|
 |
Việc đi
chùa rất phổ biến ở Việt Nam
|
Từ đây đến ngày 15-3, Hoa Kỳ đang xem xét có
áp đặt lệnh trừng phạt với Việt Nam quanh vấn đề tự do tôn
giáo hay không.
Năm ngoái, Việt
Nam, Ảrập Saudi và Eritrea bị Bộ ngoại giao Mỹ đưa vào danh sách
các nước ''gây lo ngại về tự do tôn giáo'' (danh sách CPC).
Do quy định của
điều luật tự do tôn giáo quốc tế (IRFA) năm 1998, Bộ ngoại giao
Mỹ được yêu cầu đến ngày 15-3 phải đưa ra các biện pháp cụ thể
đối với ba nước này.
Trong bài viết cho
báo Boston Globe, số ra ngày 13-2-2005, phóng viên Matt Steinglass,
thường trú ở Hà Nội, có nhận định việc trừng phạt có thể chỉ
làm xấu đi tình hình.
Bài báo có nhan
đề: "Praying for Hanoi: Some in the US want to export religious freedom
to Vietnam"
Khi Thích Nhất
Hạnh, vị thiền sư đã lưu vong kể từ khi rời miền Nam Việt Nam năm
1966, trở về quê hương tháng trước, ông trở về theo những điều
kiện mình tự đặt ra.
Khi ông ra đi gần
40 năm trước, cả các tướng lĩnh Sài Gòn lẫn người Cộng sản ở
Hà Nội đều chẳng muốn ông quay về. Từ đó ông trở thành một
trong những người thuyết giảng Phật pháp được biết đến nhiều
nhất trên thế giới, với hàng ngàn tín đồ. Vì thế, năm ngoái khi
chính phủ Việt Nam mời ông trở về, theo thiền sư Hạnh, “Chúng tôi
bảo họ rằng tôi sẽ trở về nếu họ cho phép sách của tôi được
xuất bản, và cho phép tôi được đi lại và gặp các lãnh đạo Phật
giáo khác.” Chính quyền chấp nhận, và ông Hạnh cùng 190 đệ tử
đã đến Việt Nam cho chuyến đi dài ba tháng. Tại một cuộc gặp ở
chùa Định Quán ở Hà Nội, hơn 1000 người có mặt để tham gia buổi
tọa thiền và giảng đạo.
|
 |
Chuyến đi
về của thiền sư Thích Nhất Hạnh gây nhiều chú ý
|
Nhà chức trách
Vệt Nam lấy sự trở về của thiền sư Hạnh làm bằng chứng rằng
đất nước có tự do tôn giáo. Tuy vậy, chính phủ Mỹ không đồng ý.
Tháng Chín năm ngoái, Bộ ngoại giao liệt Việt Nam là “Nước đáng
quan ngại” (danh sách CPC) theo đạo luật tự do tôn giáo quốc tế
1998. Sự phân loại này đi kèm khả năng trừng phạt kinh tế, mà có
thể gây hại cho quan hệ Việt – Mỹ.
Mỗi lần gặp các
quan chức địa phương, đại sứ Mỹ Michael M. Marine lại nêu vấn đề
tự do tôn giáo. Ông nói trong một cuộc phỏng vấn gần đây rằng
“đó là lĩnh vực quan tâm của người Mỹ.”
Chắc chắn điều
đó đặc biệt là quan tâm cho các tổ chức Thiên chúa giáo phúc âm,
như là các nhóm International Christian Concern, Christian Solidarity
Worldwide, và Southern Baptist Convention – những nơi lên án cách đối
xử của Việt Nam với các tín đồ người thiểu số. Một số thành
viên trong Quốc hội cũng rất quan tâm, đặc biệt là thượng nghị
sĩ Cộng hòa Sam Brownback của Kansas và hạ nghị sĩ Chris Smith,
bang New Jersey, một người thường xuyên lên án ‘’các độc tài ở Hà
Nội’’ và “chính sách cực đoan chống tôn giáo.”
ĐốI với những
quan sát viên lâu năm về Việt Nam, ngôn từ như vậy vẽ nên một bức
tranh rất sai lạc. Philip Taylor, một nhà nhân học ở ĐH Quốc gia
Úc và là chuyên gia về tôn giáo Việt Nam, nói: “Tôn giáo phát
triển ở Việt Nam ngày nay, khi xét về số lượng tín đề và sự đa
dạng tín ngưỡng.” Nếu như trong thập niên 1980, ít ai đi dự các
buổi lễ ở nhà thờ Công giáo và Tin lành thì nay chúng chật
cứng người. Năm 2001, Giáo hội Tin lành miền Nam Việt Nam lần đầu
tiên được chính thức công nhận. Các ngôi chùa mới xuất hiện trên
khắp nước.
