BỆNH LOÉT
BAO TỬ VÀ VI TRÙNG H. PYLORI
Bác
sĩ Từ Phấy
Kỳ này, mời quí độc giả đọc bài viết của
Bác sĩ Từ Phấy, về bệnh loét bao tử cùng nguyên nhân gây bệnh.
Bác sĩ Nguyễn Văn Đức
Bệnh loét bao tử
Bệnh loét bao tử có từ
xa xưa và nhiều nhân vật trứ danh trong lịch đă từng bị bệnh này, trong đó
có Tướng Napoleon Bonaparte của nước Pháp. Ngày nay, nhiều người vẫn chưa
hiểu rơ nguyên do của bệnh và vẫn giữ những quan niệm xưa đối với chứng bệnh
này.
Người mắc bệnh loét
bao tử thường đau bụng trên, nhất là khi đói và phải uống sữa hay chất kháng
acid để dịu bớt cơn đau. Cơn đau có khi mănh liệt như dao cắt trong bụng đến
nỗi toát mồ hôi. Bệnh này cũng có lúc làm đi chảy, đầy hơi và śnh bụng.
Bệnh loét bao tử lâu năm c̣n đưa đến những nguy hiểm khác như lủng bao tử và
xuất huyết nội. Hai trường hợp đó cần phải giải phẫu khẩn cấp.
Nhưng nguyên nhân của
bịnh loét bao tử là do đâu? Xưa nay, người ta vẫn nghĩ là do di truyền, căng
thẳng tinh thần (stress), hoặc do các loại thức ăn kích thích bao tử tiết ra
nhiều chất chua như gia vị, ớt và cà phê mà sinh ra lở loét bao tử. Bệnh
này dù có điều trị vẫn hay tái phát. Họ kết luận là: “No acid, no ulcer,
once an ulcer, always an ulcer”.
Thuốc bao tử thần tiên
Cách điều trị bệnh
loét bao tử thời bấy giờ gồm nghỉ ngơi lâu dài, ăn kiêng nhạt, thuốc kháng
acid, thuôc chống cholinergic và đôi khi phương pháp giải phẫu.
Măi đến 1964, nhà bác
học Sir James W. Black nước Anh khám phá ra thuốc Tagamet được coi như thuốc
thần dược đối với bịnh loét bao tử. Thuốc Tagamet ngăn chặn sự sản xuất chất
acid của bao tử và rất công hiệu khi dùng để chữa bệnh loét bao tử. Bệnh
được chữa khỏi trong một thời gian ngắn 4 tuần lễ. Nhiều năm sau đó thuốc
Omeprazole hữu hiệu hơn thuốc Tagamet trong việc ngăn chặn chất acid của bao
tử được khám phá năm 1978 và được bán trên thị trường Hoa Kỳ năm 1989.
Lư thuyết nguyên nhân
của bệnh loét bao tử “No acid, no ulcer” đó càng vững vàng và gần như không
ai chống đối. Nhưng chẳng may, gần như 24-25% trường hợp bệnh loét bao tử bị
tái lại trong ṿng một năm, bịnh loét bao tử không bao giờ được trị dứt hẳn
ḥi!
Khám phá của Bác sĩ Barry Marshall
Năm 1982, Bác sĩ bệnh
lư Robin Warren tại Bệnh Viện Royal Perth Hospital ở Úc châu nhận thấy qua
kính hiển vi, những sinh thiết trong bao tử của những người bị bệnh loét bao
tử có một con vi trùng, h́nh dáng xoắn như ḷ xo.
Ông nghi con vi trùng
đó gây ra viêm bao tử. Nhưng ông bị nhiều đồng nghiệp chế diễu v́ mọi người
đều biết là không một vi trùng nào có thể sinh tồn được nơi môi trường acid
của bao tử. Lúc bấy giờ phương pháp nội soi endoscopy do người Nhật phát
minh ra khoảng 1950-1960 đang bắt đầu được xử dụng rộng răi bởi các bác sĩ
chuyên khoa bộ tiêu hóa để kiểm tra, nhận xét thành vách bao tử và rút dịch
bao tử để thử nghiệm. Vào khoảng thời gian đó, có một bác sĩ trẻ mới ra
trường, tên là Barry Marshall, 32 tuổi, đang thực tập ngành tiêu hóa và đang
t́m một đề tài nghiên cứu. Ông bèn hợp tác với Bác sĩ Robin Warren. Sau ba
tháng làm việc trên bao nhiêu người mắc bệnh loét bao tử ông đều thấy con vi
trùng đó trong nước dịch lấy từ bao tử bằng nội soi endoscopy, nên ông cho
rằng chắc chắn con vi trùng đó có liên quan tới bịnh loét bao tử.
