu
Đốc vẫn thấp hơn mực nước của hai trận lụt 1961 và 1966.
Hỏi: Với tư cách của một chuyên viên thủy lợi quen thuộc với ĐBSCL, KS cĩ nhận
xét ǵ về những vấn đề thủy lợi ở ĐBSCL hiện nay.
Đáp: Theo tơi, những vấn thủy lợi ở ĐBSCL hiện nay sẽ ngày càng nghiêm trọng hơn
v́ những người cĩ trách nhiệm quy hoạch và các cơ quan chức năng vẫn khơng chịu
thay đổi nguyên tắc trị thủy hiện nay. Họ lư luận rằng kinh đào khơng đủ rộng và
sâu để thốt nước lũ và hệ thống đê bao và đường giao thơng khơng đủ cao để ngăn
chận nước lũ nên trận lụt năm 2000 mới gây nhiều thiệt hại nghiêm trọng; do đĩ,
cần “đào nhiều và sâu hơn, đấp nhiều và cao hơn,” như được tŕnh bày trong Phúc
tŕnh Phân tích Phân vùng 10V, Kế hoạch Phát triển Lưu vực (Report Analysis of
Sub-Area 10V, Basin Development Plan) do PVKSQHTLNB và Ủy ban Quốc gia sơng
Mekong/Việt Nam soạn thảo và cơng bố trong tháng 11 năm 2003.
VANDETHUYLOIDBSCL1.DOC
Những Vấn đề Thủy lợi ở Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam – Phần 1
(Water Resources Problems in the Vietnam’s Mekong Delta – Part 1)
Kể từ năm 1975, một hệ thống thủy lợi qui mô đă được xây dựng trong toàn vùng
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) ở Việt Nam nhằm mục đích phát triển nhanh chóng
vùng đồng bằng trù phú nầy. Có thể nói hệ thống thủy lợi đó đă góp phần không
nhỏ trong việc phát triển kinh tế và xă hội của ĐBSCL và cho cả nước trong thời
gian qua; nhưng cũng chính nó đă phát sinh ra nhiều vấn đề, mà ảnh hưởng tiêu
cực càng ngày càng rơ nét, và có thể trở thành một lực cản cho việc phát triển
kinh tế và xă hội bền vững của ĐBSCL trong tương lai. Mức độ nghiêm trọng của
vấn đề được thể hiện qua việc tiến hành nghiên cứu chuyên sâu có đề tài “Luận cứ
khoa học cho giải pháp tổng thể phát triển kinh tế xă hội ĐBSCL trong điều kiện
sống chung với lũ” với sự tham gia của trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh cùng hàng trăm nhà khoa học, quản lư, chuyên viên ở các viện, trường đại
học, và sở ngành liên hệ, được công bố trong tháng 10/2005 vừa qua. Để t́m hiểu
thêm chi tiết về những vấn đề do việc xây dựng và điều hành hệ thống thủy lợi ở
ĐBSCL trong 3 thập niên qua, Phóng viên Đỗ Hiếu đă trao đổi với Kỹ sư (KS)
Nguyễn Minh Quang. Ông là một kỹ sư công chánh chuyên nghiệp (professional
engineer) của tiểu bang California và cũng là một chuyên viên thuộc Hội Khoa học
và Kỹ thuật Việt Nam. Trước năm 1975, KS Quang là một chuyên viên phục vụ tại Ủy
ban Quốc gia Thủy lợi trực thuộc Bộ Công Chánh và Giao thông ở Sài G̣n. Ông phụ
trách công tác nghiên cứu và soạn thảo các kế hoạch phát triển thủy lợi ở miền
Nam Việt Nam cũng như công tác đo đạc thủy học và tiên đoán lũ lụt ở ĐBSCL. Xin
kính mời quư thính giả theo dơi.
Hỏi: Trước hết, KS có thể cho quư thính giả của đài Á Châu Tự Do biết tại sao hệ
thống thủy lợi ở ĐBSCL lại phát sinh ra nhiều vấn đề như chúng ta đang nhận thấy
hiện nay.