Nói thế không có
nghĩa tôn giáo được tự do ở Việt Nam. Pháp lệnh mới về tôn giáo
của Việt Nam, có hiệu lực từ tháng 11 năm ngoái, vẫn đòi hỏi
các tín ngưỡng phải đăng ký với chính quyền, và không phải mọi
đơn xin đều được chấp thuận. Một số linh mục, đặc biệt những ai
thuộc các giáo hội không đăng ký, đã bị bỏ tù và làm mất thanh
danh trên báo chí. Tổ chức Human Rights Watch thu thập nhiều báo
cáo về các giáo hội không đăng ký trên vùng Tây Nguyên bị san
bằng và một số tín đồ bị buộc từ bỏ đạo.
|
 |
Nhiều lãnh
đạo Giáo hội phật giáo Việt Nam thống nhất bị quản chế
|
Cha Nguyễn Văn Lý,
một tu sĩ được ân xá ngày 31-1, vốn bị kết án 10 năm tù sau khi
gửi thư điều trần tới Ủy ban Hoa Kỳ về tự do tôn giáo quốc tế.
Những lãnh đạo của Giáo hội Việt Nam thống nhất, vốn không được
nhà nước thừa nhận và là những người mà ông Thích Nhất Hạnh
đòi gặp, đã bị cầm cố trong chùa của họ suốt nhiều năm.
Nhưng các trường
hợp đó, mặc dù nghiêm trọng, chỉ dính đến một thiểu số tín đồ
Việt Nam. Người Việt nói chung được tự do hành đạo – miễn là
tránh khỏi chính trị. Việt Nam vẫn là nước độc đảng, và mọi
tổ chức, dù là giáo hội hay câu lạc bộ bóng đá, có thể gặp
rắc rối nếu tham gia hoạt động chính trị. Và dù bị liệt vào
danh sách ‘’Quốc gia đáng quan ngại về tôn giáo’’, nhưng các đối
đầu giữa chính quyền và nhóm tôn giáo ở Việt Nam thường liên
quan đến chính trị nhiều hơn tôn giáo.
|
 |
Việc đi
lại ở Tây Nguyên còn bị hạn chế sau biến cố 2001 và 2004
|
Lấy trường hợp
các nhóm thiểu số ở Tây Nguyên. Những người mà thường được gọi
là người Thượng bắt đầu gia nhập các giáo hội phúc âm chịu ảnh
hưởng các nhà truyền giáo Mỹ trong thập niên 1950. Ngày nay,
những người bảo thủ ở Việt Nam xem họ không đáng tin về chính
trị bởi vì nhiều người đã cầm súng cho Mỹ trong chiến tranh và
vì các lời kêu gọi của một tổ chức đặt ở Mỹ đòi một vùng
đất Thượng độc lập. Trong khi đó, trong hơn một thập niên qua,
nhiều người Thượng đã mất đất vì các đồn điền cà phê do người
Kinh quản lý. Năm 2001 và tháng Tư năm ngoái, một số người Thượng
thiệt mạng, nhiều người bị bắt khi chính quyền dẹp các cuộc
biểu tình vì vấn đề tôn giáo và kinh tế. Người ta có thể hồ
nghi cáo giác của chính quyền rằng người Thượng đã kích động
bạo lực. Tuy vậy, nếu chỉ mô tả cuộc xung đột này theo nghĩa tôn
giáo thuần túy thì sẽ đồng nghĩa việc bỏ qua nhiều phần trong
bức tranh thực tế.
Các yếu tố chính
trị tương tự cũng dính đến trường hợp các lãnh đạo Giáo hội
Phật giáo Việt Nam thống nhất. Giáo hội này, vốn có một lịch
sử hoạt động chính trị, bị cấm năm 1981 sau khi họ không chịu gia
nhập Tổ chức Phật giáo toàn quốc của Việt Nam. Một rắc rối
pháp lý nữa diễn ra năm 1992 sau khi một lãnh đạo gửi thư ngỏ
chỉ trích vấn đề tự do tôn giáo của Đảng Cộng sản.
Nhưng Điều luật
tự do tôn giáo quốc tế của Mỹ không tách biệt khía cạnh tôn
giáo và chính trị trong những trường hợp ấy. Các vụ việc như
vậy được trích dẫn trong báo cáo của Ủy ban Hoa Kỳ về tự do tôn
giáo quốc tế khi họ đề nghị đưa Việt Nam, cùng Ảrập Saudi, Bắc
Hàn…vào danh sách ‘’Nước đáng quan ngạI’’. Theo điều luật, Việt
Nam còn thời hạn đến 15-3 để chứng tỏ sự tiến bộ. Nếu không,
tổng thống Bush được yêu cầu áp đặt ít nhất một trong 15 lệnh
trừng phạt.
