Câu hỏi 3: VNN : Như
vậy, kính thưa Tiến sĩ, việc cân bằng bài toán Phát triển và Môi trường tại
Việt Nam phải được giải quyết với những điều kiện căn bản nào?
Phát triển quốc gia và ô
nhiễm môi trường là hai yếu tố liên quan chặt chẻ với nhau, và không c̣n là
vấn đề của từng quốc gia riêng rẽ nữa. Nghị tŕnh – 21 của LHQ ghi rơ là muốn
phát triển quốc gia cần phải có 3 điều kiện là: tạo dựng tăng trưởng kinh tế,
cân bằng môi sinh, và tiến bộ xă hội.
Như đă biết, Việt Nam phải
đối mặt và đương đầu trực tiếp với những vấn nạn môi trường và xă hội như sau:
- Nạn phá rừng, - Đất bị thoái hoá và sa mạc hoá do đó diện tích đất canh tác
ngày càng bị thâu hẹp hơn, - Nguồn nước mặt bị ô nhiễm, - Nguồn nước ngầm cũng
không tránh khỏi t́nh trạng trên và bị giảm thiểu tạo ra t́nh trạng lún đất
như ở một số vùng ở ĐBSCL, - Nguồn nước sinh hoạt ngày càng bị hạn chế do t́nh
trạng phát triển đô thị, - Không khí bị ô nhiễm nặng nhất là ở các thành phố
lớn, - Và sau cùng t́nh trạng di dân từ nông thôn ra thành phố tạo ra hiện
tượng thiếu lao động trong canh tác và việc di dời dân chúng từ Bắc vào cao
nguyên Trung phần. Thiết nghĩ Việt Nam cần ghi nhận các tiếp cận sau đây:
Đổi mới quan niệm quản lư
môi trường: Đối với các nước ASIAN trong vùng, ngân sách trung b́nh cho việc
quản lư môi trường chiếm 1,0% ngân sách quốc gia và có khoảng 70 cán bộ quản
lư trên 1 triệu dân. Trong lúc đó Việt Nam chỉ chi tiêu 0,1% ngân sách và chỉ
có 3 cán bộ/1 triệu dân. Do đó nếu tính về ngân khoản cho tiết mục nầy, Việt
Nam chỉ chi tiêu tương đương với 1/100 số tiền mà các quốc gia trong vùng tiêu
tốn (ngân sách các quốc gia trong vùng cao gấp 10 lần ngân sách của Việt Nam).
Tổng sản lượng quốc gia của Việt Nam được ước tính vào năm 1998 là 26 tỷ Mỹ
Kim, do đó ngân sách dành cho môi trường là 26 triệu, quá kém so với dân số.
Nh́n chung, Việt Nam đă có
đầy đủ thông tin và nhận thức về những bước cần thiết cho công cuộc phát triển
bền vững theo chiều hướng toàn cầu. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan
cũng như chủ quan, Việt Nam vẫn chưa thực hiện nghiêm chỉnh những hướng giải
quyết căn bản trên. Do đó, chúng tôi đề nghị Việt Nam cần nên rà soát lại toàn
bộ hệ thống quản lư môi trường cho thích hợp với nhu cầu phát triển đất nước.
Thực hiện việc đổi mới môi
trường: Ở giai đoạn tiên khởi, để thực hiện việc đổi mới môi trường thiết nghĩ
Việt Nam cần tập trung vào việc áp dụng quy định về nghiên cứu tác động môi
trường (NCTĐMT) của từng quy tŕnh sản xuất hay chế biến trước khi được cấp
giấy phép hoạt động. Cơ sở nào không thỏa măn điều kiện trên sẽ không được cấp
giấy phép cho đến khi đáp ứng được yêu cầu NCTDMT. Điều nầy đă được ghi trong
Bộ luật Môi trường nhưng cho đến nay, năm 2004 vẫn không được thi hành nghiêm
chỉnh, các nhà sản xuất không tuân thủ cũng như những ngươi có trách nhiệm vẫn
chưa có biện pháp chế tài.. NCTDMT phải là một luật định căn bản và sẽ không
có một ngoại lệ nào được áp dụng, ngay cả đối vơi các công ty ngoại quốc đầu
tư vào Việt Nam.
