ĐT. 714-541-9859, 714-423-0577                      THONG THIEN HOC

Google

Trang Chính

English

Việt Nam


Hoa Kỳ

Sinh Hoạt Cộng Đồng


Thế Giới
Diễn Đàn

Văn Học

B́nh Luận

Kinh Tế
Câu Chuyện ThờiSự

Chuyện Lạ 4Phương

Khoa Học

Sức Khỏe

Ẩm Thực

Nhân Vật

Người / Ngợm

Vui Cười


Biếm Thi

Linh Tinh

Rao Vặt

Nhạc Hoàng Vân

VNCH Foundation

Ca Dao Việt Nam

Thơ Hà Huyền Chi

Hà Phương Hoài

Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

OVERSEAS
FREE VIETNAMESE
COMMUNITIES

RADIO
SAIGON-HOUSTON

Về Một Quăng Đời của Trịnh Công Sơn

Nguyễn Thanh Ty

(V́ bài quá dài nên chia ra làm 2 phần để dễ chuyển mà thôi).

Phần I:

Trịnh Công Sơn đă nằm xuống. Cát bụi trở về với cát bụi. Xong một kiếp người. Nhưng đằng sau ông, vấn đề vẫn chưa xong. Người khen ông rất nhiều. Kẻ chê ông cũng lắm. Dù khen hay chê, mọi người đều phải công nhận tài năng âm nhạc của ông. Cái đó đă hẵn. Không bàn ở đây. Vấn đề đang tranh cải được đặt ra ở đây: Trịnh công Sơn có là Cộng Sản hay không? Hay chỉ là nạn nhân đi giữa hai lằn đạn? Như ông Trịnh Cung và một số người đă nêu!

Người viết bài này có dịp gần gũi và sống chung với Trịnh Công Sơn một thời gian, từ năm 1962 đến 1967, nên biết được đôi điều về cuộc đời thường của nhạc sĩ họ Trịnh này. Nhân ngày ông qua đời, một số thân hữu yêu cầu tôi viết lại những kỷ niệm vui buồn với người quá cố để anh em hiểu thêm về một thiên tài âm nhạc. Và luận xem thử Trịnh Công Sơn có là Cộng sản hay thiên Cộng hoặc đi giữa?

Tôi chưa hề viết văn. Mong rằng những ḍng thô thiển dưới đây giúp ích được phần nào cho những ai thích sưu tầm tài liệu về cuộc đời người nghệ sĩ tài hoa bạc mệnh này. Miễn chấp cho chuyện chữ nghĩa.

Theo chỗ tôi biết, trong số những người viết về cuộc đời của nhạc sĩ họ Trịnh trong thời gian dạy học, chỉ có bốn người mới có thể có nhiều tài liệu sống về Trịnh Công Sơn, c̣n hầu hết đều cưỡi ngựa xem hoa, hoặc cặm cụi mày ṃ, đào xới trong các bài viết của nhiều người, cóp chỗ này một ít, chỗ kia vài chi tiết và đem các ca từ của họ Trịnh ra, sợi tóc chẻ làm tám, rồi dùng ng̣i bút thần kỳ hô phong, hoán vũ, tô lục, chuốc hồng mà thôi.

Bốn người đó là: Hoàng Phủ Ngọc Tường - Khánh Ly - Trịnh Cung - Đinh Cường.

Thời gian Trịnh công Sơn c̣n sống, báo chí hải ngoại viết rất nhiều về người nhạc sĩ này, cả khen lẫn chê, nhiều khi đến độ gay gắt. Tôi cố t́m đọc những bài của ông Đinh Cường để xem lập trường của ông, nhưng không thấy. Mới đây ông Nguyễn văn Liễu tức họa sĩ Trịnh Cung có phát biểu một số điều tại Cali trong dịp tưởng niệm Trịnh Công Sơn. Trong đó có một số sự việc ông không phản ảnh đúng sự thật. Tôi nghĩ rằng ông quên hoặc ông suy diễn.

Măi đến khi tờ Hợp Lưu, số 59, phụ trang đặc biệt Trịnh Công Sơn "Một cơi đi về", tôi mới được đọc một bài duy nhất của ông Đinh Cường. Cả hai ông Trịnh Cung và Đinh Cường đều nói là bạn lâu năm với Trịnh Công Sơn, từng cưu mang, chia ngọt, xẻ bùi cùng nhau cho đến ngày nhạc sĩ họ Trịnh từ giă cuộc đời. Nhưng tuyệt nhiên, người ta không thấy hai ông đả động ǵ tới vấn đề Trịnh Công Sơn có là Cọng Sản hay không?

Ca sĩ Khánh Ly hết lời ca tụng người nhạc sĩ này là điều đương nhiên, dễ hiểu. Nếu không có nhạc Trịnh Công Sơn chắp cánh cho Khánh Ly bay cao, th́ suốt đời Khánh Ly chỉ là một cô bé "nhếch nhác", như lời ông Cung mô tả, ở tại Đà Lạt mà thôi. Ngược lại, nếu nhạc Trịnh Công Sơn không nhờ Khánh Ly "lăng xê chùa" trên Đài Phát Thanh Đà Lạt, ṛng ră ba năm liền, từ 1964 đến 1967, và "đi chân đất" về Sài G̣n hát miễn phí cho sinh viên nghe th́ liệu nhạc của họ Trịnh có được phổ biến rộng răi như ngày nay không? Cần nhắc ở đây là trước 1964, từ cái thuở mới mười bảy tuổi, Trịnh Công Sơn đă có những bản nhạc rất hay như "Ướt Mi", "Thương Một Người", "Biển Nhớ", "Nh́n Những Mùa Thu Đi" mà nào có tăm tiếng ǵ. Có chăng là những bạn bè trong giới Sư phạm hoặc một vài thân hữu chuyền tay nhau hát!

Người có thẩm quyền nhất để giải đáp thắc mắc của nhiều người liệu Trịnh Công Sơn có là Cộng Sản hay không chính là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhưng đến giờ này, tôi không thấy ông lên tiếng xác nhận. Hoặc có mà tôi không biết chăng?

 

Hai Năm Tại Trường Sư Phạm Qui Nhơn 1962-1964

Tôi học chung một khóa Sư phạm với Trịnh Công Sơn. Khóa I, ngày 22 tháng 4 năm 1962, khóa đầu tiên được mở ra tại thành phố Qui Nhơn, tỉnh B́nh Định. Tên gọi khóa học là "Thường Xuyên", học hai năm, để phân biệt với "Khóa Cấp tốc", học một năm. Tiêu chuẩn tối thiểu để nộp đơn là Tú Tài I. Tuy nhiên khóa đầu tiên ấy đa số đă có Tú Tài II. Một vài người đă có một, hai chứng chỉ Đại học. Sĩ số giáo sinh là ba trăm người. Đa phần là người Huế, tỷ lệ có lẽ chiếm 60%. Số c̣n lại răi rác ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên, Khánh Ḥa... lên tận các tỉnh cao nguyên Đà Lạt, Lâm Đồng, PleiKu, KonTum...

Trịnh Công Sơn theo ban Pháp văn. Tôi theo ban Anh văn. Hiệu trưởng là thầy Đinh Thành Chương. Ông này rất tôn sùng tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Mỗi sáng thứ hai, chào cờ, Ông thường có những bài phát biểu trước giáo sinh, ca tụng công đức Ngô Chí Sĩ hết lời. Ngược lại, em Ông, giáo sư Đinh Thành Bài lại thiên Cộng. Trong những giờ dạy Sư phạm lư thuyết, thầy thường xen vào những lời ca ngợi chế độ Cộng Sản.

Năm 1963, phong trào Phật Giáo nổi lên, lật đổ chính quyền Ngô Đ́nh Diệm. Một nhóm giáo sinh tổ chức tố khổ thầy Đinh Thành Chương, buộc Ông phải từ chức. Trịnh Công Sơn cũng bị lôi kéo theo trong vụ này. Mấy tuần sau, Bộ Giáo Dục phải bổ nhiệm giáo sư Mẫn mới từ Hoa Kỳ về, thay thế thầy Chương, nội vụ mới êm.

C̣n nhớ, ngày nhập học đầu tiên, thầy Đoàn Nhật Tấn, dạy môn tâm lư giáo dục, đọc tặng học tṛ hai câu thơ:

Dưa leo chấm với cá kèo,

Bởi con nhà nghèo mới học Normal! (Sư phạm)

Đúng vậy! Đa số chúng tôi lúc ấy đều là con nhà nghèo. Hoặc học hành dang dở, hoặc cha mẹ không đủ khả năng tài chánh để gửi con ra Huế hay vào Sài G̣n tiếp tục học lên Đại học. V́ vậy chúng tôi đều cố thi vào Sư phạm để chắc chắn rằng sau hai năm sẽ có công ăn việc làm cho bản thân và có thể giúp gia đ́nh. Tưởng cũng nên nói rơ ở đây tại sao chúng tôi cố thi vào Sư phạm. Thời gian đó hai ngành Y Tế và Giáo dục rất thiếu nhân viên. Khóa nào vừa đào tạo xong là được bổ nhiệm đi làm ngay. Trong khi các ngành khác như Công Chánh, Nông-Lâm-Súc, Kỹ Thuật Phú Thọ...ra trường, nằm nhà mấy năm vẫn chưa được bổ nhiệm.

Có một nghi vấn ở đây: Không biết ông Trịnh Cung vin vào đâu mà bảo rằng Trịnh Công Sơn vào được trường Sư phạm Qui Nhơn để núp bóng là nhờ hai ông Tường và Kha giúp đỡ. Có lẽ ông Cung đă nghe ông Tường, ông Kha hay là Sơn kể lại chăng?

Nói thêm một chút về chuyện thi vào Sư phạm. Đề thi thật ra không khó, nhưng để lọt được vào cửa ải, mỗi thí sinh phải chọi lại ít nhất mười đối thủ. Tính từ Quảng Trị, Trung Trung Phần đến miền cao nguyên hơn mười bốn tỉnh, Bộ chỉ chọn có ba trăm người. Vậy theo tiết lộ của ông Cung, người ta nghĩ đến hai vấn đề:

 

1/ Ông Tường hoặc ông Kha đă thi dùm cho Sơn? Hoặc 2 ông có chân trong Ban Giám khảo, chấm cho Sơn đậu?

- Tại sao lại phải vào trường Sư Phạm núp bóng mà không là Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế? Nơi mà ông Cung với ông Cường theo học.

Ông Đinh Cường từng xác nhận là Sơn có tài hội họa, vậy th́ thi vào Mỹ thuật có khó khăn ǵ, thi chi vào Sư phạm để phải nhờ đến sự giúp đỡ của hai ông Tường và Kha?

Thứ nữa, ông Cung chê nghề dạy học không xứng đáng với tài năng của Sơn (lúc ấy?). Và ông c̣n cho biết đă cưu mang Sơn.

Tôi không biết ông nói chữ "cưu mang" với một nghĩa nào. Theo chỗ tôi biết, đem chỉ số lương ra so sánh th́ lương của Sơn phải hơn hẵn.

2/ Trịnh Công Sơn vào Sư Phạm để núp bóng. Cả hai ông Cung và Cường đều nói như thế. Vậy Trịnh Công Sơn vào Sư Phạm để núp ai? và núp cái ǵ? Sẽ có hai giải thích được đặt ra cho hai chữ "núp bóng"

 

a/ Sơn vào Sư Phạm để tạm thời trốn lính.

b/ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Văn Liễu (Trịnh Cung) và Đinh Cường đă có mưu đồ gài Sơn vào Sư Phạm để thực hiện sách lược "học đường vận"?

Giải thích một: không vững. Lúc đó Sơn đă có Tú Tài I. Đâu phải ở vào trường hợp "Rớt tú tài anh đi trung sĩ". Sơn có thể theo học bất cứ một trường Trung Học tư nào để thi lấy Tú Tài II vẫn được hoăn dịch theo luật định. Nếu cuối năm, thi hỏng, th́ a-lê, mời anh vào Thủ Đức, vác Garant M1 đi "ắc ê" chín tháng quân trường. Sau đó mang lon chuẩn úy, đi "mút chỉ cà tha", bốn vùng chiến thuật, trả nợ nước non. C̣n nếu anh bợ được cái Tú Tài II, th́ anh cứ tà tà lên Đại Học. Chí ít cũng được hoăn dịch bốn năm nữa. Chính phủ Việt Nam Cọng Ḥa đâu có chủ trương lùa hết trẻ, già, trai, gái, lớn, bé đi "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" như ở miền Bắc.

Ông Cường nói v́ t́nh h́nh, thời cuộc lúc đó... lại càng khiên cưỡng. Những ai sinh từ năm 1940 trở về trước đều biết rất rơ rằng: Miền nam được hưởng một thời gian mấy năm rất thanh b́nh, kể từ ngày Ông Diệm chấp chánh (54-63) cho đến lúc Ông bị đám "Thập nhị Sứ quân" giết.

Giải thích hai: có lẽ thuyết phục hơn, nếu xét theo bề dày "thành tích" Sơn đă cúc cung tận tụy, phục vụ chế độ sau tháng Tư, bảy lăm. Nhưng suốt những tháng, năm sống chung với Sơn, tôi không thấy Sơn có một hành động cụ thể nào khả dĩ gọi là có vẽ "Việt Cộng". Trừ khoảng thời gian giữa năm 1965, Sơn nhận được nhiều thư từ của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường và tiếp theo là những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc bí mật tại một trang trại ở Phim Nôm, gần Tùng Nghĩa, Đà Lạt với một nhân vật, Sơn dấu tên. Sau đó, Sơn mới vội vă sáng tác tập "Ca Khúc Da Vàng" trong ṿng có ba tháng hè năm 1965.

Loại trừ hai giải thích trên, Sơn vào Sư phạm với một lư do hết sức đơn giản là:

Dưa leo chấm với cá kèo.

Bởi con nhà nghèo mới học "Sư phạm".  

(Cái sĩ diện hăo của đa số người Huế cứ mơ về một thời vàng son làm "ôn" làm "mệ" cố che dấu cái hiện tại suy tàn đă đành. C̣n ông Liễu là dân Nha Trang-Cầu Đá-Chụt chính tông mà cũng lập lờ "đánh bùn sang ao" quả là chuyện lạ)

Nhắc lại hai câu thơ của thầy Đoàn Nhật Tấn đă dẫn nhập để thấy rằng lúc ấy nhà Sơn đang lâm vào cảnh ngặt nghèo. Cha bị tai nạn mất sớm, gia đ́nh khánh kiệt. Má Sơn phải chật vật lắm mới nuôi nỗi đàn con c̣n nhỏ dại. Sơn là con trưởng, phải bỏ dở chương tŕnh học để lấy nốt cái Bac II Philosophie, về lại Huế để phụ giúp mẹ. Sư phạm Qui Nhơn là con đường ngắn nhất có thể giúp Sơn đạt được ư nguyện này. Những ngày mưa gió ủ ê, đất nhăo, không đi ra ngoài được, nằm khoèo ở nhà, Sơn tỉ tê kể cho tôi nghe về cuộc đời của Sơn nhiều buồn vui lẫn lộn. Trong đó có cả điều thất vọng và thất t́nh về cô Diễm. Từ đó mới có bài ca thất t́nh diễm lệ "Diễm xưa".

Dù bất cứ ai, vô t́nh hay hữu ư, che dấu hay huyền thoại hóa Trịnh Công Sơn trong giai đoạn học Sư phạm và dạy học bằng những lư do rất "mờ mờ, ăo ăo" để đánh hỏa mù dư luận với mục đích thần tượng hóa đời thường của một nghệ sĩ, cũng cần cơm ăn, áo mặc... như mọi người, đều không giúp ích ǵ được trong việc cung cấp tài liệu để viết lại tiểu sử một người nghệ sĩ tài ba được nhiều người mến mộ. Có khi lại phản tác dụng.

Trường Sư Phạm và trường Kỹ Thuật Qui Nhơn được ngân sách Mỹ tài trợ, xây cất rất qui mô và tân kỳ. Hai trường nằm gần nhau tại Khu Sáu, sát bờ biển, khoảng giưă đường từ phố Gia Long đến Ghềnh Ráng, nơi thi sĩ Hàn Mặc Tử an nghỉ giấc ngàn thu. Qua khỏi Ghềnh Ráng là làng Qui Ḥa, làng dành riêng cho người mắc bệnh cùi. Ở đó có nhiều bà "xơ" hy sinh một đời, tận tụy chăm sóc cho bệnh nhân.

Lúc bấy giờ, 1962, thành phố Qui Nhơn hăy c̣n tiêu điều xơ xác. Ngay con đường chính Gia Long, chạy dài từ Núi Một (Ga xe lửa) đến bến cảng hăy c̣n nhiều ngôi nhà vô chủ, đổ nát hoang tàn trong chiến tranh chưa có ai dọn dẹp. Đường Lê Lợi chạy từ trung tâm phố thẳng ra biển c̣n rất nhiều nhà tranh, vách lá.

Vẽ lại một vài h́nh ảnh cũ để cho thấy chính phủ lúc ấy có dụng ư khi cho xây cất hai ngôi trường đồ sộ tại đây. Mỗi năm hai trường qui tụ hơn một ngàn giáo sinh và học sinh kỹ thuật khắp nơi đổ về. Nền kinh tế tại đây đă nhanh chóng phục hồi.