Cũng vừa lúc đó, ông
có một bệnh nhân bị bệnh loét bao tử vừa bị sưng phổi. Bệnh nhân này được
điều trị bằng thuốc trụ sinh. Bệnh sưng phổi được trị khỏi và bệnh loét bao
tử cũng lành. Bác sĩ Marshall rất là ngạc nhiên, quả quyết con vi trùng xoắn
trong thành vách bao tử đó là nguyên nhân chính gây ra bịnh loét bao tử. Để
chứng minh lư thuyết đó, ông đă uống dung dịch chứa đầy rẫy những vi trùng
xoắn rút ra từ bao tử của những người mắc bệnh này. Quả nhiên hai tuần sau,
ông trở bệnh rất nặng v́ bị đau trong bao tử, ói mửa, đi tiêu chảy, và kém
ăn. Ông nhờ bạn đồng nghiệp soi bao tử th́ kết quả cho thấy thành bao tử bị
sưng và nước dịch trong bao tử cũng thấy những con vi trùng xoắn đó. Sau đó
ông tự chữa bằng thuốc trụ sinh th́ bênh lành. Sự lành bệnh được xác nhận
bởi nội soi bao tử.
Từ đó, ông đi thuyết
tŕnh khắp nơi để thuyết phục y giới loét bao tử là do con vi trùng xoắn gây
ra. Con vi trùng được đặt tên là Helicobacter pylori (Vi Trùng Xoắn Cuống
Bao Tử). Nhưng v́ ông là một bác sĩ trẻ mới ra trường chưa có uy tín, và
thời bấy giờ y giới vẫn quan niệm loét bao tử là do nhiều chất chua trong
bao tử gây ra, cho nên không ai tin những thuyết tŕnh của ông. Măi đến gần
hơn 10 năm sau, những nhà bác học khác trên toàn cầu lần lần thử nghiệm lại
th́ mới xác nhận lư thuyết của Bác sĩ Marshall đứng vững.
Ngày nay những kết
quả thử nghiệm cho thấy là hơn 90% trường hợp loét tá tràng (duodenal ulcer)
và khoảng 80% trường hợp loét bao tử (gastric ulcer) do con vi trùng HP gây
ra.
Vi trùng Helicobacter pylori
Helicobacter pylori
là loại vi trùng h́nh xoắn sinh sôi ở thành vách niêm mạc bao tử.
Trường hợp bị nhiễm vi
trùng HP này rất thông thường, nhứt là ở những nước chậm tiến, nghèo kém.
Người ta ước đoán gần như ba phần tư dân số thế giới bị nhiễm vi trùng H.
pylori, nhứt là các nước Đông Nam Á như Việt Nam, Cam Bốt, Lào và các nước
lân cận như Phi Luật Tân. Ở Hoa Kỳ, trung b́nh 30% dân chúng bị nhiễm HP với
dân gốc Phi Châu, gốc La Tinh, giới cao niên và giới nghèo bị nhiều hơn. Tuy
nhiên bị nhiễm HP không nhất thiết là bị bệnh loét bao tử.
Tại sao có người bị
nhiễm HP, có người lại không? Người ta nghi là do qua ăn uống phải nước uống
hoặc thức ăn bị nhiễm vi trùng HP. Tỷ lệ bị nhiễm càng cao ở các nước chậm
tiến, thiếu vệ sinh, thiếu hệ thống ống cống thoát chất thải. Có nhiều nơi
dân chúng bị nhiễm đi nhiễm lại do nước uống không sạch. Những con vi trùng
HP đó một khi vào được trong bao tử sẽ sinh sôi nẩy nở nơi đó.
Một điều thắc mắc nữa
được đặt ra là, trong bao tử có chất acid rất mạnh, và gần như 99% những
con vi trùng đi qua bao tử đều bị tiêu diệt trong ṿng nửa tiếng. Vậy th́
làm sao con vi trùng HP này lại có thể sinh sôi nẩy nở trong bao tử? Sau
này, người ta khám phá ra con vi trùng này tiết ra một chất men làm ra chất
ammoniac để trung ḥa chất acid xung quanh và che chở nó không bị tiêu diệt
bởi chất acid. Vi trùng c̣n tiết ra nhiều chất men khác làm tổn thường niêm
mạc của bao tử và đưa đến bệnh loét bao tử.
Những bệnh do H. pylori gây ra
Đa số nhữnh người bị
nhiễm HP không có triệu chứng. Một số trường hợp bị nhiễm sẽ đưa đến:
-
Loét tá
tràng (duodenal ulcer).
-
Loét bao
tử (gastric ulcer).
