Những Bài
Viết Của Phan Nhật Nam

Suốt hai năm nay
ẩn thân nơi chốn tuyết phủ, "nóc nhà nước Mỹ" nầy, quả t́nh tôi không muốn
dính dấp đến những chuyện "cặn bă tồi tệ", với người và việc trong tranh
chấp chính trị. Nhưng nay, nhân người bạn trở lại vụ việc cũ với câu hỏi:
"Làm sao năm 1995, ông bị gán cho tiếng "Việt cộng nằm vùng?!" mà kẻ
chụp cái nón cối kia không ai khác là những người cùng ông chung nơi xuất
phát, đồng tŕnh độ khả năng kỹ thuật quân sự và vị thế chính trị - những
người thuộc Hội Vơ Bị Đà Lạt!!" Tại sao đến nông nổi như thế? Tại sao?
Ngày 30 Tháng Tư,
1995, lên đường từ San Jose, chốn tôi đă đến Mỹ đầu tiên do bảo trợ của
Gia Đ́nh Mũ Đỏ, để trả phần nợ ân nghĩa đối với những người lính đă cùng
tôi sống, chết hết một đời người, tôi đi tiếp đến 38 nơi trên toàn thế
giới để nói với những cộng đồng Người Việt một điều tận cùng DẪU BỊ BÓ
TAY, BẺ SÚNG, CÙNG ĐÀNH THẤT TRẬN, NHƯNG CHÍNH CHÚNG TA - QUÂN LỰC VIỆT
NAM CỘNG HOÀ - LÀ NGƯỜI NHẬN SỨ MỆNH BĂO QUỐC AN DÂN TRƯỚC LỊCH SỬ DÂN
TỘC, VÀ ĐĂ PHẢI TRẢ GIÁ MỐI THỐNG HẬN KHÔNG HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ KIA BẰNG
MÁU VÀ MẠNG SỐNG CỦA M̀NH.
Những tưởng với
cố gắng như trên sau 30 năm "ở lính và ở tù", chí ít cũng làm cho
những người khắc nghiệt nhẫn tâm nhất phải nhận ra: Ḷng tôi trước sau
hằng sắc son thủy chung với một màu cờ đă chọn lựa từ buổi thanh xuân (mà
nay đang gần hết một đời người với tuổi quá 50) Nhưng tại sao, từ đâu đă
xẩy ra sự kiện ác độc bất công như trên? Chắc chắn phải có một trung tâm
quyền lực với những con người cực thâm hiễm điều hành một cách có hiệu quả
âm mưu lăng nhục, vấy bẩn, đánh phá tất cả không từ một ai. Thế nên, hôm
nay, tôi phải trở lại câu chuyện cũ để xác nhận một điều cay đắng CHÚNG TA
ĐĂ BỊ BỨC HẠI BỞI CHÍNH KẺ NỘI THÙ NGỤY TRANG TRONG ĐỘI NGŨ CHÚNG TA -
NHỮNG TÊN VIỆT CỘNG NẰM VÙNG.
I Màn kịch
dựng lên:
Trong nỗi thấm
nhục ră rời sau ngày 30 tháng Tư, 1975, khi lâm cảnh "hàng thần lơ láo"
tại những trung tâm "đăng kư tŕnh diện học tập cải tạo", chúng tôi c̣n
phải gánh chịu thêm t́nh trạng bàng hoàng của kẻ bị lừa gạt, khi nhận ra
những người hôm qua c̣n là "huynh đệ, bằng hữu", nay thoắt trở thành "cán
bộ" với những y phục xa lạ thô kệch, chiếc nón cối chùm hụp và đôi dép râu
quê mùa. Lẽ tất nhiên những kẻ nầy không quên đeo trên người khẩu K54 và
chiếc băng đỏ. Tôi và Triệt, người bạn cùng khoá, gặp Lưu Thừa Chí (cũng
chung khoá 18 Đà Lạt) trong t́nh thế bẽ bàng đáng hổ thẹn nầy. Chí ngồi
ghi danh người đến "đăng kư" với lon thượng úy- ba ngôi sao và một vạch
ngang, địa điểm trường Trần Hoàng Quân, Chợ Lớn. Thật sự, anh ta cũng có
vẻ ngượng khi Triệt hỏi gằn với cách mĩa mai¦ Mầy làm cái ǵ mà kỳ cục như
thế nầy? Ờ...ờ tại v́ kỳ làm ở Phong Dinh, tao có vài liên hệ với họ nên
bây giờ họ nói tao giúp trong buổi chuyển tiếp. Tôi đứng xa chỉ nghe Triệt
đến kể lại. Thôi kệ nó, mầy và tao lần nầy lại ở chung với nhau như mười
bốn năm trước trên trường Đà Lạt, chỉ khác bây giờ là trại tù việt cộng,
đất trời tính ghê quá, con người không biết đâu mà lường. Ngày 23 tháng 6,
1975, chúng tôi vào trại Long Giao, Long Khánh, câu chuyện về một người
gọi là "thiếu tá an ninh Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà mang lon thượng úy
cộng sản ngồi ghi danh anh em không ai muốn nhắc lại - V́ hiện tượng phăn
trắc đă lộ mặt và cùng khắp - tồi tệ hơn, những kẻ thay màu áo nầy hănh
diện với "sự nghiệp" tráo trở của ḿnh - thành tích "có công với cách
mạng". Chữ nghĩa được dùng với toàn bộ tính đê tiện khinh miệt nhất.