Để quảng bá rộng răi cho nhiều nơi biết về trường Sư Phạm, Ban Giám Đốc nhà trường cho thành lập một ban văn nghệ. Trịnh Công Sơn được bầu làm trưởng ban, chịu trách nhiệm tổng quát. Thanh Hải, phó ban thứ nhất, trách nhiệm về nhạc. Vơ Văn Pḥng, phó ban thứ hai, trách nhiệm về kịch. Một vỡ kịch thơ dài 45 phút nhan đề "Tiếng Cười Bao Tự" được dàn dựng. Tôi được chọn để thổi sáo đệm thơ. Nhân dịp này tôi mới biết và quen với Trịnh Công Sơn.

Một chương tŕnh đại qui mô gồm đủ các tiết mục ca, múa, nhạc, kịch được Ban Văn nghệ hoạch định. Thêm vào đó là một tổ phụ trách ánh sáng. (Lúc đó rất hiện đại và tân kỳ. Dùng đèn chiếu slide làm hậu cảnh thay đổi mỗi màn tŕnh diễn khác nhau. Dùng đèn quay, chớp chớp đổi màu rất đẹp mắt)

Buổi tŕnh diễn được ra mắt đúng ngày "Song Thất" năm đó, chứ không phải ngày măn khóa như ông Đinh Cường nói.

Trong thời gian này, Trịnh Công Sơn sáng tác trường ca "Tiếng Hát Dă Tràng" hay gọi gọn hơn là "Dă Tràng Ca" để làm tiết mục mở màn. Đây là tiết mục công phu và đặc sắc nhất. Ban hợp xướng gồm năm mươi người gồm nam lẫn nữ do Sơn thử giọng tất cả các mầm non văn nghệ và chọn lọc. Anh đă khổ công tập ráo riết trong ba tháng trời, xen kẻ giữa những giờ học, và đă thành công vượt mức trước sự ngạc nhiên đầy thích thú và khen ngợi của quan khách và công chúng. Tiếng vỗ tay đă kéo dài rất lâu.

Rất tiếc, tôi không có chân trong ban hợp xướng, nên không thuộc trường ca này. Chỉ nhớ lơm bơm vài câu, xin ghi lại cho vui.

 

Tiếng Hát Dă Tràng hay Dă Tràng Ca.

(Tiếng vọng) Dă tràng... Dă tràng... Dă tràng...

Dă tràng xe cát biển Đông... Dă tràng xe cát hoài công...

(Tiếng trống Bass dồn dập, thúc dục):

Trùng dương ơi... Trùng dương ơi vỗ sóng vào bờ...

....(quên)...

Thôi... c̣n ǵ nữa đâu... C̣n ǵ nữa đâu... Đời lên cơn đau! Xuân, Hạ, Thu, Đông bốn mùa làm rét mướt... Tôi gọi tên tôi giữa nước non ngàn...

Tôi chỉ nhớ đại khái vậy. Hiện nay, tại thành phố Lawrence, Mass, có anh Nguyễn Văn Tấn, Cali có chị Hồ thị Nghị trước ở trong ban hợp xướng, chắc c̣n nhớ. Bốn mươi năm đă qua rồi, c̣n ǵ!

Cũng trong thời gian học Sư Phạm, Sơn c̣n sáng tác thêm những nhạc phẩm khác như "Biển Nhớ", "Nh́n Những Mùa Thu Đi", "Nắng Thủy Tinh". Hầu như tất cả giáo sinh đều biết và ngâm nga những bài này. Ngoài ra Sơn cũng sáng tác một vài bài vui, ngắn để chúng tôi khi đi thực tập tại các trường dạy cho các em hát.

Tôi xin ghi lại đây một bài tượng trưng:

Ông Tiên vui

Ông Tiên vui,

Ông có cái râu dài.

Đêm ông thường ngủ yên trên đỉnh mây.

Ông Tiên vui,

   

Ông thường hay nhắc đến.

Chốn thiên đ́nh chẳng có tháng ngày vui.

Ông Tiên vui,

Ông có cái căn nhà.

Trên ngọn đồi hằng đêm Ông ghé qua.

Hôm em lên,

Ông chợt đi đâu vắng!

Lúc em về, em buồn đến ngẩn ngơ.

 

Xin nhắc lại ở đây, Qui Nhơn lúc ấy c̣n nghèo lắm. Cả thành phố có mỗi quán kem duy nhất, vừa bán kem, vừa bán cà phê, thuốc lá, bia, trà. Đó là quán Phi Điệp, nằm trên đường Phan Bội Châu, đối diện với hội trường Qui Nhơn, nơi đă tŕnh diễn văn nghệ.

Mỗi buổi chiều, chúng tôi, anh chị em nào có chút tiền c̣m th́ kéo nhau vào quán, kêu b́nh trà, ngồi nhâm nhi nghe nhạc. Khá một chút nữa th́ kêu một chai bia với tô ḅ viên gân, ngầu pín của ông Ba Tàu đậu xe trước quán. Thế là sang lắm rồi. Anh chị nào "bô xu" th́ ra biển ngồi ngắm trăng suông. Biển Qui Nhơn là biển bùn nên cát ở đó có màu vàng xỉn trông dơ dáy, không trắng như cát biển Nha Trang. Dọc theo bờ biển là một hàng dương, chạy dài từ khu quân sự đến bệnh viện Nguyễn Huệ. Trước bệnh viện là xóm chài. Bờ biển không có một lều quán hay kiosque nào. Ông Đinh Cường nói cùng Trịnh Công Sơn và Bích Khê ra đó uống cà phê ngắm trăng là nói nhầm.

 

Ba Năm Tại B'lao (Bảo Lộc, Lâm Đồng)

Sau hai năm, măn khóa, chúng tôi tốt nghiệp ra trường. Tôi và Trịnh Công Sơn cùng bốn giáo sinh khác là Lê Thị Ngọc Trinh (Huế), Nguyễn Văn Sang, Trương Khắc Nhượng, Đỗ Thị Nghiên (Nha Trang) cùng được bổ nhiệm chung một sư vụ lệnh, đáo nhậm nhiệm sở Ty Tiểu học Lâm Đồng. Sự vụ lệnh mang số 961-GD/NV/38/SVL tạm thời tuyển bổ do Ông Nguyễn Hữu Quyến, Xử Lư Thường Vụ Hiệu Trưởng Trường Sư Phạm kư ngày 14 tháng 8 năm 1964.

Sau hai năm tập sự, chúng tôi được điều chỉnh tuyển dụng bằng Nghị Định mang số 596-GD/NV/BC/QĐ do XLTV Đổng Lư Văn Pḥng, Phụ Tá Chuyên Môn, Phạm Văn Thuật kư ngày 6/5/1966.

Đến năm 1967, chúng tôi mới được chính thức bổ dụng bằng Nghị Định mang số 687/GD/NV/3B/NĐ kể từ ngày 01/9/1966 do T.U.N Ủy Viên Giáo Dục Đổng Lư Văn pḥng Huỳnh Ngọc Anh kư ngày 7/4/ 1967.

Với chỉ số lương 320 cộng thêm phụ cấp đắc đỏ vùng cao lúc bấy giờ, chúng tôi lănh được năm ngàn hai trăm đồng ($5.200) mỗi tháng, tương đương với hai lạng rưỡi vàng Kim Thành. Vật giá lại rất rẽ. Tiền ăn, ở mỗi tháng chỉ hết 600 đồng. Chai bia Con Cọp 3 đồng. Một dĩa thịt ḅ lúc lắc bốn người ăn giá 7 đồng. Tô phở 3 đồng. Cà phê loại ngon, một ly/1 đồng. Cơm bữa với ba món, 6 đồng. Thời gian từ 1964 đến 1967, chúng tôi sống sung sướng, tiêu pha rộng răi mà vẫn c̣n rủng rỉnh.

Tôi từ Nha Trang lên, theo đường Nha Trang - Đà Lạt - Bảo Lộc. Trịnh Công Sơn, từ Huế bay vào Sài G̣n, rồi từ Sài G̣n đi xe đ̣ lên Bảo Lộc.

Không hẹn mà gặp lại nhau trên bến xe vắng vẻ, thưa thớt bóng người. Lâu lâu mới thấy dăm người Thượng lầm lũi nối đuôi nhau, lặng lẽ rảo bước về một bản làng nào đó. Chúng tôi nh́n nhau, ḷng thầm nghĩ: Trời ơi! Cái thiên đường mà ḿnh tưởng tượng khi nắm trong tay tờ Sự Vụ Lệnh là đây sao? B'lao-Bảo Lộc là đây sao? Một phố quận vào chiều thứ sáu sao mà vắng lặng, buồn hiu hắt. Chuyến xe cuối cùng đổ khách xuống đây rồi lẫn mất. Ai cũng tản mác về nhà. Chỉ c̣n trơ lại Sơn và tôi, trơ trọi, cô độc. Trời lại đang mưa lâm râm, lành lạnh. Hai chúng tôi, mỗi người một va li quần áo nhẹ tênh. Lang thang t́m người hỏi đường đến Ty Tiểu Học Lâm Đồng. Lúc bấy giờ, thị xă Đà Lạt thuộc tỉnh Tuyên Đức. Lâm Đồng là một tỉnh chỉ có vỏn vẹn hai quận là Djiring (Di Linh) và B'lao (Bảo Lộc). Trước năm 1960, Ṭa Hành Chánh đặt ở Di Linh. Sau dời về Bảo Lộc được mấy năm, trước khi chúng tôi đến.

Khi chúng tôi t́m được đến Ty Tiểu Học th́ trời đă sụp tối mặc dù chưa tới sáu giờ. Sương mù bốc lên từ mặt đất, bay là là dưới chân. Ty chỉ cách bến xe non nửa cây số. May mắn, lúc ấy bác lao công đang khóa cửa chuẩn bị ra về. Khi biết chúng tôi là giáo viên mới đổi đến, bác ân cần mời chúng tôi theo bác.

- Mấy thầy cũng may! Bác nói. Chút nữa là tôi về rồi. Mai thứ bảy Ty nghỉ. Mấy thầy biết trọ nơi đâu. Đi theo tôi, tôi sẽ giới thiệu hai thầy với mấy ông giáo cũng vừa mới đổi tới đây mấy hôm trước.

Chúng tôi theo chân Bác vào ngơ Tiên Dung (gọi là ngơ Tiên Dung v́ đầu ngơ có tiệm chụp h́nh mang tên ấy). Đi sâu vào khoảng hai trăm thước, con hẽm hẹp, trơn trợt v́ cơn mưa buổi chiều, xoai xoăi lên dốc dần. Bác dừng chân trước một căn nhà mái tole, vách ván. Trong nhà vẳng ra tiếng cười nói vui nhộn của đám đông. Bác cai bước vào trước. Tiếng huyên náo im bặt. Bác ra hiệu cho chúng tôi vào nhà. Trong nhà chỉ có một chiếc giường gỗ khá rộng. Trên giường bốn mạng đang nằm, ngồi lổn nhổn. Mọi người nh́n bác cai chờ đợi. Bác đưa tay về chúng tôi rồi hướng về một anh lớn nhất trong đám giới thiệu:

- Thầy Lăng à! Mấy thầy này mới đổi tới hồi chiều. Ty đóng cửa rồi, không tŕnh diện được. Thầy giúp dùm cho mấy thẩy ở tạm qua đêm được không? Nhà tôi chật quá, không có chỗ ngủ.

Lăng tung chăn, ngồi dậy, giọng hơi cà lăm:

- Thế à! Được... được! Bác cứ về! Để... để tụi này thu xếp.

Sau khi bác cai quay lưng ra khỏi cửa, tôi với Sơn sực nhớ ra chưa nói lời nào cám ơn sự giúp đỡ của bác, bèn vội nói vói theo:

- Cám ơn bác nghe!

Không thấy tiếng trả lời. Có lẽ bác đă đi khá xa. Chợt Lăng lên tiếng:

- -i giời! Nhà bác ấy cũng gần ngay đây thôi! Sáng mai, thế nào bác ấy cũng sang đây. Các anh vào đây đă. Sao cứ đứng măi thế. Để... để cái va li vào góc này!

Chúng tôi theo lời anh đem hành lư đặt vào góc nhà. Thế rồi cả bốn người bu quanh hỏi thăm rối rít.

- Sư Phạm Qui Nhơn hả?

- Vâng!

- À, có anh Sang cũng Sư Phạm Qui Nhơn đây, mới tŕnh diện hôm kia. C̣n bọn này Sư Phạm Sài G̣n. Cũng lên trước mấy ngày thôi.

Tôi nh́n qua Sang. Cũng dân Nha Trang, nhưng tôi chưa gặp mặt lần nào tại Qui Nhơn. Sang ốm và cao như cây tre miễu. Nước da đen nhẽm. Mắt tṛn xoe, tṛng trắng nhiều hơn tṛng đen. C̣n hai người kia mới thoạt nh́n cứ tưởng là hai anh em. Cả hai đều tṛn lẵn, chắc nịch. Da mặt hồng hào, bóng lưỡng. Một anh tên là Nguyễn Đức Hinh, năy giờ chỉ đứng nh́n chúng tôi cười cười, không nói ǵ, nét mặt lộ vẽ thân thiện. C̣n anh kia là Đỗ Danh Đạo, người hoạt bát, nói năng vui vẻ. Anh giới thiệu với chúng tôi người này, người nọ bằng một giọng đặc biệt Bắc pha Sài G̣n nghe rất tếu:

- Ông này là Nguyễn Tiến Lăng, -anh chỉ tay về phía đầu giường, Lăng đang quấn mền, ngồi dựa lưng vào vách.- Lăng là thổ địa kỳ cựu sáu năm ở đây, có biệt danh là ông Trùm. Đang dạy tại trường Nam Bảo Lộc.

Có lẽ đoán được sự thắc mắc của chúng tôi qua nét mặt ngơ ngác, Đạo giải thích:

- Sở dĩ ông Lăng lên tới chức Ông Trùm là v́ ông ở đây lâu, thổ nhưỡng Lâm Đồng tặng cho ông bệnh sốt rét kinh niên. Cứ tới năm giờ chiều là ông phải trùm mền, xoa dầu Nhị Thiên Đường. Ngày nắng hay ngày mưa cũng đều đặn.

Mọi người cười rộ lên qua lời tếu của Đạo. Quay qua cặp mập và ốm ngồi cạnh nhau, Đạo tiếp:

- C̣n hai ông này là Sang và Hinh, đang làm vua một cơi tại Lạc An, cách đây bảy cây số. Một tuần về phố một lần để du hí. Tạm trú tại "am" của em và bác Lăng.

Không khí dần dần cởi mở, thân mật. Chúng tôi thấy ấm ḷng và quên ngay nỗi buồn nặng nề buổi chiều, mới cách đây có hai tiếng đồng hồ. Chợt Hinh lên tiếng:

- Này ông, ông giới thiệu người khác lung tung, sao ông không nói ǵ về ông hết?

Đạo đỏ mặt rần lên, phất tay lia lịa:

- Thôi tha cho nhà em, nhà em đâu có ǵ để mà nói!

Nhưng Hinh đâu có chịu tha:

- Hai anh nè! Hắn là Đỗ Danh Đạo, tự là Đạo Sữa. Hôm mẹ hắn dẫn hắn lên đây giao cho bác Lăng trông nom, có dặn ḍ bác Lăng nhắc chừng hắn uống đều đặn mỗi ngày ba lần sữa, sữa Guigoze chính hiệu bà Lang Trọc đấy.

Nói xong, anh chỉ cho chúng tôi thấy hai thùng sữa tổ bố nằm dưới gầm bàn.

Thoáng chốc, chúng tôi thấy gần gũi và thân t́nh như đă quen nhau tự bao giờ. Mọi người dục chúng tôi đi tắm rữa rồi dẫn đi ăn tối. Đi ngược lại hẽm Tiên Dung. Phía bên kia đường là quán ăn Ngọc Hương, nằm bên phải đầu cầu. Buổi chiều, lầm lũi theo bác cai nên chúng tôi không để ư. Cầu có tên là Cầu Đất, v́ bên dưới không có sông hay suối ǵ cả. Người ta dùng xe ủi, ủi đất lấp đầy một quăng, nối liền hai trái đồi, thành một lối đi, hai bên có thành che chắn cho khỏi ngă xuống hố, trông giống như cây cầu. Sương buổi tối đă dâng lên dầy đặc. Cả phố Bảo Lộc thắp thoáng ẩn hiện trong sương giống như cảnh tiên bồng trong xi nê. Quán ăn Ngọc Hương lập ḷe ánh điện, văng vẳng tiếng nhạc phát ra, nghe như lúc gần lúc xa. C̣n nhớ h́nh như bản "Những Bước Chân Âm Thầm". V́ lời ca, tiếng nhạc với cái khung cảnh lúc bấy giờ nó ḥa nhập vào ḷng người lần đầu tiên đặt chân lên miền cao nguyên, sơn cước... Trước mắt tôi, một cảnh trí hoàn toàn lạ lẫm, đầy huyền ăo và thơ mộng mà từ thuở nhỏ đến giờ, sống ở miền gió biển, cát trắng, sóng vỗ quanh năm, tôi chưa từng được thấy. Có chăng cũng chỉ là tưởng tượng ra những h́nh ảnh mơ hồ qua bản nhạc "Ai Lên Xứ Hoa Đào" của nhạc sĩ Hoàng Nguyên mà thôi.