Dễ hiểu là cộng
đồng doanh nhân Mỹ đã thuộc vào những người phản đối sự trừng
phạt mạnh nhất. Adam Sitkoff, chủ tịch Phòng thương mại Mỹ ở Hà
Nội, nói: “Chúng tôi cho rằng hợp tác và đối thoại có ích hơn
là trừng phạt trong việc giải quyết các vấn đề này.” (Thương
mại hai chiều đạt 6 tỉ đôla năm 2003, khiến Mỹ là đối tác thương
mại lớn nhất của Việt Nam).
|
 |
Nhiều
người lo ngại trừng phạt gây hại cho quan hệ thương mại
|
Các doanh nghiệp
Mỹ không phải là người duy nhất lo ngại việc ảnh hưởng quan hệ
với Việt Nam. Lầu Năm Góc đã muốn quan hệ gần gũi với quân đội
Việt Nam trong nhiều năm. Và việc trừng phạt có thể cản trở
luồng viện trợ nước ngoài cho Việt Nam – nước từ lâu được xem là
‘’con cưng của nhà tài trợ’’ bởi vì khả năng sử dụng hiệu quả
viện trợ. Tháng Sáu năm ngoái, tổng thống Bush đưa Việt Nam thành
nước châu Á đầu tiên vào danh sách PEPFAR, một chương trình của
Mỹ giúp đối phó HIV/AIDS.
Các quan chức Mỹ
nói thật khó tưởng tượng tổng thống sẽ áp đặt các biện pháp
trừng phạt mà gây ảnh hưởng cho PEPFAR. Nhưng những nhà chỉ trích
người Mỹ lớn tiếng nhất thì nói một sự cảnh cáo là không đủ.
Tiến sĩ Richard
Land, thuộc Southern Baptist Convention và là thành viên Ủy ban Hoa
Kỳ về tự do tôn giáo quốc tế, lên tiếng: “Việc đưa Việt Nam vào
danh sách CPC mà không trừng phạt thì chỉ vô nghĩa mà thôi.”
Nhưng những người
khác thì cho rằng trừng phạt sẽ phản tác dụng. David Koh, chuyên
gia về Việt Nam ở Viện nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore, nói:
“Tôi nghĩ trừng phạt có thể đẩy Việt Nam gần hơn với Trung Quốc.
Nó có thể khơi dậy sự nghi ngờ trong cánh bảo thủ của Đảng
Cộng sản."
|
 |
Đối thoại,
thay vì trừng phạt, sẽ tốt hơn cho một Việt Nam đổi mới?
|
Trừng phạt cũng
khó làm cho người Việt Nam bình thường chấp nhận, ít nhất là
những người bên ngoài vùng Tây Nguyên (khu vực mà các phóng viên
vẫn rất khó tiếp cận). Những người Kinh chiếm đa số thường nói
họ lo ngại về tham nhũng, quyền sử dụng đất, y tế và giáo dục
kém. Nhưng ít ai than phiền về tự do tôn giáo.
Thích Giác Toàn,
phó khoa của Học viện Phật giáo Việt Nam, nói “chính phủ lo
ngại” một số nhóm tôn giáo. “Họ lo ngại những phần tử xấu được
sự hỗ trợ của chính quyền thù địch có dính dáng đến.”
Người Mỹ có thể
nghĩ những nỗi sợ ấy vô căn cứ. Nhưng nhiều người ở Việt Nam
không hiểu vì sao Hoa Kỳ lại chọn thời điểm này để áp đặt
trừng phạt vì tự do tôn giáo.
Một người Việt
trên 30 tuổi và từng học nước ngoài nói: “Đa số người Việt Nam
vẫn so sánh bản thân với cuộc sống của bố mẹ họ thập niên 70
và 80. Giờ đây họ có nhiều tự do, cả về mặt tôn giáo và cuộc
sống nói chung.”
Việt Nam đang dần
dần tự do hơn, nhưng có thể còn mất thêm thời gian trước khi bất
kì tổ chức nào, dù liên quan tôn giáo hay không, có thể chỉ
trích chính phủ mà không bị hại. Và biện pháp trừng phạt của
Mỹ vừa có thể thúc đẩy tiến trình nhanh hơn, nhưng cũng có thể
chỉ làm chậm đi tiến trình ấy mà thôi.
............................................................................................
Hương Lan, Hà
Nội
Tôi cho rằng nếu chính phủ Mỹ trừng phạt VN về vấn đề tôn giáo
trong thời điểm này là không có lợi cho hai bên. Bởi vì tình
hình tôn giáo ở VN đã cải thiện hơn. Thứ hai, như thế sẽ đẩy VN
lại gần Trung Quốc. Tôi đồng ý với quan điểm của ông David Koh.
Tôi thấy sự phát
triển của VN hiện nay đang hướng tới kinh tế thị trường, và trong
lớp trẻ thì hình thành một tầng lớp có tư duy tư bản chủ
nghĩa. Và những người dân bình thường cũng không nghĩ về quá
khứ với cuộc chiến với Mỹ. Hiện họ có ấn tượng tốt với Mỹ
nhiều hơn là TQ.
Phó thường dân
Không thể nói việc CS cho nhiều người đi chùa, nhà thờ là có tự
do tôn giáo. Thực tế có muốn ngăn cản tín đồ đi chùa cũng không
được, mà chính quyền cũng không ngu dại gì mà làm việc thô
thiển như vậy. Phải xem những gì CS đã làm với tôn giáo một
cách tinh vi hơn, như những luật lệ ban hành để kìm kẹp tôn giáo. |