Tôi và Triệt mất liên lạc với nhau khi chuyển ra Bắc, sau chuyến đi địa
ngục trên tàu Sông Hương, khởi hành từ Tân Cảng, Sài G̣n, đúng Ngày Quân
Lực 19 tháng Sáu, 1976.
"Mười tám" năm
sau, thêm một lần "số 18" phải nhớ, 1994, tôi và Triệt lại gặp nhau ở
Houston, đường Beechnut. Hai chúng tôi đă thật sự ở tuổi già sau ba mươi
năm "tuổi tù và tuổi lính", nhưng Triệt vẫn giữ nguyên cách thẳng thắng
mạnh mẽ của người miền Nam như đang kỳ trai trẻ. Lần gặp gỡ bắt đầu với
câu hỏi gay gắt như đă chực sẵn từ lâu
 | Mầy nhớ vụ
thằng Chí khoá ḿnh ngày tŕnh diện năm 1975 không? |
 | Thằng Chí
thiếu tá an ninh quân đội, cũng là thượng úy việt cộng chứ ǵ? Tôi cũng
sẳng giọng không kém. |
 | Hắn qua Mỹ rồi
đó, HO2, đi trước khi mầy ở tù về, bây giờ đang ở DC, kỳ đại hội Vơ Bị
tháng 7 vừa rồi, nó có mặt trong ban tổ chức!! |
 | Mầy có giỡn
không, nó là việt cộng chính gốc, sao lại đi HO?! |
Câu chuyện được
kể lại với những chi tiết bất ngờ, cho dẫu kẻ có trí tưởng tượng phong phú
cũng khó lường phần bố cục.
Bắt đầu từ những
năm đầu của thập niên 80, một số ít sĩ quan miền Nam thuộc những đơn vị
chuyên môn như hành chánh tài chánh, quân cụ, quân nhu lần lượt được trở
về chịu sự quản chế của địa phương sở tại. Khoá chúng tôi do một may mắn
hiếm có (chỉ xẩy ra một lần với khoá 18), vào giai đoạn ra trường (cuối
năm 1963), khi chiến tranh tăng cường độ, tổ chức quân đội mở rộng nên cần
một số sĩ quan về các đơn vị chuyên môn. Những người may mắn nầy sau 1975
nhận thêm một lần "hên", họ được thả sớm hơn so với những người bạn ở các
đơn vị tác chiến, mà theo đánh giá của cán bộ cộng sản th́ món "nợ máu
của nhân dân" chia ra bốn cấp: "Nhất Pháo, nh́ Phi, tam Rằn Ri, tứ
Chính Trị". (Y Ùnói, lính pháo binh; phi công; biệt kích, nhảy dù,
biệt động, thủy quân lục chiến; và chiến tranh chính trị là những đơn vị
đứng hàng đầu tội phạm.) Nhóm sĩ quan may mắn của khoá 18 kia vào ngày 23
tháng 11, 1981 (kỷ niệm ngày măn khóa học mười tám năm trước, 23 tháng 11,
1963), tập trung tại nhà Nguyễn Ngọc Aønh, biệt thự gia đ́nh vợ, đường
Pasteur cũ. Mười mấy anh, chị lôi thôi, tơi tả v́ trận đ̣n thù từ 1975 đến
nay vẫn chưa hồi tỉnh, tính sổ lại 198 mạng của ngày măn khoá nay chỉ c̣n
không tới 20, với 50 người tử trận vĩnh viễn không về, mươi kẻ tỵ nạn,
vượt biên, số lớn c̣n lại hiện sống, chết không nên dạng người nơi các
trại tù trong Nam, ngoài Bắc. Trong giây phút mừng tủi của lần hội
ngộ, bỗng nhiên, Lưu Thừa Chí xuất hiện. Mọi người đồng im bặt. Sau cùng,
có người gắng gượng hỏi: Anh c̣n đến với chúng tôi làm ǵ? Tôi cũng đi cải
tạo như các bạn, ở trại Cây Trâm! Chí giả lă làm ḥa, hắn đưa ra Giấy Ra
Trại để làm bằng, và đề nghị được góp phần tiền lớn để cùng mua thức ăn,
đồ uống về chung vui buổi gặp mặt. Không khí hoá nên nặng nề, từng người
lặng lẽ rút lui.
- Mầy có mặt hôm
đó không? Tôi nôn nóng hỏi Triệt, cố t́m nên đầu mối.
- Có, năm đó tao
mới về, về được một tháng th́ Tết Tây.
- Thế th́ nó cũng
đi tù như bọn ḿnh sao?
- Tù chỗ nào, sao
mầy ngu vậy, thiếu tá an ninh quân đội th́ phải đi ra Bắc chứ; với lư lịch
an ninh quân đội th́ chẳng phải cần đến cấp tá, chỉ thiếu, trung úy hoặc
hạ sĩ quan nó c̣n t́m cớ để bắn chết không cần xét xử như trại ở Xuân
Phước, Tiên Lănh ngoài Trung. Thiếu tá an ninh quân đội nào để lại ở trại
Cây Trâm, B́nh Dương như thằng nầy?! Triệt gắt cao giọng lộ vẻ bực tức v́
tôi vẫn chưa rơ đầu mối câu chuyện.