Những h́nh ảnh buổi chiều đứng co ro nơi bến xe vắng ngắt bóng người, nó ảm đạm thê lương bao nhiêu, bây giờ trở thành thơ mộng, lăng mạn bấy nhiêu. Nào con đường đất đỏ quanh co lẫn khuất dần trong ngơ vắng. Nào sương mù là là bay từng đám dưới chân. Nào những con đường lên dốc, xuống dốc khiến những mái nhà trồi lên, hụp xuống theo, y như những con thuyền tṛng trành lượn theo giợn sóng xa xa ngoài biển.

Đang đói suốt một ngày đi đường, tôi và Sơn, vèo một cái, mỗi người đă ăn hết một dĩa cơm sườn nướng một cách ngon lành. Trong lúc mọi người đang nhâm nhi cà phê, nghe nhạc. Họ đă ăn từ chiều. Chúng tôi tiếp tục uống cà phê và tṛ chuyện. Sơn ít nói, chỉ ngồi nghe. Thỉnh thoảng góp vài câu gọi là. Có lẽ lần đầu c̣n giữ kẽ chăng? Ba anh: Lăng, Hinh, Đạo chốc chốc lại ngó chăm chăm vào Sơn, nửa như ṭ ṃ, nửa như quan sát. Phải chăng cái phong thái nghệ sĩ của Sơn đă gây cho người ta cái ấn tượng đầu tiên? Đối với tôi hay Sang, cái h́nh ảnh Trịnh Công Sơn, với một khuôn mặt ngăm đen, đôi mắt nhỏ mơ màng sau cặp kính cận khổ lớn, gọng đồi mồi che gần hết nửa khuôn mặt, trong hai năm học tại Qui Nhơn đă quá quen thuộc. Nhưng giờ đây, với những người bạn mới, chân chỉ hạt bột, mới rời ghế nhà trường, lần đầu tiên bước chân ra ngoài xă hội th́ h́nh ảnh một ngươi nghệ sĩ như Sơn tự nhiên với mái tóc thưa, hơi dài, cái trán hói cao, đôi kính cận to quá khổ, hàng ria mép lưa thưa, vừa như râu, vừa như lông, mănh và mịn khiến người ta thấy lạ nhưng ưa nh́n và có cảm t́nh ngay.

Gần chín giờ, mọi người dục về. Tôi và Sơn muốn nán lại chút nữa để được hưởng thêm cái hương vị ngọt ngào, đậm đà kỷ niệm của ngày đầu tiên đặt chân lên xứ Thượng. Nhưng anh Lăng cho biết, đúng chín giờ là nhà máy điện sẽ cúp.

Đêm đó, chúng tôi trăi chiếu, chăn xuống thềm nhà, năm người bạn trẻ, trừ anh Lăng nằm trên giường, tuổi sàng sàng từ hai bốn đến hai sáu, cùng nhau trao đổi những chuyện quê hương đi dần từ Sài G̣n ra đến Huế rồi thiếp vào giấc ngủ. Lúc bừng mắt dậy đă chín giờ sáng.

Sáng thứ Hai, tŕnh diện tại Ty để chờ bổ nhiệm, chúng tôi gặp hầu hết các bạn khác từ các nơi cũng đă đến từ thứ Bảy, Chủ Nhật. Sư phạm Qui Nhơn đủ mặt: Lê Thị Ngọc Trinh, Đỗ Thị Nghiên, Trương Khắc Nhượng. Sư phạm Sài G̣n: Nam có Nguyễn Hảo Tâm, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Nghị. Nữ có: các cô Nguyệt, Châu, Hải, Trang ... Sư phạm Long An chỉ có một ngoe là Ngô Thanh Bạch.

Ty Trưởng đương nhiệm là Ông Trương Cảnh Ngôn, sắp về hưu. Đỗ Thị Nghiên, Trương Khắc Nhượng, Nguyễn Hảo Tâm và tôi cùng được bổ nhiệm về trường Tân Bùi, xứ Tân Bùi, cách trung tâm Bảo Lộc chừng năm cây số. Lê Thị Ngọc Trinh bổ về trường Nữ Bảo Lộc ngay trung tâm phố. Nguyễn Văn Ba phụ chân kế toán tại Ty. Riêng Trịnh Công Sơn được "biệt nhăn" hơn bổ về một trường Sơ Cấp Thượng, ở sát nách Ty, chừng non cây số. Với chức vụ là Trưởng Giáo. (Xin chú ở đây, theo qui chế Bộ Giáo Dục bấy giờ: một trường chỉ có lớp bốn trở xuống gọi là trường Sơ cấp. Đứng đầu là Trưởng Giáo, phải dạy lớp và không có phụ cấp chức vụ 200$. Trường từ năm lớp trở lên mới được gọi là trường Tiểu học. Đứng đầu là Hiệu Trưởng có phụ cấp chức vụ, vẫn phải đứng lớp. Truờng có từ mười lớp trở lên, Hiệu Trưởng mới được miễn dạy.

Ngạch chúng tôi là Giáo Học Bổ Túc, chỉ số lương tập sự là 320, ngân sách do Bộ Quốc Gia Giáo Dục đài thọ, như đă nói ở trên.  Sau khi phân bổ xong, Ty cho chúng tôi được nghỉ một tuần để thu xếp nơi ăn chốn ở. Thứ hai tuần tới sẽ tŕnh diện nhiệm sở mới.  Khi về đến nhà, chúng tôi ḅ lăn ra cười với cái chức Trưởng giáo của Sơn. Lần đầu nghe tới chức Trưởng Giáo, ai cũng liên tưởng tới chức Trưởng Lăo Hộ Pháp trong Ma Giáo, truyện chưởng Kim Dung.

Mấy ngày thong thả, tôi và Sơn đi dạo khắp nơi để t́m nhà trọ. Thật đúng như lời của một bản nhạc "đi dăm phút đă trở về chốn cũ..." Phố Bảo Lộc nằm dọc theo quốc lộ, chỉ có một đoạn ngắn chưa đầy nửa cây số. Bắt đầu từ trường Nông Lâm Súc, chạy thoai thoải xuống dốc, đến cuối dốc là một cái hồ nước, trông giống như cái ḷng chăo là hết. Lên dốc, hai bên là những đồi trà ngút ngàn. Lâm Đồng là xứ trà. Xưa kia B'B'Lao do người Pháp khai khẩn trồng trà và chế biến trà. Họ có nhiều trang trại lớn và có cả sân bay tư nhân. Năm chúng tôi được bổ về đây th́ chỉ c̣n hai người Pháp già lấy vợ Việt Nam là c̣n ở lại. Những trại chủ khác đă bán lại cơ sở cho người Việt hoặc bỏ hoang để về nước v́ không chịu nổi Việt Cộng thu thuế.

Bảo Lộc là đọc theo âm Việt của tên Thượng là B'Lao . Năm 1954, ông Diệm đưa số người Bắc di cư lên đây khẩn hoang lập nghiệp. Họ toàn là người Công Giáo. Dẫn đầu là một cha xứ. Người xứ nào ở ngoài Bắc thuộc làng ǵ th́ lên đây qui tụ lại thành một xứ, lấy tên làng ḿnh ghép thêm chữ Tân để thành tên của xứ ḿnh. Ví dụ: làng Bùi Chu thành Tân Bùi. Theo thứ tự, hướng từ Định Quán lên cao dần, qua khỏi khu vực sông La Ngà là đèo Ma Đa Gui, ranh giới tỉnh Lâm Đồng. Quận Bảo Lộc bắt đầu từ xứ Tân Bùi. Tiếp theo là Tân Hà. Phố Bảo Lộc nằm giữa. Rồi đến Tân Thanh, Tân Phát. Xa vào tận buôn Thượng c̣n thêm Tân Rai và Tân Lú. Tôi chưa đến đó bao giờ. Chỉ đọc thấy trên bản đồ hành chánh. Mỗi xứ đạo do một cha xứ cai quản, cả phần hồn lẫn phần xác. Phụ tá có các ông trùm. Xứ có lực lượng vũ trang riêng để tự vệ an ninh và đánh trả Việt Cộng. Chung quanh xứ bảo bọc bởi hàng rào tre kiên cố. Kẻ lạ muốn vào xứ phải có người trong xứ quen và hướng dẫn. Xứ được xây dựng theo đồ h́nh bát quái. Trung tâm là nhà thờ. Dưới mỗi nhà đều có đường hầm ăn thông với đường hầm chính dẫn tới nhà thờ. Đường hầm được đào và xây dựng rất rộng răi, chắc chắn. Suốt những năm ông Diệm chấp chánh, không một tên du kích nào dám bén măng đến quấy rối. Nghe nói lúc đầu cũng có vài tên cố thâm nhập nhưng đều bị giáo dân tóm cổ tức khắc. Trong khi đó, tại trung tâm phố, khu tập trung đông đảo dân Nam, Ngăi, B́nh, Phú, Thừa Thiên theo đạo Phật đa số th́ Việt Cộng lại dễ dàng trà trộn răi truyền đơn và treo cờ. Kể từ năm 1964, khi chúng tôi dạy học tại đây, trở về sau, những chính quyền kế tiếp không chú trọng đến kế hoạch ấp chiến lược nữa, thu hồi toàn bộ vũ khí của các xứ, nên vấn đề an ninh lỏng lẽo dần.

Trở lại chuyện chúng tôi đi t́m nhà trọ. Suốt mấy ngày, Sơn và tôi lang thang khắp ngơ để t́m nhà thuê, nhưng không nơi nào vừa ư. Nhất là nhà vệ sinh th́ khiếp quá. Tất cả các nhà đều đào hố xí sau vườn. Gác ngang miệng hố là hai thanh gỗ. Che chung quanh bằng những tấm cót tre. Không có mái che. Ngày mưa phải đội nón lá mà ngồi. Nhặng xanh hằng ngàn con bay vù vù từ dưới hố lên, bu cả vào người. Ḍi bọ trắng nhởn to bằng đầu đũa, ḅ lổn nhổn khắp mặt đất. Eo ơi! C̣n những ngày nắng oi nồng, cái mùi xú uế từ dưới xông lên càng khiếp đảm.

Trong lúc loay hoay t́m nhà, có ai đó mách chúng tôi, ở về phía Ty Công Chánh có ngôi biệt thự vừa xây xong, chủ nhà muốn cho thuê nhưng hơi đắt. Sơn và tôi đến ngay. Nhà rất đẹp, tọa lạc trên một khu quang đăng, thoáng tầm nh́n. Chung quanh hàng rào bao bọc, phía trước có cổng. Nhà có ba pḥng ngủ, một pḥng khách. Nhà bếp rộng chia làm hai, một nửa là bếp, một nửa là pḥng tắm và vệ sinh. Chủ nhà là một người đàn bà tuổi trạc độ ba mươi, người mănh dẽ. Bà hiện là Trưởng Pḥng Kế Toán của Ty Công Chánh Lâm Đồng. Bà sống với đứa con gái nhỏ sáu tuổi tên Đào. Chồng bà đang làm việc ở Sàig̣n, bà cho biết. Sau khi nói chuyện độ dăm phút, chúng tôi bằng ḷng thuê toàn bộ căn nhà, trừ một pḥng cho bà và đứa con gái để ở, với giá 1.200 đồng. Nếu muốn ăn cơm tháng th́ bà nấu luôn cho. Ngày ba bữa, mỗi người trả thêm ba trăm đồng. Chúng tôi ra về với ḷng thơ thới v́ đă t́m được nơi ăn ở vừa ư. Trên đường về Sơn cứ lẩm bẩm: Đàn bà mà tên Phi lại lót Thị, Thị Phi... Thị Phi!

Sơn tủm tỉm cười một ḿnh. Tôi biết Sơn đang nghĩ ǵ về bà chủ nhà trẻ, sống một ḿnh.

Chúng tôi rủ thêm hai người bạn nữa để chia bớt pḥng và chia bớt tiền. Hai anh Nguyễn Hảo Tâm và Nguyễn Văn Ba đến xem nhà và đồng ư ngay. Sơn và tôi có công t́m nhà, nên được ưu tiên ở căn pḥng trước, có cửa sổ quay ra mặt đường. Tâm và Ba ở căn kế. Bà chủ nhà căn trong cùng. Ba pḥng ăn thông ra pḥng khách. Pḥng khách có cửa hông thông với nhà bếp. Từ lúc chúng tôi về ở, trừ những lúc dọn cơm cho chúng tôi hay những lúc đi làm chạm mặt ở pḥng khách, bà chủ cùng đứa con gái đóng cửa im ỉm, nói chuyện rầm ŕ ở trong buồng, ít khi ló mặt ra ngoài. Mấy tháng sau, bà thuê được một cô người làm. Cô này độ chừng hơn hai mươi, có da thịt, tính t́nh hiền hậu, hơi quê mùa nhưng dễ thương. Cô giúp bà chủ đi chợ nấu ăn cho chúng tôi. Cô ngủ ở nhà bếp.

Nhớ lại một mẫu chuyện vui. Có lần bà chủ nghỉ phép nửa tháng về Sài G̣n với gia đ́nh, bà yêu cầu chúng tôi t́m chỗ ăn tạm trong thời gian này. (lúc đó chưa có cô giúp việc) Bốn chúng tôi thay phiên nhau đi chợ nấu ăn mỗi người một ngày. Sở dĩ chúng tôi không đi ăn tiệm là v́ hai lư do. Thứ nhất là làm biếng đi xa. Từ nhà đến tiệm ăn xa hơn đến chợ. Thứ hai, có cơ hội để thử ḿnh có khả năng tự lực cánh sinh hay không? Đầu tiên, tôi xung phong trước. Bữa ăn có cá chiên dầm mắm tỏi ớt, chắm với dưa leo, rau sống, xà lách. Hội đồng chấm điểm: Tạm được! Ngày thứ hai, Nguyễn Văn Ba. Thịt ba chỉ kho hột vịt ăn với dưa cải và cà pháo muối mặn. Điểm: Khá. Đêm đó chúng tôi lục đục thức dậy uống nước và đi tiểu suốt. Nguyễn Hảo Tâm người Sài G̣n, giả giọng Bắc của Ba, ngâm ư ử chọc Văn Ba:

Em ơi! Mở cửa cho anh ra!

Kẻo anh chết khát trong vại cà nhà em!

Ngày thứ ba, Hảo Tâm vác chiếc bụng phệ đi chợ. Vậy mà thoáng cái đă về, xăn tay áo vào bếp. Trưa hôm đó chúng tôi được thưởng thức món hột vịt luộc, dầm x́ dầu ớt chanh, chấm với giá chua, rau sống. Sơn rên rỉ : Chắc cái rô bi nê nước của bà chủ nhà đêm nay hư quá! Văn Ba được dịp trả thù câu chọc tối qua của Hảo Tâm:

- Này ông Tâm! Cái câu "Kẻo anh chết khát trong hủ giá chua nhà em" tối nay đọc nghe trúc trắc quá, ông ráng sửa lại nghe cho êm tai nhá!

Tâm cười giả lả:

- Nè... nè tráng miệng với chuối bồ hương đi! Ngon lắm đó.

Ngày thứ tư đến lượt Sơn. Anh rũ tôi đi cho có bạn. Hóa ra anh chàng mắc cỡ. Anh thủ sẵn trong túi hồi nào không hay một cái bao bằng giấy xi măng. Miệng ngậm ống vố ph́ phèo, tay chắp sau đít, anh lững thững vào chợ như người đi dạo cảnh. Tôi theo sau không ư kiến, mắt đảo quanh đám người Thượng, xem họ mua bán đổi chác những thổ sản mang từ trên núi xuống. Nhiều nhất là phong lan. Nhưng chỉ là những loại thường như hoàng lan, hoàng điệp, hàm rồng, long tu, địa lan... Mấy thứ này rẽ tiền. Chỉ năm, mười đồng một nhánh. Tháng đầu tôi ham, mua về treo đầy trong pḥng. Song nó cứ rũ ra, chết dần. Có người bày cách, phải treo nó ngoài trời cho có đủ sương và nắng gió nó mới sống. Tôi làm theo. Nhưng mấy chục nhánh cũng lần lượt héo sầu, đổi sang màu vàng rồi chết khô. Có lẽ nó nhớ bạn, nhớ rừng chăng?

Sơn xăm xăm đi tới hàng đồ khô, gia vị và nói với bà bán hàng:

- Bà cho tôi một chục trứng gà, một ít củ hành và tỏi. Tính hết bao nhiêu?

Bà bán hàng nói giá tiền và hỏi lại:

- Cậu có cái ǵ đựng không? Đi chợ mà đi hai tay không vậy?

Sơn nhanh nhẹn rút trong túi quần ra cái bị giấy xi măng đưa cho bà bán hàng và nói:

- Bà bỏ hết vô đây là được rồi.