Nhu cầu cho việc đổi mới
môi trường: Đối với công cuộc đổi mới môi trường, yếu tố nhân sự đứng hàng đầu
tiếp theo là yếu tố tài chính cũng như tính xuyên suốt và nhất quán trong quản
lư, và sau cùng cũng cần nên kễ đến sư lưu tâm và tham dự của dân chúng trước
vấn đề chung của quốc gia.
Giải quyết những vấn đề ưu
tiên ở Việt Nam: Về việc nhận thức nguy cơ của các thảm nạn môi trường đă,
đang và sẽ xảy ra song hành với việc phát triển quốc gia, Việt Nam cần đưa vào
kế hoạch giải quyết đồng loạt những vấn nạn môi trường xảy ra sau đây: không
khí ô nhiễm, nguồn nước ô nhiễm, đất canh tác, quản lư phế thải rắn và lỏng.
Câu hỏi 4: TS vừa đề cập
đến Tâm Từ Bi, nhưng đối với một nhà độc tài, luôn luôn chgủ trương nắm chính
quyền bằng mọi giá, sẳn sàng kư kết những hợp dồng và cho ngoại nhân thực hiện
những dự án bất chấp những nguy hại trầm trọng cho môi sinh Việt Nam, Tâm Từ
Bi sẽ tác dụng như thế nào đối với một nhà cầm quyền như thế?
V́ tính cách tế nhị của
câu hỏi, chúng tôi xin được miễn trả lời câu hỏi nầy. Xin hẹn dịp khác.
5. Câu hoi 5: VNN : Cảm ơn
Tiến sĩ. Trong tham luận của Tiến sĩ trong cuc Hi thảo về Chiến Lược Phát
Triển Khả Chấp tại Việt Nam, được tổ chức tại Đại học Maryland (Hoa Kỳ) tháng
11 năm 2003, Tiến sĩ đă tŕnh bày nhiều chi tiết về các lănh vực môi sinh tại
Việt Nam đang bị hủy hoại trầm trọng như phá rừng, ô nhiễm nước, hóa chất,
không khí và rác. Theo Tiến sĩ nhận định, lănh vực mo^i sinh bị hủy hoại nào
được xem là tai hại nhất? Tại sao?
Theo chúng tôi nghĩ, t́nh
trạng môi trường ở Việt Nam hiện tại đang xuống cấp một cách trầm trọng. Bao
nhiêu cơ quan trong nước cũng như quốc tế đều nêu rơ vấn đề nầy cũng như đă
cảnh báo cho Việt Nam trong công cuộc đẩy mạnh phát triển quốc gia và bảo vệ
môi trường. Thiết nghĩ, t́nh trạng hiện tại có thể nói việc phá rừng và việc
phát triển nông ngư nghiệp và kỹ nghệ bừa băi là hai việc làm gây hậu quả tệ
hại và lâu dài nhất.
Theo thống kê, hàng năm Việt Nam mất khoảng 200.000 mẫu rừng, trong khi đó chỉ
trồng lại khoảng 20.000 mẫu. Năm 1944 cả nước có 14 triệu mẫu rừng chiếm 43,8%
diệntích; hiện nay chỉ c̣n khỏang độ 17% diện tích rừng thiên nhiên mà thôi.
Việc phá rừng sẽ gây ra t́nh trạng hạn hán, đất bị sói ṃn, bị sa mạc hóa do
đó diện tích canh tác sẽ bị suy giảm trước nhu cầu gia tăng dân số.
Việc phát triển nông nghiệp và kỹ nghệ bừa băi sẽ tạo ra sự ô nhiễm môi trường
trầm trọng trong nguồn nước mặt và nước ngầm và t́nh trạng ô nhiễm các hoác
chất độc hại như phân bón, hóa chất trừ sâu rầy, diệt cỏ ...đă xâm nhập vào
nguồn thực phẩm và cây trái, rau đậu từ lâu.