- Trại Cây Trâm ở
đâu, ngày ở Long Giao không nghe ai nói đến.
- Đó là trại tụi
h́nh sự, cũng có sĩ quan, nhưng chỉ có cấp thiếu, trung úy, mà là thành
phần gây vụ việc sau 1975, chứ không là đám tập trung tháng 5, tháng 6,
năm 75 như bọn ḿnh.
- Rồi sao nữa?
Tôi ngao ngán.
- Sao nữa, đ. m
nó đi HO2 trước hơn ai hết, kỳ đại hội 7 vừa rồi ở DC, nó góp 1000 đồng
cho ban tổ chức.
- Tiền đâu mà một
thằng HO có ngay một ngàn để đóng?!
- Mầy t́m nó mà
hỏi!! Triệt gầm gừ chấm dứt câu chuyện với cách chưởi thề chậm răi từng
tiếng một.
II Những
"kép độc" cũ kỷ.
Những nhân sự như
Lưu Thừa Chí kể trên sẽ măi măi ở trong bóng tối với khả năng tầm thường,
đối tượng công tác hạn chế riêng của nó, và giá như bị phát hiện (như đă
từng bị nhận ra lư lịch), th́ cũng chỉ được giải quyết bằng biện pháp
"đóng cửa dạy nhau", coi như trường hợp "xử lư nội bộ" (nói theo cách cộng
sản), bởi người phe quốc gia vốn dễ tính, không chấp nhất đối với những kẻ
tráo trở, bội phản, cũng do những kẻ nầy lỡ đă một lần là bạn bè cùng
khóa, cùng hội, cùng trường. Nói ra sợ "xấu hổ cả đám". Nhưng, v́ năm 1994
kia, tôi mới qua Mỹ được mấy tháng, ḷng c̣n đang sôi sục "những chuyện
cần được kể lại", với ư hướng "ngây thơ" - người bên ngoài cũng
đang muốn nghe về những câu chuyện kia - dẫu những vụ việc nói ra gây
nặng ḷng, cau mặt. Ngày 23 tháng 4, 1995, đúng hai mươi năm im lặng, tôi
trở lại công việc đă bị người cộng sản bắt gián đoạn - Tiếp tục bản tường
tŕnh tưởng như huyền thoại về "NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM LÀ MỘT NHIỆM MẦU"-
chuyện kể chưa có hồi kết thúc trong Mùa Hè Đỏ Lửa, Tù Binh Hoà B́nh của
hơn hai mươi năm trước, với bài viết "Sứ Mệnh Người Lính Việt Nam",
mà chương "Nh́n Rơ Địch T́nh" là một cáo trạng chính xác, đầy đủ về
tổ chức t́nh báo, gián điệp cộng sản gài nhân sự trong hệ thống công
quyền, quân đội miền Nam và hiện nay ở hải ngoại, nơi những cộng đồng Việt
Nam, từ Paris, Sydney, Montreal và chính yếu ở California, Texas, vùng tập
trung số đông người Việt. Bài viết cần có những dẫn chứng cụ thể về người,
áp dụng cho từng trường hợp, với mỗi đối tượng tác động, tại những giai
đoạn đặc biệt của loại công tác, thế nên, tôi phải nại đến những cá nhân
như, Thái Quang Chức, thiếu tá hải quân thuộc Bộ Tư Lệnh Vùng IV Sông Ng̣i
ở Mỹ Tho, Trần Trung Phương, đại úy Biệt Đội Điện Tử Sư Đoàn Dù, Đinh Văn
Đệ, đại tá tỉnh trưởng B́nh Thuận, tay chân cật ruột của Nguyễn Văn Thiệu,
đă được xếp đặt vào vị trí trưởng ban ngân sách quốc pḥng hạ viện, lo
phần tài chánh cho quân đội Miền Nam. Danh sách sẽ được kéo rất dài nếu có
đủ thời lượng tŕnh bày. Bài viết có ngay phản ứng. Cần phải mở một ghi
chú quan trọng ở đây: Những người dậy nên phản ứng thuộc về hàng ngũ
chúng ta - chính là chúng ta - Tôi không hề ám chỉ họ là "phe địch" hoặc
làm lợi cho cộng sản!! Nhưng chính điều ghi nhận nầy làm nổi lộ phần
tác hại hiểm độc của đám Việt cộng nằm vùng. Bắt đầu, một ông thuộc khoá 8
Đà Lạt trong một buổi họp của tổ chức cựu quân nhân ở Houston, Texas tuyên
bố :"Phan Nhật Nam đề cao cộng sản, phủ nhận cờ quốc gia"; và những
tờ báo "chợ" ở địa phương nầy đi tiếp loạt bài: "Phan Nhật Nam phủ nhận
quốc kỳ", với trích đăng câu: "chúng ta là những người người lính
không c̣n quân, quốc kỳ", của bài viết dài 36 trang, trong đó có những
khẳng định chung kết: "Phần chúng ta, Người Lính Miền Nam dẫu không đi
hết bổn phận đến ngày toàn thắng. Nhưng chính chúng ta chứ không ai khác,
đă làm làm đúng chức năng cao quư "BĂO QUỐC AN DÂN". (Những Chuyện
Cần Được Kể Lại. PNN xuất bản, Houston 1995, trang 1-8). Hoặc: Thế
nhưng, chúng ta vẫn chiến đấu - Người Lính Việt Nam là Một Nhiệm Mầu. (Mùa
Đông Giữ Lửa, PNN xuất bản, Cali 1996, trang 146). Những "bài báo chợ"
kia biến thành "tài liệu đáng tin cậy" được photocopy (ai thực
hiện?) gởi đến những địa điểm tôi "sắp đi tới", những chốn đông đảo
người Việt, những người vốn có hảo ư, quư mến cá nhân tôi, mời đến sinh
hoạt, lẽ tất nhiên những bằng hữu, chiến hữu thân quen cũng không lọt ra
khỏi danh sách người nhận. Và những cú điện thoại viễn liên gọi tới tấp
(ai gọi?) ngay trong đêm hôm trước ngày tôi sẽ đến một thành phố.