Trả tiền xong, Sơn quành qua hàng thịt mua một miếng thịt ba chỉ. Trở lại hàng rau mua thêm mấy trái cà chua.

- Xong! Ông thấy tôi có nghề không? Sơn hỏi tôi mà không cần câu trả lời.

Vừa về đến nhà đă thấy hai chàng Tâm và Ba chờ sẵn.

- Nào! Bữa nay coi anh chàng nhạc sĩ của ḿnh nấu nướng ra làm sao!

Sơn cười h́ h́:

- Được rồi! Mấy ông vô hết trong này coi tôi trổ tài nghe.

Sơn vào bếp chỉ huy ba chúng tôi, người này lột vỏ hành, tỏi, người kia rửa cà, thái lát mỏng, người nọ cắt thịt ba chỉ thành sợi như chiếc đũa. Chúng tôi làm theo răm rắp. Mọi việc đâu vào đấy. Và giục Sơn ra tay v́ trời đă khá trưa rồi. Sơn bắt đầu đổ dầu chiên vào chăo. Trong khi chờ đợi dầu nóng, Sơn giảng giải cách làm các món:

- Các ông sẽ được thưởng thức món hột gà "ốp la" và hột gà đổ chả nghe! (Sơn thường đệm tiếng "nghe" ở cuối câu rất nhẹ và rất dễ thương) Phải đợi dầu thật nóng, bốc khói, rồi khử dầu bằng vài tép tỏi đập dập cho thơm-Sơn nói tiếp:

- Bây giờ mấy ông coi nghe!

Sơn cầm lấy một trứng gà bằng hai tay, vừa làm vừa giảng tiếp:

- Ḿnh phải cầm trứng bằng tám ngón tay như thế này, từ ngón trỏ đến ngón út, hai ngón tay cái bấm vào trứng để bóp quả trứng. Nè! Chú ư nè!

Chúng tôi ngó theo bàn tay Sơn, những ngón tay thuôn dài đang ôm lấy quả trứng. Những ngón tay khô, xương và da. Phải cho có thêm một ít thịt th́ bàn tay Sơn chắc đẹp không thua ǵ bàn tay con gái. Sơn bóp mạnh hai ngón tay. Ḷng trắng, ḷng đỏ trứng gà thay v́ lọt vào chăo, lại vọt xuống đất đánh "bạch" một tiếng. Một trứng đi đời. Sơn bào chữa:

- Tại tôi bóp mạnh quá!

Chúng tôi khuyến khích:

- Làm lại! Làm lại!

Sơn làm thêm hai lần nữa, t́nh trạng vẫn y như cũ. Một đống trứng nhầy nhụa dưới chân. Ba la lên:

- Thôi! Thôi! Ông Sơn ơi, làm ơn tránh ra cho chúng tôi làm. Mà ông có biết làm không th́ bảo?

Sơn nói:

- Hồi nhỏ tôi thấy má tôi làm như vậy mà!

Tâm hỏi lại:

- Mà ông đă làm thử lần nào chưa?

- Chưa!

- Vậy mà cũng bày!

Tôi chọc quê Sơn bằng cách hát nhại "Dă Tràng Ca": "Thôi! C̣n ǵ nữa đâu! C̣n ǵ nữa đâu! Mà không ăn rau..."

Sơn nổi cáu, x́ nẹt:

- Thôi cha! Cha sửa lời làm hư hết bản nhạc của tôi đó cha.

Sau đó chúng tôi đập hết những trứng c̣n lại vào trong một cái tô lớn. Trộn thêm đường, hành củ, cà chua, thịt ba chỉ, tiêu, x́ dầu đánh đều lên thành một món hổ lốn, đổ vào chảo thành hai lượt cho mau chín và không bị cháy phía dưới. Không ngờ bữa cơm ấy lại vui và ngon ra phết. Ai nấy vừa ăn vừa nhắc lại cảnh Sơn bóp trứng mà cười. Dứt bữa ăn, Sơn trịnh trọng đứng lên tuyên bố:

- Bắt đầu chiều nay đi ăn cơm tiệm!

Không ngờ cái lệnh vô t́nh ấy lại hợp cả cho chúng tôi. Không ai bảo ai, cả ba chúng tôi đồng thanh vừa cười, vừa hô to:

- Ăn cơm tiệm! Đă đảo đi chợ!

Những ngày chúng tôi sống chung với nhau trong "ngôi biệt thự" của bà Trần Thị Phi thật là vui nhộn. Cũng chính trong căn pḥng có khung cửa sổ ngó ra con đường đất đỏ của căn nhà này, Trịnh Công Sơn đă sáng tác các nhạc phẩm để đời: "Chiều Một Ḿnh Qua Phố", "Lời Buồn Thánh", "Vết Lăn Trầm"- và "Ca Khúc Da Vàng." 

Ngày Lănh Lương Đầu Đời

Mới ngày nào vừa tŕnh diện để nhận nhiệm sở, thoáng cái đă đến cuối tháng lănh lương. Ngày lănh lương đầu tiên trong đời, chúng tôi ai nấy đều háo hức đến Ty thật sớm để được kư tên vào sổ lương. Tôi kư tên và nghĩ đến một món tiền lớn do chính tay ḿnh làm ra. Món tiền mà từ xưa tới nay, tôi chưa hề được cầm trong tay. Hai năm trọ học ở Qui Nhơn, cha mẹ tôi phải khó nhọc lắm mới chắt chiu được sáu trăm đồng hàng tháng gửi cho tôi chi tiêu. Có tháng chậm tới ngày thứ mười mà tôi vẫn không dám viết thư dục v́ tôi hiểu rơ hoàn cảnh của tôi: Con nhà nghèo.

Trong khi chúng tôi nôn nao chờ đợi được gọi tên vào pḥng kế toán để lănh tiền th́ anh Thành, phát ngân viên, cứ đủng đỉnh hút thuốc lào. Tiếng kêu rít rít của cái nỏ cầy càng thêm sốt ruột. Lại thêm mấy ngụm trà Tàu khề khà nữa chứ.

Tiếng Nguyễn Đức Tín, giáo viên trường Cộng Đồng Thượng, một tay lâu năm trong nghề, rất hoạt kê và lém lĩnh vang lên:

- Bố Thành ơi! Ra tay làm phúc cho chúng em nhờ tí! Cả tháng nay chưa có hột cơm nào trong bụng cả. Hôm nay em về trễ, có mà vào nhà bằng đít.

Giai thoại về anh chàng Tín này rất nhiều. Chuyện nào cũng cười vỡ bụng. Có dịp sẽ kể. Khi mọi người đă cầm trong tay cái phong b́ dày cộm có ghi tên ḿnh, Tín tḥng thêm một câu chót trước khi ra khỏi cửa Ty:

- Này bố Thành! Em bảo nhé! Cứ thuốc lào nhiều vào! Hai cái má hóp như hai cái hố ấy. Người cứ quắt như cái tăm, bà Thành không cho tí chút th́ đừng bảo Tín này không nói trước nhá!

Nói xong, Tín cười hềnh hệch. Ra khỏi Ty, Sơn săi chân đi thật lẹ. Sơn cao, chân dài. Tôi thấp, chân ngắn, nên phải nhảy ba bước một mới kịp. Vừa thở, vừa kêu:

- Ông Sơn! Về nhà chớ đi đâu mà ông đi như ma đuổi vậy! Từ từ chờ tôi với chứ!

Sơn không đáp cứ cắm đầu đi thẳng. Vừa vào pḥng, Sơn khóa trái cửa lại. Tôi nhạc nhiên chờ xem anh chàng làm cái ǵ đây. Sơn để nguyên quần áo, giày vớ, nằm vật ngữa ra đi văng, tay rút trong túi quần ra cái pḥng b́ tiền lương lúc năy, xé phong b́, nắm hết xấp tiền 5.200 đồng, gồm giấy năm đồng, mười đồng, năm chục đồng tung lên trên trần nhà. Giấy bạc mới tinh, phát ngân viên Thành vừa lănh từ Kho bạc ra, rơi lả tả xuống người Sơn, rơi xuống đi-văng. Sơn hốt lên, tung trở lại. Sơn cười sằng sặc. Sơn cười ha hả. Tiếng cười nghe là lạ. Nó pha lẫn niềm vui và nỗi phẫn hận. Rồi Sơn chửi thề:

- Đù mạ mi! Đù mạ mi! Tiền! Tiền!

Đó là lần đầu tiên tôi nghe Sơn chửi thề. Và cũng là lần duy nhất suốt ba năm sống chung với nhau.

Tôi để mặc Sơn được tự do trong những giây phút ấy. Tôi không muốn gây một tiếng động nào để quấy rầy Sơn đang đắm ch́m trong thế giới riêng của ḿnh.

Tôi yên lặng đếm tiền của ḿnh một cách chậm răi. Từng tờ, từng tờ. Tôi để cho mười đầu ngón tay của ḿnh cảm nhận hoàn toàn cái cảm giác đê mê, sung sướng đang run lên từng chặp với những tiếng kêu sột soạt của những tờ bạc mới tinh nguyên chạm vào nhau. Cái âm thanh nghe sao mà hấp dẫn. Cái mùi giấy bạc mới sao mà quyến rũ thế! Đầu tôi phác hoạ ra một chương tŕnh mau lẹ: Hăy trích ra ba ngàn đồng, ra ngay Bưu điện mua một cái "măng đa" gửi liền về cho Má để Má mừng. Chắc Má sẽ vui lắm khi nhận được tiền do thằng con gửi về. Thằng con do bà nuôi nấng, chắt chiu, dành dụm từng đồng, từng cắc của gánh hàng đè nặng lên vai bà ngày ngày, cho con ăn học. Hôm nay có lẽ bà sẽ sung sướng và hănh diện âm thầm, không tỏ lộ cùng ai: Con bà đă trở thành ông giáo!

Chiều hôm đó tất cả chúng tôi không ăn cơm nhà. Phải tự khao cho ḿnh một chầu linh đ́nh mới được. Tại nhà hàng Ngọc Hương (bây giờ ông bà chủ quen mặt chúng tôi quá rồi) có mặt đông đủ các ông giáo trẻ vừa mới có được một thành tích: "Một tháng công vụ" Chúng tôi uống bia. Tín gọi nhà hàng ơi ới:

- Này ông bà chủ! Cho một két bia "ông Tây Cà lồ" nhé! Bia thật lạnh đấy!

Bia "ông Tây Cà lồ" mà Tín gọi là bia Con Cọp, loại chai lớn. Tín có những từ ngữ thật đặc biệt để gọi các vật hay những việc nghe rất buồn cười. Có lần anh ta mời Sơn và tôi đến nhà chơi. Anh ta nói oang oang giữa đám đông đang bù khú:

- Này! Xin thưa với các cụ! Hôm nay em xin phép các cụ cho em "rước" hai ông anh này đến "am" em chơi, làm mấy "ve". Xin các cụ đừng "à uôm" ǵ cả nhớ!

Đêm đó chúng tôi ăn uống tưng bừng. Cười nói hả hê. Chín giờ, điện cúp. Chúng tôi ra về, bá vai nhau đi khệnh khạng, xiên xẹo giữa phố vắng, dày đặc sương mù. Đến cuối dốc cầu, xếp hàng ngang, vạch quần, vừa đi, vừa tè, vẽ thành rồng rắn, loang lỗ trên mặt đường nhựa.

Ôi một thời tuổi trẻ vô tư, hồn nhiên!

 

Một Thầy, Một Cô, Một Con Chó Cái!

Tôi không h́nh dung được lúc ông Cao bá Quát làm giáo thụ ở Quốc Oai cái cảnh nó ra làm sao, mà ông tả oán bằng những câu thê thảm: 

Một thầy, một cô, một chó cái,

Học tṛ dăm đứa, nửa người,

nửa ngợm, nửa đười ươi!

Nhưng cái cảnh ông trưởng giáo Sơn ngồi dạy học ở ngôi trường Sơ cấp Thượng th́ thật bi hài. Mỗi buổi sáng, cái hoạt cảnh ông đi dạy đă là buồn cười rồi. Tôi và Sơn có điểm giống nhau là không thích đeo đồng hồ. Tôi dạy buổi chiều nên tha hồ nằm nướng trên giường. Sơn dạy buổi sáng, phải dạy sớm lúc bảy giờ để đến trường. Những ngày có mặt trời th́ nh́n bóng nắng, độ giờ mà đi.

Những ngày sương mù hay mưa dầm th́ lắng nghe tiếng kèn đồng chào cờ của một đồn lính nào đó, rất xa vọng lại văng vẵng. Te te... ṭ tí te... ṭ tí te... là Sơn xỏ vội chiếc áo sơ mi ka ki vàng cụt tay, (Chiếc áo này tôi thấy từ lúc c̣n ở trường Sư phạm) đôi giầy Ba-Ta màu nâu. Nách kẹp cuốn vở soạn bài cuộn tṛn, miệng ngậm ống vố, chân sải bương bă đến trường. Trường không xa lắm. Cách nhà non nửa cây số. Sơn lội bộ hàng ngày trên con đường đất đỏ, càng lúc càng lên dốc. Ngày nắng th́ bụi đỏ mù trời. Ngày mưa đất nhăo, nhèm nhẹp. Đi một lúc th́ phải t́m một khúc cây hay ḥn đá bên đường để gạt bớt lớp đất nhăo dính vào đế giày càng lúc càng nặng. (Quảng đường này ông Trịnh Cung tưởng tượng ra dài đến mấy cây số, Sơn phải g̣ lưng đạp xe đạp đến trường). Có hôm, Sơn ngồi chờ măi vẫn không nghe thấy tiếng kèn đồng giục giă ṭ te, tí te, cứ ôm đàn t́m nốt nhạc. Đến khi sương tan, mặt trời ló ra th́ đă trưa rồi. Ba chân bốn cẳng, Sơn phóng như ngựa phi đến trường. Nửa giờ sau, thấy anh ta đủng đỉnh ra về. Tôi hỏi:

- Ủa! Không dạy à?

- Học tṛ đâu mà dạy? Sơn trả lời tỉnh khô. Tôi vẫn chưa hết thắc mắc:

- Vậy th́ chúng nó không đi học à?

- Không biết! Nhưng có lẽ chúng nó thấy không có thầy nên tự động ra về. Tôi đoán vậy.

- Nè ông Sơn! Trường ông sát nách Ty. Coi chừng Thanh tra Lương đi kiểm soát bất tử th́ chết không kịp ngáp đó nghe! Tôi nhắc chừng. Sơn vẫn nói cứng:

- A! Tôi đâu có cho phép. Chúng nó tự động về là lỗi của chúng. Đâu phải lỗi tại tôi.

Đến nước này th́ tôi chào thua, hết căi.

Một hôm, tôi bỗng nảy ư định đến xem ngôi trường của ông trưởng giáo Sơn nó ra làm sao.

Leo hết con dốc ngắn, ngôi trường hiện ra trên một khoảng đất trống. Xung quanh trơ trọi, không một cây cối ǵ cả. Trường được ngăn đôi thành hai lớp học. Mái tranh, vách đất, không cửa nẻo. Trong lớp một bàn vuông cho Thầy, sáu bộ bàn ghế dài cho tṛ. Trên vách treo một tấm bảng đen đă bạc thếch chính giữa. Chắc trải nhiều năm tháng không ai buồn sơn lại. Bụi đỏ bám khắp nơi. Từ vách đến bàn ghế thầy lẫn tṛ. Tôi đến đó khoảng mười giờ. Học tṛ hầu hết là các em bé người Thượng. Chỉ xen lẫn vài em người Kinh. Có lẽ là con em của những gia đ́nh lính đóng đồn gần đó. Tất cả đều bẩn thỉu. Có đứa ở trần, đánh độc một chiếc quần xà lơn. Có đứa cũng đủ bộ. Nhưng màu đất đỏ đă nhuộm từ ống quần trở lên, lâu ngày không c̣n nhận ra màu ǵ nữa.

Có lẽ là giờ ra chơi. Thầy Sơn đang ngồi tư lự. Miệng ngậm ống vố, mắt nh́n lơ đăng về cánh rừng xa xa. Mặc cho đám học tṛ nhỏ làm ǵ th́ làm. Một túm đang g̣ lưng trên bàn, méo mồm, méo miệng nắn nót viết bài. Một tụm đang ḅ lê bắn bi dưới đất. Cuối lớp có vài đứa đang dựa lưng vào vách, há mồm ngủ.

Thấy tôi vào, Sơn cười méo miệng:

- Tới đây chi cha?

- Tới coi ông trưởng giáo làm ăn ra sao cho biết! Tôi cười cười.

- C̣n ông già Thống đâu?

- Ông Thống dạy buổi chiều.

- Trường có mấy lớp anh Sơn?

- Ba. Tôi dạy lớp ba. Ông Thống lớp một và hai.

- Học sinh đông không?

- Th́ ông thấy đó. Bữa nào không đi hái trà th́ được hai chục. Bữa nào cha mẹ nó cần thêm nhân công th́ lớp mươi, mười lăm đứa.

Những đứa học tṛ thấy người lạ th́ trố mắt nh́n. Sơn gơ gơ cây thước lên bàn làm hiệu. Đám học tṛ ngưng hẵn cuộc chơi, chờ lệnh thầy. Sơn nói:

- Hôm nay thầy có khách. Cho các em về sớm.