Thêm nữa, việc khoan giếng do UNICEF khuyến khích đă và đang là một vấn nạn
lớn cho quốc gia: đó là t́nh trạng ô nhiễm Arsenic trong nguồn nước. Từ năm
1999, chúng tôi đă cảnh báo vấn nạn nầy đến cơ quan UNICEF ở Hà Nội, cũng như
công bố một số kết quả sơ khởi thu thập được qua việc phân tích một số mẫu
nước từ Bacé chí Nam, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Măi đến năm
2002, Thủ tướng Việt Nam là Phan Văn Khải mới công bố hiện trạng trên và cho
thành lập ủy ban liênbộ để điều nghiên. Và hiện tại, kết luận chính thức của
Việt Nam là t́nh trạng ô nhiễm arsenic ở đồng bằng sông Hồng và Cửu Long là
một hiện thực cần phải giài quyết.
Câu hỏi 6: VNN : Cũng trong tham luận trên, Tiến sĩ đă đưa ra 9 Đề Nghị
để giải quyết, trong đó có : Nổ lực tranh thủ sự trợ giúp của quốc tế để loại
trừ các chất hữu cơ dai dẳng (POPs : Persistent organic pollutants) và : Hợp
tác với cng đồng quốc tế và tạo điều kiện dễ dàng cho chuyên viên ngoại quốc.
Khi trả lời phỏng vấn mới đây của Đài Á Châu Tự Do với chủ đề : Gợi Ư Về Kiểm
Soát Phát Triển Kinh Tế ở Việt Nam, Tiến sĩ có đề nghị : Việt Nam cần thận
trọng trong việc thu nhận các tài khoản viện trợ của quốc tế v́ phần lớn họ
chỉ muốn viện trợ những thiết bị đc quyền (để gây áp lực và bắt chẹt chính
quyền) hay thiết bị sắp phế thải (để tống khứ chúng ra khỏi nước). Xin Tiến sĩ
vui ḷng giải thích rơ thêm về những vấn đề nầy?
Các hợp chất hữu cơ dai dẳng (POPs) gồm 12 hóa chất trong đó có DDT, PCBs,
Furans và một số hóa chất có trong các thuốc diệt trừ cỏ dại, trừ sâu rầy
v.v...đă được LHQ chứng minh là mầmmóng ung thư lên con người nếu tiếp xúc lâu
dài. Các hóa chất trên đăbị cấm sản xuất và xử dụng từ lâu qua công ước
Stockholm, Thụy Điển. Nên nhớ Dioxin, một phó sản trong việc sản xuất chất
diệt cỏ 2,4,5-T, một thành phần của hợp chất Da Cam, không được liệt kê vào
danh sách nầy, v́ chưa có nghiên cứu và kết luận hoàn chỉnh.
Việt Nam hàng năm đă xử dụng trong phát triển nông nghiệp và kỹ nghệ 9,5 tấn
hóa chất đủ loại. Do đó môi trường càng xuống cấp càng nhanh. Theo nhận định
của TS Ngô Kiều Oanh, với diện tích đất khai thác hiện có, Việt Nam chỉ cần xử
dụng khoảng 50.000 tấn hóa chất bảo vệ thực vật thay v́ dùng hơn 300.000 tấn
như hiện nay, không kể một lượng không nhỏ được nhập cảng lậu từ Thái Lan và
Trung Quốc.
Về hợp tác với cộng đồng quốc tế, Việt Nam cần tạo điều kiện dễ dàng cho
chuyên viên ngoại quốc tham gia vào việc phát triển. Cần phải thẳng thắn nh́n
nhận rằng, chuyên viên kỹ thuật Việt Nam nhất là trong lănh vực hóa chất và
quản lư môi trường vốn đă ít và không đủ năng lực chuyên môn. Do đó, cần phải
có sự trợ giúp của quốc tế. Sở dĩ b́nh diện nầy không được khai thác thuận lợi
chỉ v́ chính sách đải ngộ cũng như Việt Nam chưa có những điều luật trong sáng
(transparent) và chính sách th́ thay đổi luôn luôn. Chính v́ thế mà các chuyên
viên ngoại quốc ngại tham gia vào các dự án có tầm vóc quốc gia ở Việt Nam.