Đáp: Có thể nói, hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL được bắt đầu xây dựng chỉ vài tháng
sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt vào tháng 4/1975. Nhưng măi cho đến hôm
nay, theo sự đánh giá của chính những người có trách nhiệm ở trong nước, nó vẫn
“chưa hoàn chỉnh và có nhiều bất cập.” Hệ thống thủy lợi nầy được đoàn Quy hoạch
Thủy lợi ĐBSCL, được gọi tắt là đoàn Quy hoạch Cửu Long (ĐQHCL), đề nghị để
“thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chánh trị to lớn” là biến tất cả đất đai có thể
trồng trọt c̣n lại ở ĐBSCL thành ruộng lúa có thể trồng nhiều vụ một năm, nhằm
đạt chỉ tiêu 20 triệu tấn lúa/năm trong kế hoạch ngủ niên 1975-1980. Có thể nói
một cách ngắn gọn rằng các vấn đề của hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL hiện nay bắt
nguồn từ việc quy hoạch không đúng cách và thiếu thực tiễn sau chiến tranh.
Hỏi: Là một chuyên viên thủy lợi ở miền Nam, KS có nhận xét ǵ về ĐQHCL.
Đáp: ĐQHCL là một trong các đoàn quy hoạch, gồm một số chuyên viên thủy lợi “ưu
tú” của miền Bắc, được đưa vào miền Nam để khảo sát, nghiên cứu, và thiết lập kế
hoạch khai thác tiềm năng thủy lợi ở miền Nam. Mỗi đoàn phụ trách một vùng hoặc
một lưu vực sông. Theo nhận xét của tôi, khả năng và kinh nghiệm chuyên môn của
thành viên trong đoàn rất hạn chế, nhưng họ lại rất tự hào về “khả năng chiến
đấu và chiến thắng,” nên họ đă không cần nghiên cứu và t́m hiểu những đặc tính
phức tạp của ĐBSCL, một đồng bằng có đặc tính hoàn toàn khác với Đồng bằng sông
Hồng (ĐBSH). Họ cũng không để ư đến các ư kiến của chuyên viên thủy lợi của miền
Nam và rất nghi ngờ kết quả nghiên của các cơ quan hoặc công ty cố vấn quốc tế.
Họ vẫn dùng các nguyên tắc trị thủy được áp dụng ở ĐBSH từ bao đời.
Hỏi: Nguyên tắc trị thủy ở ĐBSH như thế nào, và tại sao nó không thích hợp với
ĐBSCL, thưa KS?
Đáp: Dạ thưa, nguyên tắc trị thủy ở ĐBSH đă có từ ngàn xưa và được áp dụng rộng
răi ở nhiều nơi, nhất là ở Trung Hoa. Nguyên tắc nầy có thể gọi là nguyên tắc
đào đấp, v́ chỉ cần đào kinh để dẫn nước và đấp đê để chận nước. Ở ĐBSH, một hệ
thống đê điều kiên cố được đấp dọc theo bờ sông để ngăn chận nước lũ, và một hệ
thống kinh được đào để dẫn nước sông vào nơi thiếu nước ngọt để thâm canh tăng
vụ trong mùa khô.
Ngoại trừ việc đáy sông Hồng bị bồi lắng và đất đai bạc màu v́ thiếu phù sa,
nguyên tắc nầy tỏ ra có hiệu quả ở ĐBSH; nhưng nó không thể áp dụng ở ĐBSCL v́
đồng bằng nầy có đặc tính hoàn toàn khác với ĐBSH. ĐBSCL là một đồng bằng thấp,
bằng phẳng và có nhiều vùng trũng thấp hơn mặt nước biển trung b́nh; cho nên,
các kinh đào là những ḷng lạch thuận lợi cho nước lũ tràn vào những vùng trũng
làm cho những vùng nầy ngập sâu hơn và nhanh hơn. Hệ thống đê biển ngăn chận
nước lũ, khiến nước ngập sâu hơn và kéo dài hơn. Hệ thống đê bao nội đồng làm
giăm diện tích và đổi hướng ḍng chảy làm tăng vận tốc và chiều cao nước lũ và
có thể ảnh hưởng đến những vùng trước đây chưa bị ngập lụt.