Chiến dịch có liền hiệu quả. Một ông chức sắc lớn trong Tổng Cục Chiến
Tranh Chính Trị (tất nhiên của QLVNCH) đi một bài báo dài nhiều kỳ với chủ
điểm: "Vạch mặt tên "nằm vùng" (PNN) đội lốt "chiến sĩ QLVNCH".
Cũng phải nói ra một điều khó tin nhưng có thật: Nếu kết án tôi tội "nằm
vùng" như trên, th́ trước tiên, Đại Tá Trần Ngọc Huyến, chỉ huy
trưởng, toàn bộ ban tham mưu, cán bộ của trường phải liên đới trách nhiệm
về quá tŕnh đào tạo tôi trở thành một tay "nằm vùng" siêu đẳng,
giỏi giang đến như thế!! Nghĩa là, cũng chính ông ta, v́ giai đoạn 1960
-1963, nhân vật "nhà văn quân đội lăo thành" nầy là sĩ quan chiến
tranh chính trị của trường, có nhiệm vụ dạy dỗ tôi về kinh nghiệm "chiến
tranh chính trị". Hoặc điển h́nh, lần sinh hoạt ngày 11 tháng 6, 1995 do
Đào Quang Vinh (khóa 19 Đà Lạt, phi công C130 Sư đoàn 5 Không Quân, Tân
Sơn Nhất) tổ chức tại Florida, trước giờ khai mạc, pḥng họp vắng mặt gần
như toàn thể các sĩ quan gốc trường Đà Lạt của địa phương, gờn gợn không
khí của buổi "huyết chiến", duy chỉ có Hổ, Cang, khoá 17, và anh Lê Minh
Ngọc, khoá 16 đến với tôi và Vinh, (có lẽ nhóm nằm vùng biết được rằng,
các anh là những người gần gũi thân thiết với tôi (khoá 18), bởi cùng
chung trường suốt thời gian dài, lại là huynh trưởng, chỉ huy trực tiếp
tôi ở nhảy dù; anh Lê Minh Ngọc, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 Dù; Cang và
tôi cùng Tiểu Đoàn 9. Hệ quả của "vận động ngầm" không hạn chế
trong nước Mỹ, mà kéo dài xuống đến Sydney, Melbourn ở Uøc; lên tới
Montréal, Québec, Toronto, qua Paris, Luân Đôn. Và không chỉ xẩy ra, gây
tác động trong 1995, nhưng măi đến 1996, 97, 98, và nếu như bây giơ, tôi
lại "xuống đường", th́ "tổ chức" cũng sẽ bắt đầu khởi động. Tháng 7, 1997
tại Bỉ, buổi nói chuyện của tôi với Thế Hệ Vơ Bị Thứ Hai (các con em của
Gia Đ́nh Vơ Bị) không được kể vào chương tŕnh sinh hoạt của Đại Hội Vơ Bị
Liên Hội Tây Âu, thậm chí tên tôi không được ghi vào danh sách khách tham
dự đại hội, dẫu đích thân Nguyễn Văn Giám, Khoá 19, người tổ chức đại hội
đă qua Paris mời tôi đến Bỉ.
III Phần Kết.
Tôi đă quá
tuổi để bắt đầu một dự định mới, cho dẫu kế hoạch dự trù ấy
cần thiết, cấp bách đến bao nhiêu, bởi thời gian c̣n lại không cho phép và
việc chưa hoàn tất lại quá nhiều. Đồng thời hiểu rơ khả năng, khuynh hướng
của bản thân có những hạn chế để không thể nào làm nhiều việc một lúc
được. Nhưng bổn phận chỉ đích danh những cá nhân tác hại điển h́nh như
LTChí kể trên (hiện tràn lan khắp cộng đồng Người Việt hải ngoại) quả thật
không thể tŕ hoăn và khoan thứ, v́ đây không là "liên hệ giữa những cá
nhân", nhưng là sự tồn vong sinh mệnh chính trị của một tổng thể rộng
lớn - Không phải chỉ khối Người Việt Miền Nam mà là toàn Việt Nam khổ nạn.