Chính sách phát triển “xin-cho” của Việt Nam làm chùng bước rất nhiều nhất là
những chuyên gia Việt Nam ở hải ngoại.
Về các tài khoản tài trợ quốc tế, Việt Nam cần nên nhớ là một người ngoại quốc
hay một cơ quan đầu tư quốc tế, khi đầu tư vào Việt Nam, họ cũng có mưu cầu
riêng cho lợi nhuận của chính họ. Thí dụ điển h́nh là Nhật Bản viện trợ và cho
vay mượn dài hạn nhiều nhất trong các dự án xây dựng đập thủy điện cho Việt
Nam và Lào...v́ các thiết bị nầy đă ối đọng và lỗi thời ở Nhật, do đó, cần
phải tống khứ đi.. Họ không tử tế ǵ với Việt Nam cả! Kinh nghiệm năm 1945 với
quân đội Nhật về nạn đói năm nầy th́ rơ.
Câu hỏi 7: VNN : Hiện nay, khoảng mot nửa tiềm lực công nghệ Việt Nam đều tập
trung ở miền Đông Nam B, chủ yếu là Sài G̣n và các tỉnh Sông Bé, Đồng Nai, Bà
Rịa - Vũng Tầu... T́nh trạng ô nhiểm môi trường ở khu vực nầy đă vượt mức báo
đng. Kính thưa Tiến sĩ, nếu như nhà cầm quyền Việt Nam có thiện chí giải quyết
tốt t́nh trạng môi sinh nơi đây th́ việc tập trung đông đảo nhiều khu chế xuất
như thế có phải là mt giải pháp tốt cho phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay
không? Tại sao?
Việc tập trung các công nghệ lớn ở miền Đông, Tp HCM, Đồng Nai, Bà Rịa, Vũng
Tàu là một sự kiện hiển nhiên. V́ ở những nơi nầy chuyên viên kỹ thuật vốn đă
có tay nghề cao, có tŕnh độ chuyên môn đa dạng, và nhất là họ có kinh nghiệm
trong việc giao tiếp với Tây phương trong cung cách và hành xử với quốc tế từ
năm 1954 trở đi. Do đó, họ dễ dàng hội nhập vào cộng đồng quốc tế khi có chính
sách mở cửa của lănh đạo Việt Nam,
Các vùng trên phát triển ồ ạt, người ngọại quốc đầu tư không có kế hoạch,
không chính sách rơ rệt tạo thành một sự phát triển vô tổ chức trong đó có thể
nói là hoàn toàn không chú trọng về mặt xử lư phế thải rắn và lỏng cũng như
những vấn nạn môi trường liên hệ. Nhiều công ty như khu Chế xuất Tân Thuận,
Sông Bé, hệ thống nhà máy bột ngọt Vedan, hệt hống nhà máy dệt ở khu Tham
Lương đă từng bị Sở Môi trường thành phố đề nghị xử lư hay đóng cửa v́ vi phạm
từ bao nhiêu năm, nhưng vẫn tiếp tục hoạt động cho đến ngày nay. Do đó nguồn
nước ở các sông Sài G̣n, Đồng Nai, ngay cả vùng thượng nguổn để lấy nước cung
cấp cho TpHCM cũng đă bị ô nhiễm nặng.. Ngay cả Nghị Quyết 41 của Bộ Chính trị
vùa mới ra đời ngày 15/11/2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng không nói lên tính chất triệt để
của lănh đạo Việt Nam. Đồng thời Nghị quyết của Thủ tướng chính phủ ngày
22/4/2004 về việc “phê duyệt kế hoạch xử lư trịêt để các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng” cũng không hạn chế được các vi phạm.... Một thí dụ điển
h́nh là trong nội thành TpHCM có hơn 30.000 cơ sở hóa chất lớn nhỏ, hoàn toàn
không có hệ thống xử lư phế thaỉ, nằm trong danh sách phải di dời từ nhiều năm
nay. Nhưng hiện tại, qua bao Nghị quyết, Nghị định chỉ có khoảng trên dưới 10
cơ sở đă di dời mà thôi.