   Đám trẻ con hớn hở ra mặt, vội thu sách vở, ùa ra cửa. Trong giây lát, tất cả trở về trong yên lặng. Sơn ngồi trầm ngâm, nán lại thêm một chút nữa, đăo mắt nh́n quanh một ṿng, rồi tặc lưỡi đứng lên. Hai chúng tôi yên lặng xuống đồi. Trong thâm tâm, có lẽ mỗi người đang theo đuổi những ư nghĩ khác nhau. Sơn nghĩ ǵ? Tôi không biết. Riêng tôi th́ nghĩ: May cho ông thi sĩ họ Cao ngày xưa. Ngồi dạy học ở nơi khỉ ho c̣ gáy, c̣n có một cô, một chó cái an ủi. Ngày nay ông nhạc sĩ họ Trịnh cũng ngồi dạy học ở một nơi y như vậy mà không có ǵ bầu bạn, ngoài một nỗi buồn cô quạnh!

Trên đường về, tôi gợi ư với Sơn, nên nhập hai buổi thành một, để có thêm ông già Thống cho vui. Sơn cho là ư hay.

Chiều nay tôi phải bàn với ông Thống mới được.

 

Ông Già Thống: Con Ngựa Già Của Trưởng Giáo Trịnh

Sau khoảng vài tháng đầu niên khóa 64-65, ông Trương Cảnh Ngôn về hưu. Ông Lê Cao Lợi, một vị thanh tra kỳ cựu, có tu nghiệp ở Mỹ một thời gian, được Bộ đề cử chức Ty Trưởng thay ông Ngôn. Thời gian này là thời kỳ vàng son của Trịnh Công Sơn. Ông Lợi, người trung niên, có tâm hồn văn nghệ, thích thơ, nhạc, nên đối với một nghệ sĩ như Sơn, Ông dành cho nhiều dễ dăi. Đôi lúc nhắm mắt làm ngơ cho Sơn dùng th́ giờ dạy học làm việc riêng của ḿnh. Điều này đă khiến cho một vài giáo viên già, lâu năm trong nghề, so b́.

Khi chúng tôi đặt chân lên Bảo Lộc, trời đă vào thu. Những tháng đầu c̣n lạ nước, lạ cái, không biết đi đâu, làm ǵ cho hết th́ giờ. V́ chỉ dạy có một buổi, chúng tôi có suốt những buổi chiều lang thang. Cứ hết "những bước chân âm thầm" trong khuôn viên trường Nông Lâm Súc, im ĺm vắng vẽ với những tàn cây sao, cây gơ, cây gụ... cao vút tận trời xanh, lại đến đoạn đường Quốc Lộ chạy xuyên qua con phố Bảo Lộc lèo tèo vài quán ăn dọc đường ngắn củn. Chúng tôi lại đi ṿng ṿng bờ hồ cho đến khi chiều xuống hẳn. Sương mù bắt đầu xuất hiện trên mặt hồ. Ban đầu mỏng rồi đầy dần, đầy dần cho đến lúc che khuất hẳn một cḥm cây giữa hồ. Chỉ c̣n thấy một thân cây chết khô với những cành khẳng khiu vươn lên trơ trọi giữa trời mây. Đến lúc đó, ai cũng cảm thấy mỏi chân. Và muốn vào quán ngồi nhâm nhi cà phê hoặc làm vài chai bia, nghe nhạc, chờ tối để về nhà t́m giấc ngủ. Trong cái không gian và thời gian đó, Trịnh Công Sơn đă cảm hứng sáng tác nhạc phẩm "Chiều Một Ḿnh Qua Phố".

Một điều đặc biệt rất lạ là suốt thời gian ba năm làm nhạc tại Bảo Lộc, những nhạc phẩm "Chiều Một Ḿnh Qua Phố", "Lời Buồn Thánh", "Vết Lăn Trầm", "Tiếng Hát Dạ Lan" và tập "Ca Khúc Da Vàng" Sơn đều đi mượn đàn của bạn. Mặc dù đă có tiền nặng túi, Sơn vẫn không có nỗi cây đàn. Hay Sơn không muốn mua? Cây đàn đă giúp Sơn ghi lại những nốt nhạc mà Sơn thai nghén trong lúc đi dạy hoặc lang thang với chúng tôi ban ngày. Tối về chúng tôi say trong giấc ngủ th́ Sơn say sưa ôm đàn ḍ lại những âm thanh chập chờn ẩn hiện trong đầu. Đó là cây đàn ghi ta của cô giáo Đỗ Thị Nghiên.

Sau những đêm như thế, Sơn phờ phạc hẵn. Sáng ra, giỏ rác đầy tràn những giấy nháp. Sơn chép vội những ḍng nhạc vừa xuất hiện trong đầu rồi chợt biến. Vo tṛn, ném, lại ḍ t́m. Sơn sợ làm ồn giấc ngủ của tôi, nên phải chận phím để tạo những âm thanh câm.

Như trên đă nói, trước đó, Sơn đă có nhiều nhạc phẩm hay nhưng chỉ chuyền tay nhau hát trong chốn bạn bè. Có lẽ không có điều kiện hay v́ lư do nào đó, Sơn không thể xuất bản để phổ biến rộng răi. Cho đến khi ở tại Bảo Lộc, sau khi hoàn chỉnh nhạc phẩm "Chiều Một Ḿnh Qua Phố", Sơn quyết định mang đứa con của ḿnh về Sài G̣n, t́m nhà xuất bản.

Sơn ở rịt tại Sài G̣n gần ba tuần lễ.

Ông giáo già Tạ Văn Thống chạy chiếc xe gắn máy hiệu Sach, cũ kỹ, già nua không thua ǵ tuổi đời của ông, đến chỗ chúng tôi trọ, t́m thầy Sơn.

- Thầy ơi! Thầy có biết thầy Sơn ở đâu không? Ông hỏi tôi.

Ông ấy về Sài G̣n rồi! Ông ta không nói ǵ với ông sao? Tôi đáp. Ông Thống không trả lời tôi, chỉ ôm đầu rền rĩ.

- -i giời ôi! Tôi chết mất! Thế này th́ tôi chết mất! Một ḿnh tôi phải ôm ba lớp suốt ba tuần nay.

Ông lại hỏi tôi:

- Thầy có biết lúc nào ông ấy về không?

- Không! Không thể nào biết được bác Thống ạ!

- Thế th́ tôi chết mất!

Ông vừa chào tôi, vừa rền rĩ, thất thểu dắt xe ra ngơ. Tôi nh́n theo, ái ngại cho tuổi già của ông. Vài năm nữa là về hưu, nên ông cố gắng đeo cái nghề này trong chốn đèo heo, hút gió để mong được chút tiền hưu, an hưởng tuổi già. T́nh trạng này sẽ c̣n tái diễn dài dài. Và ông vẫn sẽ phải ôm ba lớp mà ca cẩm, rên rĩ như mọi bận. Chúng tôi gọi đùa sau lưng ông là "Con Ngựa Già Của Trưởng Giáo Trịnh". Nhại lại nhan đề một truyện ngắn.

 

Nhạc Phẩm Đầu Tiên  Được Ấn Hành 

Mấy ngày sau Sơn về, mặt mày bơ phờ, hốc hác. Tôi kể chuyện ông già Thống đi t́m. Sơn nói sẽ xin lỗi sau. Xong, Sơn ngủ vùi suốt ngày hôm đó. Hôm sau, Sơn vui vẻ kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện về nhạc phẩm "Chiều Một Ḿnh Qua Phố". Sơn kể:

- Ḿnh bán cho cha Duy Khánh. Chả trả có ba ngàn đồng bạc. Ḿnh nài thêm, chả nói: "Nhạc Phạm Duy là đắt nhứt mà cũng chỉ tới năm ngàn là cùng, ông là nhạc sĩ mới, giá vậy là cao lắm rồi". Sơn tặc lưỡi nói tiếp:

- Thôi cũng được, nhưng tiếc một điều là chả làm hư bản nhạc của ḿnh. Ḿnh bán đứt bản quyền rồi đâu c̣n ư kiến chi được!

Tôi thắc mắc:

- Hư là hư làm sao?

- Nhạc của ḿnh thuộc loại êm, nhẹ, diễn tả nổi buồn của những ngày lang thang trên phố vắng, đ́u hiu, quạnh quẽ, mà chả cứ rống lên như ḅ rống!

Sơn giả điệu bộ và giọng Duy Khánh, lấy tay nắm lấy da cổ họng giựt giựt miệng rống lên "Chiều một ḿnh qua phố... ố...ố...ố..." Tôi không sao nín cười được. Nhân đó, Sơn giải nghĩa cho tôi nghe về việc in ấn, tác quyền, phát hành, gom tiền... rất nhiều giai đoạn nhiêu khê. Tác giả một nhạc phẩm hay một tiểu thuyết không thể nào tự ḿnh làm được các việc đó, nên bị các nhà xuất bản bắt chẹt, đành phải bán bản quyền cho họ. Bấy giờ tôi mới vỡ ra. Lâu nay tôi cứ ngỡ các ông văn sĩ, nhạc sĩ có sách, có nhạc được in ra, đem bán khắp nơi, chắc hẳn là giàu lắm. Này nhé, cứ tính nhẩm th́ thấy ngay: một bản nhạc giá 7$ x một triệu bản = 7 triệu đồng. Triệu phú rồi c̣n ǵ! Té ra, sự thật, ông nhạc sĩ nhà ḿnh ôm có ba ngàn đồng bạc đi ăn nhậu, nhảy đầm với đám bạn mấy ngày hết sạch! C̣n phía nhà xuất bản th́ sao? Ông Duy Khánh của ta đem in ra chỉ có 1.500 bản, gởi các đại lư khắp nước bán dùm, họ ăn hoa hồng 35%. Gần cả nửa năm sau chưa gom hết tiền về.

Dịp này, Sơn cũng kể cho tôi nghe về hai người bạn ở Sài G̣n mà Sơn thường về ở chung, đi ăn, đi nhảy với nhau. Đó là Trịnh Cung và Đinh Cường. Đến giờ phút này tôi vẫn chưa có dịp gặp và biết Đinh Cường. (Trừ những tấm h́nh trên Net). Trịnh Cung th́ tôi thấy mặt một lần khi ông ta ghé thăm Sơn tại Bảo Lộc, nơi pḥng chúng tôi đang ở. Khoảng đầu năm 1965 th́ phải! H́nh ảnh của 2 ông Trịnh thật là tương phản. Ông Trịnh nhạc sĩ th́ xuề xoà, giản dị trong bộ đồ, áo kaki vàng bỏ vô quần tergal, với đôi giầy Ba-Ta màu nâu muôn thuở. (Sau này có may thêm hai áo sơ mi, một nâu, một trắng bằng vải Nil France) Dạo ấy Sơn có biệt danh do chúng tôi đặt là "Chàng nghệ sĩ nhứt y nhứt quởn". Có lẽ một năm Sơn mới đi hớt tóc một lần, tôi nghĩ vậy, v́ không bao giờ thấy Sơn có đầu tóc mới. Vẫn mái tóc thưa, mềm chạy dài xuống gáy. Hàng râu mép hung hung nâu. Không phải râu, cũng không phải lông. Khi dài th́ Sơn lấy kéo cắt bớt. Hàng râu cằm lại càng khiêm nhường. Từ sợi nọ sang sợi kia có thể mắc vơng được. Tôi thường đùa với Sơn như vậy.

C̣n ông Trịnh họa sĩ th́ rất đỏm dáng trong bộ âu phục thời trang. Áo veston xẻ hông, cà vạt, giầy da bóng láng. Ông có bộ râu quai nón rất rậm, che kín gần hết khuôn mặt, chỉ chừa một khoảng nhỏ từ trán xuống mũi.

Lần thứ hai tôi gặp lại ông là tháng 6 năm 1967. Tổng động viên, tôi vào Thủ Đức. Lúc ấy ông đang mang lon Thiếu Úy, làm huấn luyện viên. Lần thứ ba, giữa năm 1970, tôi gặp lại cả hai ông Trịnh tại pḥng triễn lăm tranh được tổ chức trong ngôi biệt thự Văn Hóa Pháp, đường Yersin Nha Trang. Lần ấy, Sơn không nh́n thấy tôi hay không c̣n nhận ra tôi, tôi không biết. Nhưng lúc ấy Sơn đang bận rộn bắt tay người này, cười nói với người kia. Cả một đám đông đang quây xung quanh. Tôi không tiện và cũng không thể len vào để nói mấy câu nh́n bạn. Sơn vẫn xuề x̣a trong bộ âu phục thường. Ông họa sĩ vẫn đóng khung c̣m lê, cà vạt. Tối hôm đó nằm mơ, tôi thấy Sơn đến thăm tôi tại căn pḥng có cửa sổ ngó ra con đường đất đỏ, trong ngôi nhà của bà Trần Thị Phi và hai chúng tôi đến Câu Lạc Bộ Lâm Đồng uống cà phê. Nhưng sương chiều cứ là là bay, che khuất khuôn mặt Sơn. Tôi cố nh́n nhưng vẫn không thấy rơ nét.

Trở lại câu chuyện "Chiều Một Ḿnh Qua Phố". Sơn hỏi tôi:

- Có nghe ông Lợi nói ǵ về tôi không?

- Không biết! Nhưng ông đi lâu quá, tôi e cũng đă đến tai ông ta rồi.

- Làm sao bây giờ? Sơn có vẽ hơi lo. Tôi trấn an:

- Không sao đâu! Chiều nay ông lên Ty, cười cầu tài một phát. Nói vài lời xin lỗi rồi tặng ổng bản nhạc là xong ngay.

Sơn thở phào nhẹ nhỏm. Sơn rút trong cặp ra hai bản nhạc, kư tặng ông Lợi một bản, tôi một bản. Bản đặc biệt in trên giấy láng, hai lớp. H́nh b́a màu nâu, vẽ chàng nghệ sĩ tay trái xách đàn, tay phải vắt áo khoác trên vai, đang lầm lũi xuống con đường dốc. H́nh b́a này chắc không phải do ông Cường hoặc ông Cung vẽ. Nét vẽ chân phương không lập dị như thường thấy của hai ông. Sơn kư cả họ lẫn tên và chữ lót dài từ đầu này đến đầu kia của bản nhạc theo chiều đứng. Cái gạch ngang chữ T trên đầu kéo dài che hết ba chữ Trịnh Công Sơn. Không có h́nh con cá như ông Cường nói. Tôi làm thầy bói nói ṃ:

- Chữ kư ông đẹp. Tiếc thay cái gạch dài quá, che hết cuộc đời của ông, e rằng không được tốt!

Sơn cười:

- Thôi cha! Bày đặt coi tướng số, tử vi hả?

Chiều hôm đó, từ Ty về, Sơn hớn hở khoe với tôi:

- Lúc mới vô Ty, mấy nhân viên văn pḥng ái ngại nh́n tôi, chắc thế nào cũng bị ông Lợi quạt một trận tơi bời v́ tội bỏ nhiệm sở. Tôi cũng hơi lo. Nhưng lúc gặp ổng trong văn pḥng riêng, tôi x́a bản nhạc ra trước và nói mấy câu phân bua lư do vắng mặt cùng lời xin lỗi. Ổng cầm bản nhạc, chăm chú xem, không nói ǵ. Lúc đó tôi hơi yên tâm. Cuối cùng ông ta nói:

- Cám ơn anh bản nhạc. Nhưng từ rày về sau đừng bỏ trường nữa. Tôi nghiệp cho ông Thống. Và tôi cũng khó đối xử với các nhân viên khác. Về lănh vực âm nhạc, mong anh thành công nhiều hơn.

 

Cô Nữ Sinh Tên Ngà, Tiếng Kèn Đồng Và "Lời Buồn Thánh"

Khoảng đầu tháng tư năm 1965, chúng tôi đau buồn tiễn biệt người bạn trẻ Nguyễn Văn Ba về bên kia thế giới. Căn nhà chỉ c̣n ba người. Nguyễn Hảo Tâm ở một ḿnh để được yên tĩnh học, mong lấy nốt chứng chỉ Văn khoa cuối cùng.

Ba là người ngoan đạo. Mỗi buổi sáng, đúng năm giờ, dứt hồi chuông đầu là anh đă ra khỏi nhà để đến nhà thờ dự lễ nhứt. Trong khi chúng tôi c̣n quấn kỹ trong chăn. Rất chăm chỉ, rất đều đặn, anh không bỏ sót một ngày, dù mưa hay băo.