Hỏi: Vào năm 1991, một kế hoạch tổng thể cho ĐBSCL (Mekong Delta Master Plan) do
hăng Kỹ sư cố vấn NEDECO, Ḥa Lan soạn thảo, được công bố qua dự án VIE/87/031
do Ngân hàng Thế giới (World Bank), Ủy ban Quốc tế Mekong Lâm thời (Interim
Mekong Committee), và Chương tŕnh Phát triển Liên Hiệp Quốc (United Nations
Development Programme (UNDP)) tài trợ. Kế hoạch nầy có ảnh hưởng ǵ đến hệ thống
thủy lợi ở ĐBSCL không?
Đáp: Dự án soạn thảo kế hoạch tổng thể ĐBSCL bắt đầu năm 1987 do NEDECO của Ḥa
Lan và Rhein-Ruhr Ingenieor-Gesellschaft (RRIG) của Đức phụ trách. Nhưng trên
thực tế, hai hăng kỹ sư cố vấn nầy chỉ dựa theo chủ trương và chánh sách do nhà
cầm quyền Việt Nam đưa ra mà thôi. Thí dụ như Phân viện Khảo sát Quy hoạch Thủy
lợi Nam Bộ (PVKSQHTLNB), là hậu thân của ĐQHCL, đă yêu cầu NEDECO và RRIG đưa
vào kế hoạch tổng thể ĐBSCL tất cả 45 công tŕnh thủy lợi do họ nghiên cứu trước
đây, mà hầu hết là đào kinh và đấp đê, nhằm bảo đảm cho việc trồng lúa trong
10-15 năm sắp tới. Thậm chí có nhiều phần trong kế hoạch được giao cho chuyên
viên trong nước soạn thảo và viết phúc tŕnh. Cho nên, kế hoạch tổng thể ĐBSCL
do NEDECO và RRIG soạn thảo chỉ “hợp thức hóa” cái hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL do
ĐQHCL đưa ra trước đó mà thôi.
Hỏi: KS có cho biết, hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL đă được quy hoạch và bắt đầu xây
dựng ngay sau khi chánh quyền Việt Nam Cộng Ḥa sụp đổ vào tháng 4 năm 1975.
Nhưng tại sao cho măi đến bây giờ nó mới có ảnh hưởng tiêu cực?
Đáp: Hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL bắt đầu có những ảnh hưởng tiêu cực về mặt thủy
học ngay trong trận lụt năm 1978. Mặc dù mực nước sông Cửu Long tại Tân Châu và
Châu Đốc chưa vượt quá mực nước kỷ lục trong trận lụt 1961 và 1966, diện tích
ngập của trận lụt 1978 trải rộng hơn, và thời gian ngập kéo dài hơn so với hai
trận lụt lịch sữ nầy. Ảnh hưởng tiêu cực của hệ thống thủy lợi nầy, về phương
diện môi trường, được tŕnh bày một cách đầy đủ và có hệ thống trong nghiên cứu
của Trung tâm Tài nguyên Mekong Úc Châu thuộc trường Đại học Sydney, Australia
vào năm 2001. Nhưng trên thực tế, một số các công tŕnh thủy lợi của hệ thống
nầy đă gây ô nhiễm môi trường rất sớm. Thí dụ như cống ngăn mặn Kỳ Son ở tỉnh
Long An, đă làm nước trong rạch Kỳ Son bị ô nhiễm khiến cá chết sạch sau khi nó
được đưa vào sử dụng năm 1976.
Hỏi: Những người có trách nhiệm trong việc quy hoạch và xây dựng hệ thống thủy
lợi ở ĐBSCL và các cơ quan chức năng có nhận thấy các tác hại của nó không, thưa
KS?