Tóm lại, việc tập trung các khu công nghiệp lớn sẽ là một thuận lợi lớn cho
công cuộc phát triển quốc gia v́ sự tập trung nầy sẽ giải quyết được vấn đề
trao đổi nguyên vật liệu và di chuyển do các cơ sở sản xuất hổ trợ và trao đổi
với nhau. Các quốc gia Tây phương trên thế giới cũng đă xây dựng nhiều khu tập
trung như thế. Và công cuộc nầy sẽ hữu ích nếu việc bảo vệ môi trường được cân
bằng với việc phát triển công nghệ của từng nơi.
Câu hỏi 8: VNN : Cảm ơn Tiến sĩ. Thực tế, khó có thể xác định hoặc ước tính
được ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đối với việc phát triển, nhất là tại
Việt Nam. Trong trường hợp đó, kính thưa Tiến sĩ, làm cách nào để có thể biết
được mức đ thiệt hại kinh tế của Việt Nam do ô nhiễm môi trường gây ra trên
tiêu chuẩn tổng sản lượng quốc gia?
Trong bài tham luận cho Bảo Toàn Đất Tổ kỳ 2, chúng tôi có so sánh mức phát
triển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Theo những số thống kê và trong cùng một
thời gian phát triển từ năm 1980 đến 2004, Trung Quốc nâng mức thu nhập của
người dân lến gấp đôi ($ 900 Mỹ kim/năm/đầu người) so với Việt Nam, dù cả hai
quốc gia nầy đă có cùng mức thu nhập vào năm 1980. Điều nầy chứng tỏ rằng
Trung Quốc đang đi đúng tiến tŕnh phát triển dực theo thuyết Tam khu của
Colin Klark. Đó là: phát triển nông nghiệp, phát triển kỹ nghệ, và sau cùng
phát triển dịch vụ. Trung Quốc, trong phát triển đă chuyển dịch lực lượng lao
động nông nghiệp vào khu vực kỹ nghệ và tiến dần lên dịch vụ cao cấp.. Trong
lúc đó Việt Nam vẫn dựa theo phát triển nông nghiệp và chăn nuôi, và dùng hai
phương tiện nầy để “đẩy mạnh” đất nước tiến lên công nghệ hóa! Chính v́ vậy mà
Việt Nam phát triển chậm hơn Trung Quốc, từ đó kéo theo mức sống của người
dân, cùng những dịch vụ phúc lợi công cộng như y tế và giáo dục vẫn c̣n quá
thấp so với các quốc gia tương đương trong vùng.
Câu hỏi 9 và 10: VNN :: Khác với nhiều nước Tây Phương, Việt Nam đă dùng tối
đa nguồn than cho nhu cầu nấu nướng thay v́ cho nhu cầu điện năng. Việt Nam
cũng đă có dự kiến sẽ gia tăng khai thác than lên đến 23 - 24 triệu tấn vào
năm 2010 trong khi t́nh trạng ô nhiễm do công nghệ than gây ra vẫn tiếp tục ở
mức báo đng... Xin Tiến sĩ cho biết nhận định như thế nào về công nghệ than
tại Việt Nam hiện nay và Tiến sĩ có những đề nghị giải quyết như thế nào?
VNN : Cảm ơn Tiến sĩ. Nếu như Việt Nam có kế hoạch khai thác than đứng đắn và
bảo vệ được môi sinh th́ nguồn năng lượng than của Việt Nam có thể là mt giải
pháp tốt cho nguồn điện năng không thay v́ phải xây thêm những đập thuỷ điện
mới trong khi hai đập lớn là Yali ở Tây Nguyên và Sơn La ở Tây Bắc đang có
nhiều vấn đề?