Hôm anh về Sài G̣n để thăm gia đ́nh, Việt Cộng đắp mô ở đoạn đường đèo Madagui. Trên chiếc xe đ̣ Minh Tâm, tám chỗ ngồi, có một cha xứ ở Tân Phát cùng đi. Không một ai dám xuống xe để gỡ mô. Cha xứ nóng ḷng về Sài G̣n gấp, không thể chờ quân đội đến phá mô như mọi bận, nên Cha tự tay xuống gỡ. Mô chỉ là một đống đất hoặc vài tảng đá. Có khi là một thân cây chắn giữa đường, trên phủ cành lá um tùm. Bên dưới gài lựu đạn hoặc ḿn. Có khi chỉ là nghi trang, mục đích làm trở ngại giao thông, gây khó khăn cho dân chúng đi lại làm ăn mà thôi. Lần này mô rất sơ sài, chỉ dăm ba cục đá, một ít đất, vài nhánh cây phủ lên trên. Trông không có vẽ ǵ ghê rợn như mọi lần. Chừng năm, mười phút dọn dẹp là xe có thể lưu thông được. Thấy Cha Xứ xuống xe gỡ mô, Ba cản lại:

- Cha cứ ngồi trong xe. Ḿnh con xuống gỡ là được rồi!

Ba kéo gần hết các nhánh cây ra khỏi mô. Thấy không động tịnh ǵ. Mọi người thở phào nhẹ nhơm. Năy giờ cứ lên ruột. Tài xế nổ máy xe, chuẩn bị lăn bánh. Ầm! một quả lựu đạn nội hóa phát nổ. Ba vật ngữa ra, chết liền tại chỗ. Cả xe bàng hoàng, khủng khiếp. Không một ai nhúc nhích. Mấy phút sau, cha xứ và vài hành khách rụt rè xuống xe, lại gần Ba, khiêng anh về. Xe chạy ngược lại Bảo Lộc.

Khi hay tin, chúng tôi sững sốt, nghẹn ngào. Vội vă đến thăm anh tại nhà thương Bảo Lộc. Anh nằm trong nhà xác. Thần thái như đang ngủ. Thi thể không một vết thương. Nhân viên y tế cho biết chỉ có một mănh duy nhất trúng ngay tim. Năm ấy anh mới có hai mươi bốn tuổi, tuổi vừa mới biết yêu. T́nh yêu mới chớm nở với người đẹp Bùi Thị Lan, nữ thư kư trong Ty. Một cái chết tức tửi, oan uổng, phi lư.

Sau cái chết của Nguyễn Văn Ba, Sơn đâm rét, không dám về Sài G̣n hàng tuần nữa. Trước đó, cứ trưa thứ sáu, sau khi tan trường, Sơn đi thẳng ra bến xe, lấy vé về Sài G̣n. Xe nhỏ Minh Tâm, chỉ bốn tiếng đồng hồ là Sơn đă "tiếu ngạo" ở thành phố hoa lệ. Mười hai giờ trưa Chúa Nhật, Sơn lại lên xe đ̣, đánh một giấc. Năm giờ chiều đă có mặt tại quán cà phê Ngọc Trang.

Những ngày bó gối nằm nhà, Sơn thường ngồi tư lự trước bàn viết duy nhất dành cho cả hai soạn bài, nh́n đăm đắm ra con đường đất đỏ. Mùa này bông lau nở trắng khắp nơi. Lau trắng dọc theo con đường dốc chạy dài từ trong buôn ra tới quốc lộ, băng ngang trước nhà chúng tôi. Buổi chiều, gió nồm thổi nhẹ từng cơn, lướt qua rừng lau, xô chúng ngă nghiêng xuống, rồi chúng bật dậy, tạo thành những âm thanh xào xạc nhè nhẹ, đều đều, buồn buồn. Chiều xuống dần. Những vạt nắng cuối cùng chiếu xiên trên những ngọn bông lau, lấp lánh sáng ngời. Gió lắng dần. Không gian trở nên im ắng, tĩnh mịch. Chợt tiếng kèn đồng xa xa vẳng lại, lúc nghe, lúc mất. Thật hắt hiu buồn. Đó là lúc cô nữ sinh hàng xóm, cô Ngà, đúng giờ đi lễ chiều. Chuông nhà thờ đang vang vang, dồn dập từng hồi, thúc dục con chiên đến giáo đường.

Thật đúng như tên đặt, da cô trắng ngà. Người mănh mai với mái tóc thề chấm ngang vai, với khuôn mặt phảng phất nhiều nét như Đức mẹ Maria. Rất dịu dàng trong dáng đi. Mỗi buổi chiều cô đi lễ, đều đi ngang nhà chúng tôi. Hai tay ấp quyển Thánh Kinh trước ngực, đầu hơi cuối xuống, lặng lẽ, khoan thai bước. Đă bao lâu rồi? Cái h́nh ảnh rất đẹp ấy, cái màu áo dài trắng nổi bật trên nền đất đỏ, thấp thoáng ẩn hiện trong đám lau trắng, đă đi ngang nhà chúng tôi bao nhiêu chiều rồi mà chúng tôi không hề hay biết. Thật uổng phí! Chẳng là, cứ ba giờ chiều, chúng tôi đă túc trực quanh mấy cái bàn bi da để dành chỗ rồi chơi cho đến khi tắt điện mới ṃ về, th́ làm sao có th́ giờ để biết bên hàng xóm có người đẹp. Cái tên Ngà, măi về sau, theo dơi, lắng nghe mấy đứa em cô gọi, mới biết.

Từ ngày Nguyễn Văn Ba chết, chúng tôi buồn v́ thiếu vắng một người bạn, nên không c̣n hứng thú trong những buổi lang thang nữa. Ngồi nhà suốt một tuần nên mới phát hiện ra bên hàng dậu có người ngọc. Cả ba: Sơn, Tâm và tôi bắt đầu theo đuổi. Nhưng cả ba đều không thành công. Chúng tôi đều bỏ cuộc nửa chừng. Lư do: Tuổi trẻ ham chơi không để phí nhiều th́ giờ để đeo đuổi. Thứ nữa là sĩ diện, quan trên trông xuống, người ta trông vào. Thầy giáo mà đi chọc gái th́ ê càng quá.

Tuy nhiên, với tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ, Sơn đă thành công khi đưa tất cả những âm thanh mơ hồ của ngàn lau, của tiếng kèn đồng, tiếng chuông nhà thờ cùng dáng yểu điệu của cô Ngà, ḥa nhập với gió chiều nhè nhẹ, để cấu thành chất liệu tuyệt vời tạo nên nhạc phẩm "Lời Buồn Thánh".

 

Đôi Nét Về Trịnh Công Sơn 

Trịnh Công Sơn có vẽ người nghệ sĩ tự nhiên với mái tóc thưa, bồng bềnh, không chải chuốt hoặc cố làm dáng như các bạn văn nghệ của anh. Anh không bao giờ cạo mặt. Nếu ai nh́n kỹ khuôn mặt anh, sẽ thấy đầy những lông măng. Có lần tôi ṭ ṃ hỏi anh về chuyện hớt tóc, cạo râu, anh cho biết: Mỗi khi thấy lưỡi dao cạo bén ngót của ông thợ cạo là bắt rùng ḿnh. Nghĩ ngay đến cảnh đang nằm ngửa cổ chờ cạo râu th́ ông thợ cạo đưa một đường ngọt xớt, đứt ĺa cuống họng. Sơn không nói v́ sao lại có cái ám ảnh ghê rợn đó.

Sơn rất gầy, thường xuyên ở mức bốn mươi kư lô, mặc dù anh cao hơn tôi. Nhất là mỗi năm sắp đến kỳ nghỉ hè, đám giáo viên lại nhận được giấy gọi nhập ngũ, Sơn nhịn đói, thức khuya, uống cà phê đen, đậm, hút thuốc lá liên tục để xuống cân. Sau một tháng, Sơn rạc hẵn, trông rất tiều tụy. Thảm năo đến tội nghiệp. Sơn chỉ c̣n ba mươi hai kư lô, dưới "pi nhê" để đi lính. Ngược lại với Sơn, chúng tôi ăn nhậu thả dàn cho thỏa những ngày c̣n ung dung tự tại. Sợ chó ǵ! Đi lính th́ đi! Thiên hạ đi lính chết cả à? Sống chết phải có số chứ! Mới vừa đây thôi. Việt Cộng pháo kích vào quận, một trái hỏa tiển rơi nhằm nhà một cô giáo, trúng ngay chiếc giường, ba mẹ con đang ngủ, chết tan xác. Ông chồng nằm pḥng bên cạnh lại không hề hấn ǵ. Chúng tôi cứ lập luận như vậy để tự an ủi chứ ai cũng thừa biết rằng "Xưa nay chinh chiến mấy ai về".

Ấy vậy mà gần đến ngày tựu trường, chúng tôi lại nhận được giấy hoăn dịch thêm được một năm. Lại có cớ để ăn mừng lớn. Nhậu một bữa quắc chỉ cần câu. Lần này Sơn mới dám mạnh dạn nhập cuộc. Lần lữa, chúng tôi thoát được hai niên khóa. Đến niên khóa thứ ba, năm 1967, t́nh h́nh chiến sự ngày càng ác liệt, tổn thất nhân mạng trầm trọng, Bộ Quốc Pḥng vét một mẻ lớn. Đui, què, mẻ, sứt phải nhập ngũ ráo. Bộ Giáo Dục bó tay, không can thiệp được nữa. Đến nước này, biện pháp nhịn ăn để xuống cân, tăng độ cận thị không c̣n hiệu quả nữa. Sơn trốn lính. (Ông Liễu nói Sơn uống dấm là không đúng)

Sơn hút ống vố (pipe) thuốc Mỹ, pha trộn hai loại Half & Half và No #79 thơm không chịu được. Bên cạnh c̣n thêm Basto xanh. Thường trực trong nhà phải có mấy lố. Sơn uống cà phê đen pha bằng "phin" Inox, từng giọt, từng giọt quánh như keo, rất ít đường. Sơn chê chúng tôi uống cà phê như ăn chè. "Gần mực th́ đen, gần đèn th́ sáng". Tôi đang hút Pallmall. Thỉnh thoảng thay gu bằng Lucky Strike. Thấy Sơn hút tẩu, tôi ghiền mùi No 79. Tôi cũng tập ṭ hút ống vố, nhất là bắt chước cho giống nghệ sĩ. (Ông Liễu cũng ngậm ống vố) Một dịp về Sài G̣n du hí, tôi ṃ vào Eden, mua đủ bộ lệ gồm một ví da ba ngăn, một ngăn đựng ống vố, một ngăn đựng thuốc, một ngăn đựng que thông ṇng và con dao xếp đặc biệt ba lưỡi. Dao này dùng nhồi thuốc, nạo tàn và xoi ṇng. Mấy ngày đầu ráng tập ngậm, khổ sở vô cùng. Không biết nước miếng ở đâu mà cứ tuôn ra ào ào, chảy ṛng ṛng hai bên mép. Vừa lau xong, lại lau. C̣n cái ống vố, có cảm tưởng nặng chừng cả kư lô. Nó kéo tŕ cái môi và cái hàm dưới lệch một bên làm khuôn mặt méo xẹo như người mắc phong. Thôi! Bỏ! Tiếp theo, tôi bắt chước để tóc dài bồng bềnh như mây khói. Nhưng hởi ôi! Tóc râu tôi thuộc loại rễ tre. Càng dài càng xỉa ra trông giống cái chổi xể. Soi gương, thấy giống thằng ăn cướp. Bộ tịch thầy giáo như vậy làm sao mà dạy học tṛ. Tôi đành từ bỏ cái mộng làm dáng nghệ sĩ.

Bản tính Sơn hiền lành, điềm đạm, nói năng nhỏ nhẹ. Không giống bọn tôi. Lúc nào cũng ào ào, cười nói toe toét. Nhất là khi đă có vài ve vào th́ khỏi nói. Trái lại, Sơn trầm tĩnh, chỉ ngồi cười. Rơ ràng đồng trang lứa mà Sơn đă chững chạc hơn chúng tôi nhiều. Nhưng Sơn hiền quá đến độ nhu nhược. Gần như hèn.

Nhớ lại hồi mới lên Bảo Lộc được vài ngày, Sơn, Trương Khắc Nhượng và tôi kéo nhau đi uống cà phê ở một cái quán cuối con dốc, cạnh bờ hồ (Quên tên quán). Quán có cô chủ rất xinh, nên mấy anh choai choai túc trực rất đông. Trời mưa lâm râm. Mới hơn bảy giờ mà đă tối mịt. Chúng tôi lựa một cái bàn trong góc tối để dể ngắm nh́n cô chủ. Nhạc êm nhè nhẹ, xập x́nh. Cà phê từng ngụm nóng hổi, thơm phức. Vừa cảnh, vừa t́nh thật không ǵ thú cho bằng.

Đang khoan khoái thưởng thức cái thú cà phê, thuốc lá, bỗng từ bàn phía bên kia, một cậu choai choai độ 17 hay 18 tiến sang bàn chúng tôi, chỉ vào chàng thư sinh Trương Khắc Nhượng, ra lệnh:

- Mời anh ra ngoài sân cho tôi nói chuyện.

Tôi đá vào chân Nhượng dưới gầm bàn, ra hiệu đừng đi. Nhượng ú ớ:

- Tôi... tôi đâu có quen anh?

Tên kia sẵng giọng:

- Không cần quen hay không! Anh có ra không th́ bảo?

Chúng tôi tái mặt. Rơ ràng chúng muốn gây sự đây mà. Rơ ràng ma cũ bắt nạt ma mới. Tôi đang nghĩ kế thoát thân. Quán không có cửa hông. Cửa sau ăn ra bếp. Phải chạy ṿng qua chỗ cát xê, cô chủ đang ngồi, xuống bếp cũng kẹt vào đường cùng. Ngơ trước th́ bọn nó cả chục đứa đang án ngữ. Không chừng bọn nó có dao nữa. Tiến thối lưỡng nan. Sơn bắt đầu run lập cập. Nhượng nói hết ra hơi. Tôi cố kéo dài thời gian t́m kế:

- Anh à! Chúng tôi vừa mới lên đây có mấy ngày, có quen ai đâu, đâu có chuyện ǵ để nói!

Hắn vẫn sấn sổ:

- Tôi không mời anh. Tôi muốn nói chuyện với thằng kia!

Nói xong, nó quay sang Nhượng, nắm lấy tay anh định lôi đi. Nhượng líu lưỡi:

- Ơ! Không!... không!

Hai bên đang dằng co, lôi kéo. Đột nhiên, như một cảnh trong phim cao bồi, từ trong góc tối phía bên kia, một thanh niên dong dỏng cao, vẻ đẹp trai thư sinh, áo sơ mi trắng dài tay, xăn lửng, bỏ trong quần, bước tới bàn chúng tôi, với giọng rơ ràng, chắc nịch:

- Các anh đừng sợ.

Quay sang tên kia, anh gằn giọng:

- Bọn mầy muốn ǵ th́ gặp tao đây!

Tên kia bất ngờ hụt hẫng con mồi, bước nhanh ra cửa, tay ngoắc, miệng chửi thề:

- Đ. má! Mầy ngon hả? Ngon th́ ra đây!

Vị cứu tinh chúng tôi săi ba bước tới cửa, hai tay bám vào xà ngang, cùng lúc hai chân anh phóng một đạp như trời giáng vào ngực tên kia nhanh như chớp. Trong lúc không ngờ, tên kia ngă huỵch xuống đất, ôm ngực la bài hăi vừa chửi thề luôn miệng. Đồng bọn hơn chục đứa kéo ra vây chung quanh anh, vừa vung tay, vừa ḥ hét:

- Đánh chết mẹ nó đi! Chém chết cha nó đi!

Chúng tôi rụng rời tay chân. Cứu tinh chúng tôi phen này chắc phải bỏ mạng với chúng. Đám khách trong quán ngồi im thin thít. Không một ai dám hó hé. Cô chủ quán đến bàn chúng tôi hỏi thăm và an ủi:

- Mấy anh có vẽ lạ, h́nh như mới tới đây phải không? Cái đám du đăng này ở công trường Nông Sơn trốn ra mấy bữa nay. Đêm nào chúng cũng đến đây quậy phá mà không ai dám làm ǵ.

Cô đưa mắt nh́n ra cửa lo lắng:

- Đêm nay số xui tới phiên các anh và cả anh kia nữa.

Trong lúc ấy, ngoài cửa tiếng ḥ hét, tiếng chửi thề, càng lúc càng hung hăn. Chúng vây anh thanh niên vào giữa ṿng tṛn, nhưng không tên nào dám xông vô tấn công.

Chợt cô chủ quán la lên khe khẻ:

- Trời! Chúng có dao!

Bây giờ chúng tôi mới thấy rơ trong tay bọn chúng đứa nào cũng lăm lăm con dao. Làm sao đây? Chúng tôi nh́n nhau không biết phải làm cách nào để giúp sức người ơn, đành trơ mắt ếch nh́n anh một cách bất lực. Nhưng lạ thay, chàng thanh niên vẫn b́nh tĩnh, tay chống nạnh sườn, nh́n đám du đăng đang giương nanh, múa vuốt, không một chút sợ sệt. Sau một lúc ḥ hét thị oai để cướp tinh thần đối phương, chúng hè nhau áp vô một lượt định tấn công anh bằng đ̣n hội chợ. Nhưng nhanh hơn chúng trước mấy giây đồng hồ, ba phát súng nổ chát chúa vang lên trong đêm tối tĩnh mịch. Cả bọn bỏ chạy tán loạn, té ḅ lê, ḅ càng. Vừa chạy vừa la thất thanh:

- Nó có súng! Nó có súng!