Bởi chúng ta, Người Việt Không Cộng Sản, Không bao giờ là đảng viên
cộng sản - đă lần lượt thua những trận quyết định liên quan đến vận
mệnh toàn dân tộc, lần tháng 8, 1945, lần 20 tháng 7, 1954, và cuối cùng
30 tháng 4, 1975. Và nếu chúng ta không điều chỉnh sách lược (mà thật sự
đang vô cùng thuận lợi và nhiều khả năng) để NH̀N RƠ ĐỊCH T̀NH th́ e rằng
khí thế của lần Cali Vùng Dậy Cờ Vàng 1999 sẽ trở nên vô ích, gây tàn lụi
nguồn hy vọng bức thiết từ Xuân Lộc, Long Khánh, Thái B́nh. Chúng ta sẽ
măi măi là "Người Việt cay đắng xấu xí" trước mắt thế giới do âm
mưu từ một kẻ nội thù hiễm độc. Nhưng, cũng phải nói rơ thêm một lần hay
bao nhiêu lần mới đủ: Đây là LỖI TƯ Ø CHÚNG TA cứ sẵn khắc nghiệt cáo
buộc, tranh chấp cùng nhau để rănh tay cho kẻ thù đồng nghĩa tiếp tay kẻ
nghịch, bức hại anh em, để cuối cùng bản thân ta đơn độc nguy khốn v́ lẽ
đă tự tay phá hũy vũ khí đoàn kết của chính ḿnh.
Những gịng
viết đầu mở đầu thế kỷ
Rằm Tháng Giêng, Năm
2000,
Minnesota,
Phan Nhật Nam
* * *
Bài 2.
Người bạn thân
hỏi với cách thành thực: Cớ sao thân danh ông như thế mà đi dặt vấn đề với
một tên bá vơ nào đó gọi là Lưu Thừa Chí làm ǵ?! Trước câu hỏi nầy, tôi
phải kêu khổ đến bao lần mới đủ?! Bởi quả thật, từ năm 1963, ngày ra
trường Đà Lạt đến nay, tôi có một tiếng lời nào trực diện với y ta, ngoài
hai dịp thấy thoáng qua, một lần họp khóa ở Câu Lạc Bộ An Đông năm 1969,
và lần tŕnh diện tại trường Trần Hoàng Quân năm 1975 như đă nói ở phần I
của loạt bài chém treo ngành tập đoàn cộng sản nằm vùng nơi hải ngoại hôm
nay nầy. Thế nên, ngoài mối liên hệ đồng khoá để vô t́nh giúp tôi biết rơ
ngọn ngành của gă, chứ giả thử như y có là thiếu tướng hay cấp bực, chứùc
vụ ǵ đi chăng nữa, cá nhân tầm phào nầy đâu đáng ǵ để bàn tới trong
tương quan giữa tôi và bằng hữu bạn đọc - mối liên hệ đồng cảm đă được xác
chứng và tin cậy hơn ba mươi năm qua. Nhưng khổ thay, cá nhân vô danh kia
là một NHÂN TỐ CỦA CỤC T̀NH BÁO HẢI NGOẠI TRONG GIAI ĐOẠN ĐẤU TRANH QUYẾT
LIỆT CUỐI CÙNG NẦY. HẮN TA KHÔNG ĐẾN MỸ MỘT M̀NH - HẮN ĐẾN MỸ VỚI NHỮNG
ĐỒNG CHÍ, ĐỒNG SỰ CỦA 30, 40 NĂM CÔNG TÁC KHÔNG ĐỨT ĐOẠN. Sau đây là xác
chứng lư lịch của những Lưu Thừa Chí và đồng nghiệp vụ của y.
I Vụ Thứ Nhất
.