Than là một nguồn năng lượng thiên nhiên mà các quốc gia trên thế giới vẫn c̣n
xử dụng với một tỷ lệ quan trọng so với tất cả các nguồn năng lượng khác. Mặc
dù vẫn c̣n quá nhiều vấn nạn về ô nhiễm môi trường do kỹ nghệ than mang đến,
thế giới vẫn xem đây là một nguồn năng lượng chính chưa thể thay thế được, ít
nhất trong ṿng 20 năm tới.
Than là một loại nguyên liệu dễ khai thác về kỹ thuật và rẻ về giá thành nhất
so với tất cả các nguồn nguyên liệu khác. Than cũng là một nguồn năng lượng
chiến lược của Việt Nam. Năm 2004, Việt Nam dự định sản xuất 19,4 triệu tấn và
dự kiến xuất cảng 6 triệu tấn. Theo lời ông Đoàn Văn Kiên, Tổng giám đốc công
ty than Vinacoal, nhu cầu cho 5 năm sắp tới là sẽ sản xuất từ 33 đến 36 triệu
tấn than, trong đó có 10 triệu tấn dùng cho xuất cảng.
Riêng tại Việt Nam, than đă biến vùng khai thác chính là Quảng Ninh thành một
thị trấn đen. Theo Hải học Viện Nha Trang, có thể có đến 50% san hô vùng Hạ
long bị chết “ngộp” v́ bị than bám vào trầm tích dưới biển san hô của vùng
nầy.
Tuy nhiên, để đổi lại, than là một nguồn năng lượng dễ t́m, dễ đốt, và có mặt
ở hầu hết khắp nơi. Do đó, vấn đề c̣n lại là làm thế nào để biến công nghệ
than thành một nguồn năng lượng sạch trước khi chuyển đổi qua việc ứng dụng
các nguồn năng lượng khác.
Việt Nam đă có một đại công ty quốc doanh than VINACOAL tại Quảng Ninh. Nơi
đây vừa khai thác mơ than lộ thiên cũng như nằm sâu trong ḷng đất. Dự kiến
khai thác 23-24 triệu tấn than cho năm 2010, và 30 triệu tấn năm 2020. Từ năm
2004, Việt Nam đă dành một ngân khoản 930 triệu Mỹ kim cho các mục tiêu sau
đây:
· Tăng cường an toàn lao động;
· Quản lư sản xuất hiệu quả hơn;
· Tân trang và hiện đại hóa kỹ thuật trong dây chuyền sàn lọc và biến chế;
· Và sau cùng hạn chế ô nhiễm môi trường.
Công ty, trong năm 2003, đă chi tiêu 116 triệu Mỹ kim cho việc mở thêm các hầm
mơ mới cùng các mơ lộ thiên cũng như nhập cảng dụng cụ đào xới và hệ thống dây
chuyền tự động.
Tỷ lệ than sản xuất được dùng cho việc nấu nướng chiếm phần lớn, một phần cho
kỹ nghệ điện, và một phần cho xuất cảng. Chỉ nội trong hai tháng đầu năm 2004,
Việt Nam đă xuất cảng 1,5 tấn than. Do đó nhiều khi mức tiêu thụ không theo
kịp mức sản xuất dây chuyền. Chỉ cần một biến động nhỏ có thể làm xáo trộn cả
công ty. Trường hợp đă xảy ra vào năm 2002. Không rơ v́ lư do ǵ, tất cả các
kho chứa than đều bị tràn ngập, do đó than bị ối động với một số lượng khổng
lồ, và công nhân trrong thời gian nầy lại phải nhận lănh số lượng than tương
đương với mức lương hàng tháng! Về mặt ô nhiễm, cho đến nay, chúng tôi vẫn
chưa thấy có một cải thiện nào đáng kễ để hạn chế nạn ô nhiễm môi trường. Tuy
nhiên, Công ty cũng đang có dự kiến xây dựng một mô h́nh nhà máy biến than
thành điện năng ở Nạ Dương, Cẩm Phá, An Hóa, và Sơn Đông.