Đáp: Dạ thưa, câu trả lời là có. Chính PVKSQHTLNB, là cơ quan quy hoạch hệ thống
thủy lợi ở ĐBSCL, trong một báo cáo công bố năm 1999, đă thừa nhận rằng, tôi xin
trích nguyên văn, “Trong hai thập kỷ vừa qua con người đă tác động mạnh mẽ lên
vùng ngập lụt của châu thổ sông Mekong. Nhiều kênh mới đă được đào, nhiều kênh
cũ đă được nạo vét, mạng lưới kênh cấp II ngày càng được đan dày đă làm tăng khả
năng chuyển lũ qua các vùng ngập. Mặt khác các hệ thống giao thông đường bộ cũng
được đan dày và tôn cao nhưng khẩu độ cầu cống chưa đủ đă làm ách tắc việc thoát
lũ, làm dâng mực nước lũ một số vùng, trong đó đáng chú ư ở vùng ĐTM [Đồng Tháp
Mười] và TGLX [Tứ giác Long Xuyên] của Việt Nam.”
Hỏi: Như vậy, những người có trách nhiệm và các cơ quan chức năng có điều chỉnh
lại hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL sau khi nhận thấy ảnh hưởng tai hại của nó không?
Đáp: Những người có trách nhiệm trong việc quy hoạch và xây dựng hệ thống thủy
lợi ở ĐBSCL và các cơ quan chức năng liên hệ đă điều chỉnh nhiều lần, nhưng họ
vẫn cho rằng nguyên tắc trị thủy đang được áp dụng là đúng. Do đó, họ càng điều
chỉnh th́ ảnh hưởng tiêu cực của hệ thống thủy lợi lại càng nghiêm trọng hơn.
Sau các trận lụt năm 1978, 1984, 1991, 1994, và 1995; hệ thống được điều chỉnh
và được chánh phủ phê duyệt qua quyết định số 99/TTg của Thủ tướng ngày 9 tháng
2 năm 1996 nhằm nạo vét sâu hơn, đào nhiều kinh hơn, đấp đê bao nhiều và cao
hơn, và đấp đê và cống ngăn mặn nhiều hơn. Kết quả là nước lũ nội đồng trong
trận lụt 1996 ở vùng ĐTM và TGLX đă phá kỷ lục. Sau trận lụt 1996, hệ thống thủy
lợi ở ĐBSCL lại được điều chỉnh một lần nữa, và như chúng ta đă biết, trận lụt
năm 2000 đă trở thành một trận lụt lịch sữ, mặc dù mực nước tại Tân Châu và Châu
Đốc vẫn thấp hơn mực nước của hai trận lụt 1961 và 1966.
Hỏi: Với tư cách của một chuyên viên thủy lợi quen thuộc với ĐBSCL, KS có nhận
xét ǵ về những vấn đề thủy lợi ở ĐBSCL hiện nay.
Đáp: Theo tôi, những vấn thủy lợi ở ĐBSCL hiện nay sẽ ngày càng nghiêm trọng hơn
v́ những người có trách nhiệm quy hoạch và các cơ quan chức năng vẫn không chịu
thay đổi nguyên tắc trị thủy hiện nay. Họ lư luận rằng kinh đào không đủ rộng và
sâu để thoát nước lũ và hệ thống đê bao và đường giao thông không đủ cao để ngăn
chận nước lũ nên trận lụt năm 2000 mới gây nhiều thiệt hại nghiêm trọng; do đó,
cần “đào nhiều và sâu hơn, đấp nhiều và cao hơn,” như được tŕnh bày trong Phúc
tŕnh Phân tích Phân vùng 10V, Kế hoạch Phát triển Lưu vực (Report Analysis of
Sub-Area 10V, Basin Development Plan) do PVKSQHTLNB và Ủy ban Quốc gia sông
Mekong/Việt Nam soạn thảo và công bố trong tháng 11 năm 2003.
| |


|