Th́ ra trong lúc chúng tôi lo lắng cho sự an nguy của anh, anh rất b́nh tĩnh đối phó với chúng. Chờ cho chúng thật sự tấn công, anh mới móc súng ra bắn ba phát chỉ thiên thị uy, cốt hù dọa chúng mà thôi. Khi mọi sự trở lại yên tĩnh, chúng tôi mời anh vào quán để cám ơn và mời anh một chầu. Anh vui vẻ ngồi vào bàn và tự giới thiệu:

- Tôi là Triệu. Thiếu úy Triệu. Đại đội tôi mới được tăng cường tới Bảo Lộc sáng nay để bảo vệ an ninh quận.

Anh quay sang hỏi thăm chúng tôi. Sau khi nghe chúng tôi lần lượt giới thiệu và cho biết là đang dạy học tại đây, cũng vừa mới tới được mấy ngày. Anh à lên một tiếng và xoay lưng ra phía sau, ngoắc tay một cái, lập tức có hai anh khác đang ngồi nhâm nhi cà phê trong góc vội chạy đến trông điệu bộ rất cung kính:

- Dạ ! Ông thầy! Ông thầy sai ǵ tụi em!

Triệu nói:

- Hai anh về lấy chiếc Dodge tới đây để đưa mấy ông giáo về nhà cho an toàn!

Một anh nói:

- Khỏi cần hai người. Một ḿnh em về lấy xe. Để thằng Xinh ở lại bảo vệ ông Thầy.

Chúng tôi lo ngại anh đi một ḿnh nên đồng thanh:

- Anh coi chừng tụi nó trả thù.

Anh ta nháy mắt cười với chúng tôi, tay vỗ vỗ vào lưng và nói:

- Tui có cái này, đố cha tụi nó dám!

Hóa ra, thiếu úy Triệu c̣n có hai vệ sĩ đi kèm mà chưa cần phải ra tay. Ngoài hai vệ sĩ to như hai ông hộ pháp ra c̣n có ba con chó lửa nữa th́ tụi nhóc du đăng cả chục đứa ăn nhằm ǵ. Chúng tôi kết bạn với nhau từ đêm ấy. Hơn tháng sau, đại đội Triệu hành quân đi nơi khác, gấp rút, không kịp gặp nhau nói lời từ giă. (Không biết vị ân nhân này, bây giờ c̣n hay mất, tôi không hề gặp lại). Đêm đó, Sơn nằm kể cho tôi nghe, thời gian ở Huế, anh làm huấn luyện viên nhu đạo cho Sở Hiến Binh Thừa Thiên. Sau một cơn bạo bệnh, anh quên hết các thế vơ. Tôi nghe mà ḷng hoài nghi, thắc mắc. Tôi cũng có học đôi chút về nhu đạo. Nhu đạo cốt lấy nhu thắng cương. Dùng lực người làm lực ḿnh để chiến đấu, rất ít hao nội lực. Nếu v́ bệnh hay lư do nào khác th́ chỉ mất sức khoẻ hay nội lực chứ làm sao mà quên hết các thế vơ. Trừ khi mất trí nhớ. Nhưng thấy Sơn trong lúc c̣n đang sợ về chuyện vừa rồi, tôi không tiện hỏi lại. Sau đó cũng quên luôn. Nay, lại nghe ông Trịnh Cung nhắc chuyện Sơn tập nhu đạo với đứa em, bị cú choàng vai, phải nằm viện, thành ra ốm yếu. Mối nghi ngờ Sơn nói dối để tự che đậy mặc cảm nhút nhát, hèn yếu của ḿnh lại vụt trở về trong kư ức.

Lại nhớ thêm một lần khác, năm 1962, lúc học ở Qui Nhơn. Con trai B́nh Định rất ghét nam giáo sinh Huế. V́ trai Huế mă ngoài trông rất bảnh và sang trọng. Các em nữ sinh Qui Nhơn bỏ kép "lô can" của ḿnh chạy theo "của ngoại". Hơn nữa, Qui Nhơn lúc bấy giờ chỉ có trường trung học Cường Để là lớn nhất, nhưng chỉ có đến lớp đệ nhị mà thôi. Học sinh Cường Để đồng phục quần kaki xanh, áo sơ mi trắng "póp pờ lin Ba Trái Đào", dép lốp bánh xe hơi làm sao địch lại với giáo sinh Sư phạm quần Tergal đen, áo sơ mi dài tay trắng Nyl France, cà vạt đen, đi giầy da bóng lộn. Trông oai và bảnh chọe lắm. Ái chà! C̣n cái ông thợ may tiệm may Thích nữa chứ! Thật là tài! Không biết ông bắt được ở đâu cái "tuy dô" rằng giáo sinh sẽ có món học bổng 200 đồng. Ông liền điều đ́nh với Ban Giám đốc trường cho ông thầu may mỗi giáo sinh một bộ complet màu xám. Tiền sẽ trừ vào cuối khóa. Thế là bỗng nhiên từ trên trời rơi xuống, mỗi anh giáo sinh có một bộ đồ lớn, diện vào mỗi chiều thứ bảy, dung dăng dung dẻ với người đẹp. Trông thiệt là oách! Nó chính là cái gai lớn trong con mắt mấy anh con trai Qui Nhơn. Phải t́m cách chơi lại mới đươc! Với chiến thuật du kích, ŕnh ṃ trong các hẽm vắng, bất cứ anh Sư phạm

nào có âm giọng "chi, mô, răng, rứa" đều bị đột kích. Trịnh Công Sơn là một trong những nạn nhân đầu tiên. Anh bị tước mất đôi kính cận. Tiếp mấy ngày sau, con đường từ bệnh viện Nguyễn Huệ đến trường, chỗ nào cũng bị chận và khiêu khích đánh lộn. Đă có mấy vụ ẩu đă. Dĩ nhiên, bị bất ngờ, phe ta ôm đầu máu. Chuyện này náo động cả trường Sư Phạm. Thanh Hải, cây đờn ghi ta số một, lên xin phép thầy Hiệu Trưởng Đinh Thành Chương cho lập toán đặc biệt để bài trừ du đảng. Nhưng thầy không cho. Thầy bảo: "Nhiệm vụ đó là của Cảnh Sát. Các anh đến đây để học thành thầy giáo chớ không phải để thành cảnh sát". Sau đó, thầy liên hệ với chính quyền sở tại, xin can thiệp. Sự việc kéo dài cả nửa năm mới dứt. Riêng Trịnh Công Sơn, mất đôi kính, trở thành anh mù bất đắc dĩ, không đi học được. Bạn bè phải nhờ môi giới trung gian liên lạc với tên đầu đảng xin chuộc lại đôi kính. Vậy mà Sơn lại kể với Trịnh Cung chuyện ḿnh luyện Judo! Để làm ǵ?

Sau khi đại đội Triệu thuyên chuyển đi nơi khác, Sơn không dám đi uống cà phê tối nữa. Tôi ở nhà cuồng chân, buồn như chấu cắn. Mà đi một ḿnh không có Sơn th́ không vui. Một hôm, tôi cố rủ Sơn cho bằng được và cam đoan bảo đảm an ninh cho anh. Sơn không mấy tin tưởng v́ tôi nhỏ con hơn anh. Sơn ḍ xét:

- Ông lấy cái ǵ bảo vệ tôi?

Tôi vỗ vào bụng và nói:

- Cái này bảo vệ cho ông và cho tôi!

Sơn cười ré lên. Đang nằm dài trên "đi-văng", Sơn nhổm dậy tới sờ vào bụng tôi, vừa cười vừa nói:

- Để coi mấy con lăi trong bụng ông to cỡ nào mà bảo vệ được tôi?

Nhưng Sơn vội rụt tay lại và nín bặt. Hai mắt tṛn xoe đầy ngạc nhiên nh́n tôi thắc mắc. Giọng tôi nghiêm chỉnh lập lại:

- Được chưa?

Sơn vẫn đầy nghi ngờ:

- Ông lấy ra cho tôi coi nó là cái ǵ vậy?

Tôi tḥ tay vào áo, lôi ra một sợi dây điện, loại dây đôi, mềm, dài một thước rưỡi. Sơn lại càng thắc mắc:

- Ông đem dây điện theo dùng làm ǵ?

Tôi phải giảng giải sơ lược về công dụng của nó thay thế chiếc trường côn, tiện dụng mang theo bên ḿnh, pḥng khi hữu sự. Sơn ṭ ṃ:

- Tôi chưa nghe thấy bao giờ. Ông có thể kể cho tôi nghe học ở đâu và biểu diễn vài đường cho tôi coi được không?

Để cho Sơn hoàn toàn yên tâm, tôi lôi Sơn ra sân xem tôi đi vài đường lă lướt. Sợi dây điện lúc này theo sức từ trong tay tôi vung ra đă biến thành chiếc trường côn, quay tít trong không khí phát ra tiếng vù vù. Tôi chỉ biểu diễn vài đường trong bài "Thế roi tàng sư" rồi dừng lại. Sơn vỗ tay khen hay. Lúc này Sơn mới chịu mặc quần áo đi với tôi. Suốt buổi tối cà phê đó, Sơn bắt tôi kể chuyện học vơ. Tôi chỉ kể đại lược thôi, chứ kể hết th́ dài ḍng lắm. Sơn cười khoái chí những đoạn tôi đứng tấn cho tàn cây nhang, hai chân mơi ră rời, té chỏng gọng. Hoặc tôi không chịu học các môn đao, thương, kiếm, kích mà chỉ yêu câu thầy dạy cho môn chạy trốn trong "tam thập lục kế, đào tẩu vi thượng sách."

 

Trịnh Công Sơn Con Người Tài Hoa Nhiều Mặt

Ngoài tài năng âm nhạc, Sơn c̣n nhiều tài khác nữa. Môn nào cũng xuất sắc hết. Nhảy đầm rất bay bướm. Đánh bi da hết xẩy. X́ phé khỏi chê. Trừ cái món kia...

 

Nhảy đầm.

Cuối năm 1964, Tỉnh cho xây cất cạnh bờ hồ một công tŕnh tân kỳ đặt tên là "Câu lạc bộ Lâm Đồng" dành cho quân, cán chánh trong tỉnh giải trí. Câu lạc bộ có hai tầng. Tầng dưới đặt mấy bàn bi da. Tầng trên bán cà phê và đồ nhậu. Mỗi buổi chiều, tắt nắng, chúng tôi kéo nhau lên CLB nhâm nhi cà phê, nh́n ra mặt hồ. Nhà thủy tạ giữa hồ được nối liền vào bờ bằng một chiếc cầu gỗ, dáng cong cong h́nh cầu ṿng, sơn toàn màu đỏ, ẩn hiện giữa làn sương đục, đẹp như bức tranh thủy mạc. Chúng tôi cứ tưởng chừng như ngồi trên lầu Hoàng Hạc. Thật ra chưa ai biết Hoàng Hạc lâu tṛn méo ra sao. Nhất là những chiều mưa lâm râm, lất phất. Khí trời lành lạnh, se se, kéo cao cổ áo măng tô, ngồi trên lầu, nh́n về phía hồ xa xa, nhớ người yêu mà ư ử hát: "Chiều này c̣n mưa sao em không lại! Nhỡ mai trong cơn đau vùi, làm sao có nhau! Hằn lên nỗi đau. Bước chân xin em về mau... " Hoặc: "Chiều một ḿnh qua phố, âm thầm nhớ, nhớ tên em..." th́ từng lời, từng lời thấm không chịu được. Nhạc của Sơn phải hát đúng trong khung cảnh ấy mới hay, mới cảm hết cái hồn của lời, của nhạc.

Người quản lư CLB cho hay, Tỉnh dự định sẽ làm lễ khánh thành CLB trước Tết dương lịch. Ngày đó Tỉnh sẽ mướn một số ca ve ở Sài G̣n lên, sẽ có dạ vũ tưng bừng. Đích thân đại tá Tỉnh trưởng khai "bal". Nghe tin, anh nào cũng ạo ực. Nhưng nh́n lại toàn một đám nhà quê. Anh nào cũng chỉ biết nhảy ḷ c̣. Trừ chàng họ Trịnh trúng mánh. Thế là cả bọn xúm lại đ̣i Sơn dạy nhảy. Thời gian c̣n hơn tháng, làm sao học cho kịp. Phải gấp lên mới được. Căn pḥng tôi và Sơn ở trở thành sàn nhảy. Nhưng đám học tṛ láu cá, muốn trắc nghiệm tài nghệ ông thầy trước mới học sau. Sơn phải biểu diễn vài đường bay bướm. Anh mượn chiếc ghế đẩu giả làm đào, khai "bal" bằng điệu Paso dồn dập. Miệng đánh nhịp, chân bước tới lui, nhịp nhàng, uyển chuyển. Từ Paso anh chuyển sang Cha Cha Cha, rồi Be bop, rồi Tango, quay cuồng với điệu Valse, trở về với Bolero và cuối cùng đứng yên một chổ, lắc lư thân h́nh, nghiêng qua, ngă lại theo nhịp miệng Chắc... x́nh! Chắc... x́nh! của điệu Slow. Tất cả đều công nhận Sơn nhảy đẹp. Với đôi chân dài, Sơn nhảy Tango rất tuyệt. Thấy Sơn nhảy anh nào cũng ham. Nhưng nh́n lại ḿnh, thấy thân h́nh ồ dề, thô cứng, nặng nề như trâu nước, anh nào cũng lắc đầu ngao ngán.

- Ông Sơn ơi! Tụi này mà học nhảy được như ông chắt phải tới tết Công Gô, tết Ma Rốc!

Sơn cười cười:

- Mấy cha tưởng dễ ăn hả! Hết bao nhiêu cơm gạo ở vũ trường rồi đó!

Rồi Sơn trấn an chúng tôi:

- Mà không sao! Mấy ông chỉ cần học một điệu Slow là đủ rồi. Điệu này rất dễ. Nhưng nhảy cho hay lại rất khó.

Để trấn an và gây thêm tin tưởng cho chúng tôi, anh kể chuyện một anh Tây già ở Sài G̣n, đêm nào cũng có mặt ở vũ trường. Sơn kể:

- Tôi hồi đó mới học nhảy nên cũng mê lắm. Nhưng học sinh làm ǵ có tiền. Thỉnh thoảng mới tới dancing, lần nào cũng gặp anh Tây già này. Anh Tây này cao lớn, có cái bụng phệ rất bự, dáng nặng nề nên không nhảy được các điệu khác, chỉ nhảy mỗi một điệu Slow. Anh ta ôm em nào cũng không hết ṿng lưng v́ bị cản bởi cái bụng. Anh ta cứ ôm riết em ca ve, đứng yên một chổ. Hễ nghe tiếng bass đánh x́nh một cái, anh ta lắc nghiêng người một cái. Cứ thế cho đến cuối bản nhạc. Có điều đặc biệt đáng tức cười ở đây là mỗi lần đến đoạn nhạc du dương, đắc ư, anh ta th́nh ĺnh buông em ra, bước lui một bước, tay phải nắm lại, đấm vào ḷng bàn tay trái đánh bộp một tiếng, miệng khen bằng tiếng Việt "Hay...x́" rồi bước tới ôm em lắc lư như cũ.

Sơn vừa kể, vừa làm điệu bộ khiến chúng tôi cười rũ ra. Lối kể chuyện của Sơn rất có duyên và hấp dẫn. Sau mấy ngày tập dượt ráo riết, chúng tôi cũng thuần thục như anh Tây già. Chúng tôi náo nức trông cho mau đến ngày khánh thành để được ôm mấy em và trổ tài. Nhưng gần những ngày cuối năm Việt Cộng ăn Tết sớm, rót hỏa tiễn liên tục vào hai quận Di Linh và Bảo Lộc thay pháo, chương tŕnh vui chơi phải hủy bỏ. Bài học "Chát...x́nh" không có cơ hội đem ra ứng dụng.