Ba mươi khoá Đà
Lạt, trước và sau khoá 18 (khoá chúng tôi bao gồm LTChí), không hề có
trường hợp: Thiếu úy tốt nghiệp trường Đà Lạt được chọn đi ngành An
Ninh Quân Đội ngay lúc măn khóa. Bởi, sĩ quan ngành t́nh báo nầy
phần đông, nếu không nói hầu hết do ngành an ninh tuyển chọn từ các đơn
vị, được huấn luyện ở những trung tâm quân báo, t́nh báo trong nước và
ngoại quốc, sau một quá tŕnh sưu tra an ninh đặc biệt (thời Đệ Nhất Cộng
Hoà, trách nhiệm sưu tra thuộc một bộ phận của Văn Pḥng Nghiên Cứu Chính
Trị của cố vấn Ngô Đ́nh Nhu.) Thế nên, sự kiện viên thiếu úy tên gọi Lưu
Thừa Chí được tuyển chọn đi ngành an ninh quân đội từ ngày 23 tháng 11,
1963, không thuộc thẫm quyền chỉ định của ban tham mưu Trường Vơ Bị, cũng
không thuộc Pḥng Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH Â Nó xuất phát từ
cấp độ cao hơn. Cao đến chỗ nào, chúng ta không thể biết, cũng không hề có
khả năng được biết những "bí mật quốc gia" từ dinh tổng thống, dinh
thủ tướng, bộ quốc pḥng- Những "bí mật" hằng được đám t́nh báo
chiến lược Việt cộng nắm rơ đầu mối, ngọn nguồn. Chúng tôi không hề quan
trọng hoá một sự kiện nhỏ nhặt, v́ sau nầy, khoảng năm 1972, Chí để lộ cơ
sở công tác: Y thả một nữ cán bộ cộng sản bị bắt giam tại Ty An Ninh Quân
Đội Phong Dinh, âm mưu vỡ lỡ, Trung Tá Nguyễn Hữu Khiếu, Tiểu Khu Phó thụ
lư nội vụ. Chí cầu cứu với Trung Tá Khiếu với lư lẽ: "Bị mê hoặc bởi sắc
đẹp cô gái, chứ không phải do công tác nội tuyến". (Trung Tá Khiếu nay ở
Montréal, kể lại câu chuyện nầy với Hội Vơ Bị địa phương ngày 20 tháng 10,
1996, có cá nhân tôi tham dự; năm 1960 1963, ông Khiếu là đại úy dạy vũ
khí ở trường Đà Lạt). Do bản chất trung hậu, và cũng có phần tin, "Chí lỡ
dại gái do dáng dấp quê kệch, xấu trai" nên ông Khiếu che chở Chí v́ t́nh
thầy tṛ ở giai đoạn 1972 kia. Nhưng, sau nội vụ, do từ một "gốc" lớn nào
đó ở Sài G̣n, Chí đă không bị phạt lại được thăng cấp và chuyển về Sài G̣n
lo an ninh, phăn t́nh báo trong cộng đồng người Hoa. Chí cũng có thể đọc
là Liêu thay v́ Lưu, vốn gịng Minh Hương, người Việt gốc Hoa.
II- Vụ Thứ Hai.
Năm 1957 - xin
nhắc lại, trước năm 1975 mười tám năm, trước vụ việc Lưu Thừa Chí như vừa
kể trên gần một thập kỷ- một thanh niên tuổi chưa tới hai mươi, lội sông
Bến Hải vượt tuyến vào Nam. Anh ta đến khai cùng đồn cảnh sát Gio Linh là
em ruột của viên tướng tư lệnh quân khu 2, đóng tại Huế. Viên tướng cho
người ra đón em, đem về hỏi lư do vượt tuyến. Anh thanh niên tỏ bày, v́ do
anh là tướng lănh miền Nam, nên gia đ́nh ngoài Bắc bị vây khổn chính trị
ngặt nghèo, bản thân anh ta không được đi học và chịu cảnh sống cơ cực
kinh tế, hoặc người anh cả (anh ông tướng), vốn là trung tá binh chủng
pḥng không không quân bộ đội Miền Bắc, dẫu có công trận lớn vẫn không
được thăng cấp. Được anh nuôi ăn học, người thanh niên sau bậc trung học,
t́nh nguyện đi lính với hoài băo nói ra lời: "cũng muốn được sự nghiệp
vinh quang trong quân đội như anh". Anh ta tốt nghiệp khoá sĩ quan trừ
bị Thủ Đức, đổi về binh chủng hải quân, Bộ Tư Lệnh Vùng 4 Sông Ng̣i ở Mỹ
Tho. Những năm 70, anh lên thiếu tá, được mệnh danh là "VC Killer", do
thành tích, cuối mỗi cuộc hành quân, kéo xác Việt cộng sau tàu chạy dọc
bến sông để biễu dương ư chí "chống cộng"!! Những ngày cuối tháng 4, 1975,
viên tướng cho người em út, phó quận hành chánh quận Tân B́nh, Gia Định về
Mỹ Tho, kêu vị thiếu tá "vc killer" về Sài G̣n để cùng gia đ́nh lớn đi Mỹ.
Thiếu tá "vc killer" mạnh mẽ khẳng định với người em: "Tui chỉ là thiếu
tá (cho dù là thiếu tá "vc killer"), chú là quốc gia hành chánh, có ǵ mà
phải sợ "cách mạng", ông ấy là tướng mới cần đi Mỹ, c̣n chú với tôi th́ ở
lại "xây dựng đất nước", ḥa b́nh, thống nhất rồi, ta c̣n mong ước ǵ hơn".
Sau 30 tháng Tư , 1975, thiếu tá "vc killer", người em quốc gia hành chánh
đồng "hồ hỡi, phấn khởi tŕnh diện học tập cải tạo". Người em vào trại
Long Thành, Biên Ḥa; thiếu tá "vc killer " ra Trại 1, Đoàn 776, xă Việt
Hồng, Hoàng Liên Sơn. Gặp tôi đi vác nứa giữa đường vào Cốc, thiếu tá "vc
killer" đưa tay ngoắt thân ái và hỏi thăm về người em quốc gia hành chánh
- cũng là em rể, lấy người em gái tôi, Phan Ph.Kh. Một năm sau, khoảng mùa
Hè 1977, một cán bộ mặc thường phục từ Hà Nội đến bộ chỉ huy đoàn 776, gặp
viên chính ủy đoàn. Thiếu tá "vc killer" ra khỏi trại, về Ban-Mê Thuộc
hành nghề giữ xe đạp với căn cước mới: "thiếu tá ngụy quân học tập tiến
bộ, trở về do chính sách khoan hồng nhân đạo của cách mạng". Chỉ có
một điều không ghi vào lư lịch, ấy là, đối tượng công tác của thiếu tá
"hải quân ngụy - vc killer" trong giai đoạn mới là những ai. Hoặc là thành
phần, "Fulro phăn động đang âm mưu nổi loạn ở Tây Nguyên", cũng có
thể là đám cán bộ cộng sản mới được bố trí vào Tây Nguyên mà thành phần
chưa đồng nhất, nên cần phải theo dơi, báo cáo công tác theo hệ thống
riêng của Cục Bảo Vệ Chính Trị thuộc quyền chỉ huy trực tiếp duy nhất của
Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng- Cơ quan bao trùm cả Bộ Nội Vụ, lẫn Cục T́nh
Báo Hải Ngoại.