Từ những diễn biến do công nghệ chế biến và sản xuất vừa nêu trên, chúng tôi
thấy việc gia tăng sản xuất, việc tăng cường bảo đảm an toàn lao động cho công
nhân, cũng như việc áp dụng quy tŕnh sản xuất “sạch” để băo vệ môi trường là
những việc làm cần thiết cho công nghệ than ở Việt Nam. Nhưng những điều kễ
trên vẫn chưa đủ cho điều kiện hiện tại. Thiết nghĩ, Việt Nam cần phải tăng
cường hơn nữa trong việc ứng dụng than vào việc biến thành điện năng. Thứ
nhất, để tránh trường hợp than bị ối đọng. Thứ hai, có thể cung ứng nhu cầu
cần thiết về điện năng, một nhu cầu không thể thiếu trong việc phát triển quốc
gia trong giai đoạn hiện tại, hơn là xoay qua việc truy t́m nguồn năng lượng
từ các đập thủy điện như Việt Nam đă dự tính xây lấp một đập mới nữa ở Yali và
một ở Lào trong một tương lai rất gần.
Câu hỏi 11: VNN :: Để giải quyết bài toán Phát triển và Môi sinh tại Việt Nam,
Tiến sĩ đă rất nhiều lần chân thành đưa ra những đề nghị giải quyết. Xin Tiến
sĩ cho biết, cho tới nay, nhà cầm quyền Việt Nam đă đáp ứng như thế nào những
đề nghị nầy của Tiến sĩ?
Bài toán cân bằng phát triển và bảo vệ môi trường đă được chúng tôi cổ súy qua
trên 10 bài viết từ nhiều năm qua. Cho đến nay, qua các suy nghĩ cùng cung
cách tiếp cận vấn đề nh́n từ nhiều phía, nhiều góc độ khác nhau ở những quôc
gia có tŕnh độ phát triển và dân trí tương đương như ơ Việt Nam, chúng tôi
nhân thấy trong suốt thời gian qua, Việt Nam mặc dù có lên tiếng đă kích cá
nhân chúng tôi; nhưng thật sự, họ đă có “lắng nghe” và có những đáp ứng một
vài sự kiện như t́nh trạng ô nhiễm arsenic chẳng hạn. Tuy nhiên theo thiển ư
của chúng tôi, nếu Việt Nam có thêm tầm nh́n toàn cầu ứng hợp với chiều hướng
phát triển chung của thế giới, chấp nhận luận chơi chung, và quan trọng hơn cả
là phải xóa bơ năo trạng “độc tôn và duy ngă” trong tư thế lănh đạo đất nước
th́ chắc chắn công cuộc phát triển đất nước sẽ tiến nhanh hơn và mang lại phúc
lợi cho người dân nhiều hơn đối với hiện tại.
Câu hỏi 12: VNN : Đất nước ta không rng, với dân số hiện nay đă vượt hơn 80
triệu, trước t́nh trạng phát triển trong bối cảnh môi sinh đang xuống cấp trầm
trọng hiện nay, Tiến sĩ có những ưu tư như thế nào đối với hiện t́nh đất nước?
Đứng trước t́nh trạng môi sinh xuống cấp như hiện nay, chúng tôi nhận thấy
Việt Nam chưa thể hiện đúng đắn bài toán phát triển và cân bằng môi trường mà
chúng tôi vừa nói ở phần trên. Bài học Chí Lợi là một trong những điển h́nh mà
Việt Nam cần phải suy gẫm. Chí Lợi đă biết hạn chế việc xuất cảng gỗ và kim
loại nhất là đồng (copper), chấp nhận hy sinh một số lớn ngoại tệ nặng cần
thiết để bảo vệ môi trường. Một điểm mà Việt Nam cần học là Chí Lợi đă can đăm
để cho người dân trực tiếp tham gia vào việc quản lư môi trường để từ đó người
dân thấy có trách nhiệm và nhận thức rơ ràng nguy cơ của việc ô nhiễm. Do đó
việc quản lư được chặt chẻ hơn và những vấn nạn môi trường ở các cơ sở sản
xuất ngày càng hạn chế.
Do có sự cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường, chỉ trong ṿng 10 năm,
Chí Lợi đă nậng lợi tức đầu người lên gấp đôi. Và đây cùng là niềm hảnh diện
của LHQ trong việc áp dụng chính sách môi trường toàn cầu qua Nghị tŕnh – 21
vào đất nước nầy.