-
Loát bao
tử loại mỏng niêm mạc (atrophic gastritis). Loại này dễ đưa đến ung thư bao
tử.
-
Ung thư
bao tử.
-
Ung thư
hạch bạch huyết tại niêm mạc bao tử (mucosal-associated-lymphoid-type
lymphoma: MALT).
Những bệnh bao tử không do vi trùng HP gây
ra
1.
Viêm bao
tử do thuốc NSAID như Ibuprofen, Naprosyn.
2.
Loét bao
tử và tá tràng do gastrinoma (Zollinger- Ellison syndrome). Đây là bệnh hiếm
thấy do một loại bướu tiết ra quá nhiều chất gastrin khiến cho bao tử cứ sản
xuất ra acid không ngừng đưa đến nhiều lở loét trong bao tử và tá tràng.
3.
Loét bao
tử do chấn động tinh thần (stress ulcer) thường xẩy ra nơi những người bị
phỏng nặng toàn cơ thể, bị bệnh nặng nguy hiểm nhứt là nếu người bệnh nằm
trong pḥng săn sóc bệnh nặng (Intesive Care Unit) lâu ngày.
4.
Sưng thực
quản do acid trào ngược (Reflux Esophagitis): thường xẩy ra ở người mập ph́
và có triệu trứng đau chấn thủy nhứt là về ban đêm.
Cách định bệnh t́m vi trùng H. pylori
Hiện nay có 4 phương
pháp thử nghiệm t́m vi trùng H. pylori:
1. Thử máu thấy kháng
thể H. pylori IgG chứng tỏ người đó đă bị nhiễm HP. Nhưng thử nghiệm này đo
kháng thể trong máu cho nên vẫn phản ứng dương tính dù đă được chữa trị diệt
vi trùng HP đầy đủ bằng trụ sinh.
2. Phương pháp hơi thở
(breath test) rất nhanh và chính xác.
3. Urease test trên
mảnh sinh thiết bao tử lấy lúc làm nội soi cũng rất chính xác.
4. Nhận thấy vi trùng
HP trên mô sinh thiết bao tử. Đây là phương pháp định bệnh chính xác nhứt.
Cách chữa trị vi trùng H. pylori
Dựa trên sự chấp thuận
của Food and Drug Administration (FDA), các cách điều trị dưới đây công hiệu
từ 61% đến 94% nếu dùng thuốc từ 10 đến 14 ngày.
1. Omeprazole 40
mg QD + clarithromycin 500 mg TID x 2 wks, then omeprazole 20 mg QD x
2 wks
2. Ranitidine
bismuth citrate (RBC) 400 mg BID + clarithromycin 500 mg TID x 2 wks,
then RBC 400 mg BID x 2 wks
3. Bismuth
subsalicylate (Pepto Bismol®) 525 mg QID + metronidazole 250 mg QID +
tetracycline 500 mg QID* x 2 wks + H2 receptor antagonist therapy as
directed x 4 wks
4. Lansoprazole
30 mg BID + amoxicillin 1 g BID + clarithromycin 500 mg TID x 10 days
5. Lansoprazole
30 mg TID + amoxicillin 1 g TID x 2 wks**
6. Rantidine
bismuth citrate 400 mg BID + clarithromycin 500 mg BID x 2 wks, then
RBC 400 mg BID x 2 wks 7. Omeprazole 20 mg BID + clarithromycin 500 mg
BID + amoxicillin 1 g BID x 10 days
7. Lansoprazole
30 mg BID + clarithromycin 500 mg BID + amoxicillin 1 g BID x 10 days
*Although not
FDA approved, amoxicillin has been substituted for tetracycline for
patients for whom tetracycline is not recommended.
**This dual
therapy regimen has restrictive labeling. It is indicated for patients
who are either allergic or intolerant to clarithromycin or for
infections with known or suspected resistance to clarithromycin. |
Tầm quan trọng trong khám phá của Bác sĩ
Barry Marshall
Khám phá của Bác sĩ
Barry Marshall là một bước tiến lớn về bệnh loét bao tử. Nhờ vậy, ngày nay
chúng ta đă biết nguyên do của bệnh không phải là do căng thẳng tinh thần,
không phải là do thức ăn nhiều gia vị và cũng không phải là do chất chua
trong bao tử (ngoại trừ trường hợp Zollinger- Ellison syndrome) mà đa số là
do con vi trùng xoắn Helicobacter pylori. Bệnh loét bao tử có thể chữa dứt
được bằng thuốc trụ sinh. Số người bị ung thư bao tử cũng có thể thuyên
giảm nhờ tiêu diệt con vi trùng H. pylori.