Thiếu tá
"VC Killer", hay là người thanh niên vượt tuyến Thái Quang Chức; người anh
cả, Trung Tá Thái Quang Hồng, binh chủng Pḥng Không Không Quân bộ đội
miền Bắc; người anh thứ, Thiếu Tướng Thái Quang Hoàng, Tư Lệnh Quân Khu 2
- Những con người và lư lịch của năm 1957. Từ năm ấy đến nay, trên đất
nước Việt Nam, nơi hải ngoại, hằng vạn, triêu người đă chết. Chỉ một số
c̣n sống, nhưng vẫn "giữ nguyên bí số" - Những người như Thái Quang
Chức, Lưu Thừa Chí và rất nhiều - rất rất nhiều nữa - những kẻ vô danh,
tầm thường, chuyển công tác theo "hệ thống ngang - từ nhân viên Cục
Bảo Vệ Chính Trị nên thành nhân viên Cục T́nh Báo Hải Ngoại - dưới quyền
chỉ đạo nhất quán thuộc "hệ thống dọc bất khả thay thế": Ban Tổ
Chức Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tôi có
thể kể dài hơn nữa. Nhưng quả thật đă quá đỗi muộn màng. Đă quá đỗi cay
đắng. Tại sao chúng ta? Tại sao chúng ta?
III- Kết
luận khẩn cấp.
Bắt đầu mùa Hè
năm 1990, chương tŕnh ODP được thực hiện với đối tượng cựu tù nhân cải
tạo qua kế hoạch H (Chỉ danh nầy bị hiểu nhầm một cách có ư nghĩa thành
HO), cá nhân tôi cũng nộp hồ sơ theo thủ tục chung tại Trung Tâm Xuất Nhập
Cảnh 333, Nguyễn Trải, Sài G̣n (Trước Tổng Nha Cảnh Sát đường Vơ Tánh cũ).
Sau thời gian chờ đợi, trung tâm trả lời trả lại hồ sơ với lư do: "trên
chưa có quyết định về những trường hợp thuộc diện như cá nhân tôi".
Sau vài lần vượt biên không thành, hơn nữa các trại tỵ nạn cũng đang thực
hiện kế hoạch đóng cửa, nhạc mẫu tôi thử cố gắng thêm một lần nhân chuyến
ra Bắc thăm họ hàng, với đầu mối - Trung Tâm Trung Ương, Cục Xuất Cảnh, Bộ
Nội Vụ, 40 A Hàng Bài Hà Nội. Trung tâm ra giá, 500.000 đồng tiền Việt, cụ
tặng thêm 100.000 đồng cho nhân viên làm biên lai thâu nhận hồ sơ. Ngày
hôm sau, trung tâm Hàng Bài trả lại hồ sơ với lư do tương tự như của đường
Nguyễn Trải. Cuối cùng, HĐNgoạn và PĐVượng, (hai người bạn thân, biết hầu
hết mọi nhân sự và vụ việc của Sài G̣n trước lẫn sau 1975, do đường giây
giang hồ riêng) chỉ cho tôi đến điạ chỉ 206 Nguyễn Trải, bên cạnh rạp chớp
bóng Khải Hoàn, sát cổng xe lửa số 1.
Cơ sở không bảng
hiệu, nhân viên mặc thường phục đón khách với thái độ "chúng tôi đă
biết rơ tất cả ". Mà quả thật như thế, người tiếp tôi bắt đầu với câu
chào "anh Nam có mạnh khỏe không ?"; anh ta đứng dậy, mở tủ, nói
với vẻ tự tin: "tôi biết anh nhiều lắm!!". Người thanh niên tiếp
đưa ra Chứng Chỉ Nhảy Dù do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn Nhảy Dù cấp,
Trung Tá Trần Văn Vinh ấn kư, với lời giới thiệu: "Trung úy Trần Trung
Phương, gốc đại đội 33 Tiểu Đoàn 3 Dù, và đơn vị cuối, Biệt Đội Quân Báo
Điện Tử sư đoàn". Nhưng, Trần Trung Phương không chỉ là "sĩ quan nằm
vùng nơi Biệt Đội Điện Tử Sư Đoàn Dù", mà c̣n là "nhân viên đặc vụ
của sở phản gián Bộ Nội Vụ cộng sản", nên anh ta đă có kết luận mau
chóng: "Tôi có thể làm hồ sơ để anh ra khỏi nước trong ṿng tám tháng
là tối đa, gia đ́nh anh tại Mỹ trả 2000 đô-la cho người chúng tôi bên đó,
và thêm một vài điều kiện khác..v..v". Lẽ tất nhiên, tôi không thể
thực hiện những đề nghị của Phương, từ 2000 đô-la đến những "điều kiện
khác". Sau nầy, năm 1993, để giúp một người quen giải quyết một khó
khăn tương tự, tôi đi t́m TTPhương ở địa chỉ mới, một văn pḥng trong
khách sạn góc đường Nguyễn Văn Trỗi (Cách Mạng cũ) và Trần Quang Diệu.