Câu hỏi 13: VNN : Xin Tiến sĩ mt câu hỏi cuối : Là mt nhà khoa học luôn trăn
trở về quê hương, đất nước, Tiến sĩ có điều ǵ muốn chia sẻ thêm cùng giới trẻ
Việt Nam không?
Là một chuyên gia môi trường 20 năm nay, dĩ nhiên là chúng tôi có rất nhiều
trăn trở về những vấn nạn môi trướng ở quê hương. Điều nầy chắc anh cũng nhận
biết được qua hơn 200 bài viết về những vấn nạn trên như ô nhiễm nguồn nước,
hóa chất, vấn đề xử lư chất thải, phát triển nông nghiệp, và việc tiếp cận xu
hướng toàn cầu hóa trên thế giới v.v...
Là một con dân nước Việt, đứng trước những đau khổ thiếu thốn của đại đa số
đồng hương ở quốc nội, làm sao chúng tôi có thể an nhiên tự tại trên mănh đất
tự do nầy được. Làm sao chúng tôi có thể “hài ḷng” khi đọc được báo cáo tổng
kết năm 2004 của Quỷ Nhi đồng Thế giới và Cơ quan Y tế Thế giới là 72% trẻ em
từ 1 tuổi đến 5 tuổi đều bị suy dinh dưởng trầm trọng. Do đó, nh́n lại 29 năm
qua, tuy Việt Nam đă đạt được một số tiến bộ trong việc xây dựng và phát triển
đất nước, nhưng chưa đủ mau và mạnh so với nguồn nhân lực và tài nguyên Việt
Nam hiện có, cũng như nhu cầu của dân tộc mà lănh đạo Việt Nam phải chu toàn.
V́ vậy chúng tôi chỉ c̣n đặt niềm tin vào giới trẻ Việt Nam cả ở quốc nội lẫn
hải ngoại
Hy vọng các em qua kinh nghiệm sống đối với tuổi trẻ ở quốc nội, và qua những
học hỏi ở nước ngoài đối với tuổi trẻ hải ngoại. Các em sẽ t́m được sinh lộ mà
Đất Nước sẽ phải Đi Tới. Những cản lực hiện tại chỉ là những thử thách cho
tuổi trẻ mà thôi, không thể làm chùn bước các em được.
Dù sống trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn trong nước hay đứng trước những cám
dỗ của một xă hội thiên về cá nhân và vật chất trên thế giới, tuổi trẻ Việt
Nam ở hai nơi đều thể hiện nghị lực phấn đấu với một tinh thần quả căm và một
ư chí tuyệt vời. Tuổi trẻ Việt Nam không ngại những phiêu lưu trong hành xử dù
phải chịu nhiều vấp ngă. Học hỏi trong kinh nghiệm, trong thất bại, tuổi trẻ
Việt Nam đă và đang mạnh dạn đi tới tương lai.
Tuổi trẻ Việt Nam trong sáng hội nhập vào xă hội với niềm tinh vững mạnh cho
tương lai, không mặc cảm, không vướng bận quá khứ, không có những rào cản, vết
hằn từ các oan nghiệt của lịch sử như các tuổi cha anh, không ràng buộc vào
những thành kiến bảo thủ và ư tưởng cực đoan. Với thêm tinh thần dân chủ cao
đă được un đúc do học tập và kinh nghiệm trong cuộc sống hàng ngày, tuổi trẻ
càng khiến cho chúng ta tin tưởng hơn khi dự phóng về tương lai.
Mong các em đạt thành ư nguyện, mà những người đi trước như chúng tôi chẳng
hạn hiện vẫn c̣n trăn trở trong bế tắc trước mắt.
Xin cám ơn anh Vơ Triều Sơn, Đài VNN Úc Châu đă cho chúng tôi có điều kiện để
chia xẻ với đọc giả những trăn trở về Đất Nước của chính ḿnh.
Mai Thanh Truyết
VAST 12/2004