Nhân viên văn pḥng nầy cho biết Phương đă có mặt ở Nam Cali, vùng
Westminter với nhiệm sở mới là một văn pḥng dịch vụ du lịch.
Những băi đáp
đỗ quân, vị trí hỏa tập tiên liệu, tọa độ dội bom B52 của Sư Đoàn Nhảy Dù
trong chiến dịch Hạ Lào Lam Sơn 719 đă bị quân báo cộng sản giải mă từ
nhiều đầu mối. Một trong những đầu mối hiểm nghèo kia có sự tham dự
rất tích cực và hiệu quả từ Biệt Đội Điện Tử và Pḥng Hành Quân của sư
đoàn. Và tại cơ quan hành quân tối mật nầy đă không cần đến một "sĩ
quan nằm vùng" với cấp bậc trung úy như TTPhương, nhưng chỉ cần một
hạ sĩ quan vẽ phóng đồ hành quân - viên Hạ Sĩ Nhất mà tôi đă từng thấy
mặt, luôn làm việc im lặng, chăm chỉ của Pḥng Ba khi đơn vị c̣n mang
phiên hiệu Lữ Đoàn Nhảy Dù, năm 1963. Ngày 30 tháng 4, 1975 viên hạ sĩ
quan nầy hướng dẫn Trung Tá Nguyễn Văn Tư , Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh
Sư Đoàn qua Camp Davis, Tân Sơn Nhất gặp cán bộ cộng sản để bàn giao hồ sơ
trận liệt của đơn vị mà y đă lưu giữ, cập nhật hằng mười, hai mươi năm
qua.
LỜI KHẨN
CẦU VIẾT VỚI GIÁ MÁU
Tôi đă quá
tuổi để bắt đầu một dự định mới, cho dẫu kế hoạch dự trù ấy cần thiết, cấp
bách đến bao nhiêu, bởi thời gian c̣n lại không cho phép và việc chưa hoàn
tất lại quá nhiều- Nhưng tôi phải có bổn phận chỉ đích danh những cá nhân
tác hại điển h́nh như LTChí, TTPhương, TQChức, những viên hạ sĩ quan,
những công an cộng sản (đi theo diện "ghép" với những gia đ́nh HO, ODP)
như vừa kể trên (hiện tràn lan khắp cộng đồng Người Việt hải ngoại)- Một
nhiệm vụ không thể tŕ hoăn và khoan thứ, v́ đây không là sự việc "liên
hệ giữa những cá nhân", nhưng là sự tồn vong "sinh mệnh chính trị"
của một tổng thể rộng lớn - Không phải chỉ khối Người Việt Miền Nam mà là
toàn Việt Nam khổ nạn. Bởi chúng ta, Người Việt Không Cộng Sản - Không bao
giờ là đảng viên cộng sản - đă lần lượt thua những trận quyết định liên
quan đến vận mệnh toàn dân tộc, lần tháng 8, 1945, lần 20 tháng 7, 1954,
và cuối cùng 30 tháng 4, 1975. Và nếu hôm nay, chúng ta không điều chỉnh
sách lược (mà thật sự đang vô cùng thuận lợi và nhiều khả năng) để NH̀N RƠ
ĐỊCH T̀NH th́ e rằng khí thế của lần Cali Vùng Dậy Cờ Vàng 1999, những Đêm
Tuổi Trẻ Thắp Nến sẽ trở nên vô ích, gây tàn lụi nguồn hy vọng bức thiết
từ Xuân Lộc, Long Khánh, Thái B́nh. Chúng ta sẽ măi măi là "Người Việt
xấu xí" trước mắt thế giới do âm mưu từ một kẻ nội thù hiễm độc.
Nhưng, cũng phải nói rơ thêm một lần hay bao nhiêu lần mới đủ: Đây là LỖI
TƯ ØCHÚNG TA. Cứ sẵn khắc nghiệt cáo buộc, tranh chấp cùng nhau để rănh
tay cho kẻ thù, CŨNG ĐỒNG NGHĨA VÔ T̀NH tiếp tay kẻ nghịch, bức hại anh em
- với "biện pháp cuối cùng và độc nhất" - cáo buộc người bạn là "cộng
sản", do sau khi đă không t́m ra được nơi bạn ḿnh một lỗi lầm nhỏ nhặt
khả thể nào. Cuối cùng, chính bản thân ta đơn độc nguy khốn, v́ lẽ đă
tự tay phá hũy vũ khí đoàn kết của chính ḿnh. Đau đớn bao nhiêu. Uất hận
bao nhiêu.
phannhậtnam