 

Bida

Thường trực ở bàn bi da, bọn chúng tôi gồm năm đứa. Sơn, Tâm mập (tức Nguyễn Hảo Tâm phân biệt với Tâm lùn tức Nguyễn Văn Tâm), Nguyễn Đức Tín, Ngô Thanh Bạch và tôi. Chia thành hai phe, trường kỳ quyết đấu. Sơn và Tâm mập một phe. Tín và Bạch một phe. Tôi bị cho ra ŕa v́ đánh quá dở. Không bao giờ đi một "cơ" được ba điểm. Tôi được hội đồng phong cho chức trọng tài, lănh nhiệm vụ đứng ghi điểm và phân xử những vụ ăn gian. Cuối cùng là ăn ké khi kết thúc màn quyết đấu. Đứng ngoài mới thấy rơ phong cách của từng người chơi. Tâm mập có dáng xấu nhất v́ cái bụng phệ phát triễn quá sớm ở cái tuổi hai mươi bốn. Anh phải đứng dạng chân chàng hăng để cho cái bụng thấp xuống khỏi cấn thành bàn. Tay trái đặt trên mặt bàn, ngón tay trỏ cong lại như cái móc câu để giữ đầu "cơ", chứ không chịu hợp với ngón tay cái thành ṿng tṛn như mọi người. Ngô Thanh Bạch to con, cao bằng Sơn, đứng phải rùn chân xuống. Mỗi lần chuẩn bị thụt một quả, anh nhắm tới, nhắm lui, lưỡi thè ra khỏi miệng, quẹo qua bên trái, hai hàm răng cắn chặt. Tôi cứ có cảm giác mỗi lần anh thụt trái banh là mỗi lần đứt lưỡi. Nhất là những cú "đề trô" lại càng toát mồ hôi lạnh. Nguyễn Đức Tín đặc biệt có khuôn mặt tṛn, trắng trẻo như cô Thúy Vân. Mỗi lần đi những đường cơ lắc léo, "ép phê c̣ng tre", anh mắm môi, bặm miệng, hai con mắt ốc nhồi mở ra hết cở. Trán anh nhướng lên thành bốn lằn xếp. Anh liếm môi vài cái trước khi thụt một đường banh quyết tử. Trước khi thụt, mặt anh tái ngắt. Thụt xong, mặt lại đỏ như gấc, trước khi trở lại b́nh thường. Riêng Sơn, tôi thích ngắm nh́n cái dáng của anh nhất. Người dong dơng, hai chân dài, anh đứng thẳng người, hai chân chụm lại, cúi xuống mặt bàn tạo thành một h́nh thước ở thắc lưng. Anh đặt tay trái xuống mặt bàn, hai ngón út và đeo nhẫn xoè ra h́nh rẽ quạt tựa xuống mặt nỉ, ngón giữa đỡ ngón cái và ngón trỏ đan hợp nhau thành một ṿng tṛn, ôm khít khao đầu ngọn cơ. Trước khi quyết định một đường banh, anh chăm chú nh́n ba trái bi, tay cầm cục "lơ" miết miết trên đầu "cơ". Khi anh bỏ cục "lơ" xuống thành bàn là đường "cơ" đă quyết định. Anh đánh thong thả, nhẹ nhàng, xoay quanh bốn cạnh bàn một cách khoan thai, từ tốn, không một chút phí sức. Tối thiểu một đường cơ của anh phải từ năm điểm trở lên. Tuy nhiên, có bữa phe anh cũng thua tơi bời hoa lá. Anh không thể nào cứu nổi bồ, khi Tâm mập chơi bết bát quá. Trong khi hai tay Bạch và Tín ngang sức, ngang tài. Chúng tôi chơi giải trí không ăn tiền. Cá độ bằng những chầu cà phê, bữa cơm trưa hoặc chầu bia tùy theo giờ giấc sáng, trưa, chiều và có lúc cả buổi tối nữa.

Những ngày cuối tháng lănh lương, càng đông, càng vui nhộn. Chúng tôi có thêm Nguyễn Văn Chất, Vơ Đôn Thao biệt danh "Sư phụ" từ cầu Đại Nga, giáp ranh với Tuyên Đức về. Di Linh có Nguyễn Văn Hiện và Lâm Văn Rầm. Lại có thêm lính mới ṭ te Đỗ Danh Đạo hổn danh Đạo Sữa. Ngoài ra c̣n có những bạn nhà binh. Những sĩ quan trẻ tuổi trạc chúng tôi, nhưng "xếp bút nghiên theo việc đao cung" sớm. Đó là những anh Vĩnh, Ngự, Tinh đều cùng cấp bậc thiếu úy. Chỉ có anh Thành là trung úy, chi khu phó, đă có vợ và một con. C̣n toàn là đám độc thân vui tính. Ông trùm Lăng không có tên trong bảng "phong thần" v́ năm giờ chiều là ông đă trùm mền, xoa dầu Nhị Thiên Đường rồi.

 

X́ phé - Xập xám

Mỗi thứ sáu đầu tháng, pḥng chúng tôi trở thành ṣng bạc. Nhà hai anh Lăng và Đạo thành nhà chứa. Đám bạn từ các nơi về tụ lại nhà tôi chơi bạc xong, kéo về nhà Lăng, Đạo ngủ. Đánh bạc th́ tôi mù tịt. Tôi không có khiếu về môn này. Sau, cố học lắm, mới biết chơi tứ sắc. Nhưng lên rác, xuống rác, trôi rác, khui, quằn, đếm lệnh chẵn, lẻ, tới trơn, tới quan th́ rắc rối quá. Tôi chỉ thích đánh "bấc" của người Bắc. Môn này vui và hấp dẫn hơn bài cào. Nó hay ở chỗ là bài cùng điểm mà lại ăn nhau ở hàng thập, hàng vạn, hàng văn, hàng sách. Nhưng đám nhà nghề như Sơn, Hiện, Rầm, Bạch, Thao, Tín... đều chê. Đó là dành cho dân nhà quê. C̣n dân chơi th́ chỉ xập xám hoặc x́ phé mới đúng điệu. Sau khi lănh lương, buổi sáng, ăn nhậu, bi da, cà phê đă đời, anh nào không có máu đen đỏ th́ về nhà Lăng ngủ. Phần c̣n lại về pḥng chúng tôi gầy ṣng. Sơn một tay chấp hết. Anh trụ từ đầu hôm cho đến sáng, người vẫn khoẻ. Nói theo kiểu Kim Dung, sắc mặt không thay đổi, hơi thở vẫn điều ḥa. Nghĩa là có những anh, nửa đêm mệt quá phải ngă lưng, kḥ một chút. Anh khác thay tay. Sơn vẫn ngồi một chỗ, thuốc lá liên tục; cà phê hết ly này đến ly khác; không đi tiểu, mới lạ. Cứ trung b́nh mười ván là Sơn vơ làng hết bảy, tám. Thua quá, những lần sau, Tín cạch. Tín chấp hai tay làm bộ xá xá:

- Ông Sơn ơi là ông Sơn ơi! Tiền lương em đây! Ông cứ lấy mà xài. Đừng "rê" em vào ṣng nữa. Bàn tay ông có ma, ghê thấy mẹ. Em sợ lắm!

Nói xong, Tín cười hềnh hệch, đổi giọng:

- Bố bảo em cũng chả dám chơi với ông! Ghê thấy mẹ!

Có lần tôi hỏi Sơn:

- Này, ông học nghề ở đâu vậy. Có chơi lận không?

Sơn nói cho tôi biết bí quyết đánh bạc:

- Chẳng có gian lận ǵ hết! Chẳng qua mấy cha ấy cứ đưa bài cho tôi coi, tôi mới thắng được dễ dàng mà thôi.

Tôi không tin, vặn lại:

- Ông lại xạo rồi! Có ai đánh bài mà lại đưa bài ḿnh cho người khác coi bao giờ?

Sơn thích thú giảng nghĩa:

- Tôi nói đưa bài có nghĩa là họ đưa cái mặt họ cho tôi biết. Nước bài của họ hiện lên nét mặt hết. Tại ông không ở trong nghề nên không biết, không chú ư theo dơi. Ông chỉ nh́n xuống chiếu, ngó quân bài thôi. Phải không nào?

Tôi phải công nhận Sơn nói đúng. Tôi chỉ nh́n những cây bài đánh xuống hoặc những chi bài binh xong xoè ra mà thôi. Sơn nói tiếp:

- Những tay cao thủ đánh bạc họ rất trầm tính. Không bao giờ để lộ cảm xúc trên nét mặt cho đối thủ biết. Ngược lại, đôi mắt họ rất sắc. Họ kín đáo quan sát đối phương để đoán từng nước bài mà tùy cơ ứng phó. Trong khi đó, ông ngẫm lại coi! Mất tay Thao, Tín, Hiện, Rầm, hễ bài tốt th́ cười nói rầm rĩ. Bài xấu th́ xịu mặt xuống, chửi thề ỏm tỏi th́ làm sao mà tôi không biết.

Tôi phải phục lăn kinh nghiệm của Sơn. Một chân lư không căi vào đâu được. Dẫu bên này hay bên kia chân núi Pyrhéné.

Tuy nhiên hay không bằng hên. Sự đời có những cái trớ trêu, tréo cẳng ngỗng, không ai có thể ngờ hết được. Sơn đă đại bại trước Phạm Quang Chữ, một tay mơ mới tập chơi. Anh Chữ, chân chỉ hạt bột, ngoài giờ dạy học là về phụ với vợ trong việc mua bán. Vợ anh có gian hàng bán quần áo trong chợ. Chị vợ ngồi thu tiền. Anh chạy ṿng ngoài, gom hàng, giao hàng, tất bật suốt ngày. Anh ít giao thiệp với bạn đồng nghiệp v́ mặc cảm với căn bệnh nan y của anh: bệnh cùi. Chỉ là đồn đoán thôi. Anh vẫn béo tốt, da dẽ hồng hào. Duy chỉ có hai bàn tay là hơi lạ. Bắp thịt hổ khẩu giữa ngón tay cái và ngón trỏ mất hẳn. Những ngón khác co rút lại, cầm đồ vật rất khó khăn. Người ta đồn anh nhờ uống vàng hàng tháng nên mới cầm giữ được không cho bệnh phát ra ngoài.

Trước khi bọn trẻ chúng tôi được bổ nhiệm tới, Ty Tiểu Học Lâm Đồng ở trong t́nh trạng buồn tẻ. Chúng tôi đă đem lại một nguồn sinh lực mới cho Ty. Với phương pháp giáo dục mới và tinh thần trẻ trung đă thay đổi hẵn cái không khí đều đều, buồn tẻ bao nhiêu năm nay ở cái xứ cao nguyên này. Phạm Quang Chữ là người đầu tiên bứt ra khỏi cái ao tù nước đọng đó. Về sau, c̣n có thêm nhiều người nữa tham gia vào cái không khí vui nhộn, cởi mở, phóng khoáng của chúng tôi. Trong đó có cả cụ Trạch, hiệu trưởng trường Nam Bảo Lộc, sắp hồi hưu. Ông Lợi Ty trưởng, rất văn nghệ, chịu chơi. Nhiều lần xắn tay áo cùng đám trẻ "hạ cờ tay", vừa nhậu, vừa đánh bạc.

Trở lại chuyện Phạm Quang Chữ đại thắng Trịnh Công Sơn.

Bài của Chữ đỏ từ đầu đến cuối. Hai tay cầm bài ḷng kḥng, lèo khoèo, rớt lên, rớt xuống, binh tầm bậy, tầm bạ mà vẫn cứ thắng. Chuyển sang tứ sắc. Mới đánh vài cây anh đă "tới" mà lại tới quan, khui, quằn tùm lum. Đêm đó anh hốt trọn. Anh nào cũng nhẵn túi. Nguyễn Đức Tín nổi khùng, chửi thề:

- Địt mẹ! Đúng là thánh nhân đăi kẻ khù khờ. Mèo mù vớ cá rán. Ông bà ta bạc tóc mới nói ra được điều ǵ th́ trúng phóc điều đó, không sai một ly ông cụ.

Quay sang Sơn, Tín thọc cù léc:

- Chỉ có bàn tay ông cùi mới trị được ông bàn tay ma!

Nói xong, Tín cười hắc hắc một thôi. Quả thật, đêm đó, Trịnh Công Sơn không c̣n một xu dính túi.

 

Cái khoản kia... 

"... Em Pleiku má đỏ môi hồng...Ở đây mùa đông...đi dăm phút đă về chốn cũ." Cái ông nhà thơ nào đó đă tả cái xứ cao nguyên rất đúng. Thật vậy! Cái phố quận Bảo Lộc gom lại bằng bàn tay ở một đoạn phố ngắn. Hầu hết cư dân đều sống biệt lập trong các xứ đạo hoặc trong những "phẹt". Danh từ "phẹt" lần đầu nghe lạ tai và buồn cười. Tôi cứ có ư nghĩ thô tục khi thấy những chiếc xe Lam chở khách, hai bên hông kẻ hàng chữ chỉ tuyến đường "Bờ Lao-Phẹt." Măi về sau, có dịp đến phẹt mới biết đó là "Ferme", trang trại của người Pháp có đồn điền trà và cà phê tại đây. Mấy ông trong xứ Tân Thanh, Tân Phát phiên âm thành tiếng Việt là Phẹt.

Cái phố quận quá nhỏ, đến nỗi có người ví von, con chó cũng nằm không đủ chỗ phải ló cái đuôi ra bên ngoài. Cho nên mấy ông giáo đi đâu cũng đụng hoc tṛ của ḿnh. Học tṛ ở đây đi học rất trễ. Có đứa cao tồng ngồng bằng thầy. Do đó, muốn giữ cái vỏ mô phạm luôn luôn sáng như trăng rằm để làm gương soi cho học tṛ, chúng tôi, mỗi tháng phải kéo nhau lên tận Đà Lạt, thác Gu gha, để du hí. Ở đây, ngoài phong cảnh thơ mộng, hửu t́nh, c̣n có những em Thái trắng, Thái đỏ chuyên phục vụ cái khoản... thứ ba. Nghe nói các em có nhiều kiểu lạ hơn người Kinh. Cả bọn chúng tôi về cái khoản... đó, đều "thường thường bậc trung". Chỉ có Vơ Đôn Thao là được vơ lâm tôn lên hàng Sư phụ. Đă không mất tiền cho em mà c̣n được em bao ngược. Tha hồ cơm no, ḅ cưỡi.

Ngón nghề này, anh nào cũng theo xin bí kíp. Vơ Đôn Thao ngoài khả năng "Yêu em thật sâu...Yêu em dài lâu...", anh c̣n có tài "xúc cốt" đánh lừa Hội Đồng Y Khoa để được miễn dịch vĩnh viễn. Xúc cốt, theo Kim Dung, ông tổ nói phét trong truyện chưởng th́ đó là môn vơ công luyện được phép làm cho thân ḿnh biến dạng, hoặc nhỏ lại, xương cốt co lại như đứa trẻ. Ở đây, Thao chỉ cần bẻ quặt chân phải ḿnh qua một bên, đi lặt ĺa, hệt như người què. Anh biểu diễn cho chúng tôi coi. Lại được một phen cười vỡ bụng. Nhờ vậy anh khỏi đi lính. Nhưng đây chỉ là chuyện nhỏ. Quan trọng là bí kíp "Nhất dương chỉ" chúng tôi ai cũng muốn theo thọ giáo. Đứng đầu là Trịnh Công Sơn. Công lực của anh rất kém. Theo Thao, đây là cơ duyên, trời cho ai nấy hưởng, không phải ai muốn luyện cũng được.

Anh kể lại cái cơ duyên của ḿnh:

- Lúc tôi mới mười hai tuổi, học lớp Nhất ở Tuy Ḥa, Phú Yên, bỗng dưng mắc một chứng bệnh kỳ lạ. Người cứ xanh mướt, ngày càng gầy ốm. Cha mẹ tôi hết ḷng chạy chữa đủ thứ thuốc vẫn không thuyên giảm. Sau có ông thầy Tàu thuốc Bắc bắt mạch, chẩn bệnh quả quyết rằng tôi mắt bệnh hượt tinh. Thầy giảng giải cho cha tôi rơ về căn bệnh này là tuổi thanh niên thường vướng phải ba thứ tinh. Thông thường là mộng tinh. Trai đang sung sức, ban ngày thấy gái đẹp, đêm mơ tưởng giao hợp mà xuất tinh. Ví như b́nh đầy mà tràn. Không có hại. Cưới vợ là hết. Thứ hai, không nằm mơ mà vẫn xuất tinh, ấy là di tinh, giống như cái b́nh nghiêng, nước đổ. Cũng không hại lắm. Phương thuốc hiệu nghiệm để chửa là cưới vợ. C̣n cái này, ông thầy Tàu chỉ tôi, gọi là hượt tinh, tức giống như cái b́nh lũng đít, chảy ngày, chảy đêm cho đến chết. Bệnh này gây ra do thần kinh quá yếu hoặc chơi bời quá độ mà thành.

Cha tôi nghe tới đó, trợn mắt:

- Thầy nói sao? Thằng con tôi mới mười hai tuổi mà thầy nói nó chơi bời quá độ?

Ông thầy Tàu biết ḿnh bị hớ, nói chữa:

- A! Cái này tôi nói theo sách vở mà! Nhưng ông đừng có lo. Tôi cho mấy hộp "Tam tinh Hải cẩu bổ thận hoàn", cháu nó uống một tháng là hết bệnh.

Cả chục hộp, viên nào cũng to như ngón cẳng cái, tôi cố trợn trạo nuốt. Thuốc hết mà bệnh cứ y như cũ. Nghĩa là mỗi lần có chuyện ǵ xúc động bất ngờ hoặc hồi hộp, lo âu th́ đũng quần tôi ướt đẫm. Ví dụ làm bài thi, gần hết giờ, bài vẫn chưa xong th́ bị. Th́nh ĺnh ai vỗ vai hù một tiếng cũng bị. Tiếp tục uống Tam Tinh Hải cẩu cả năm, người tôi cứ rạc dần, đi đứng hết nỗi. Cha tôi phải mang tôi vào nhà thương Grall, Sài G̣n xin chữa. Ở đó bác sĩ Tây, họ tiêm vào đầu tôi cây kim dài cả gang tay để chữa. Tôi nằm ở đó gần sáu tháng th́ bệnh dứt hẵn. Cha tôi tốn rất nhiều tiền nhưng cứu được thằng quí tử ông rất mừng. Đến năm mười tám tuổi, đi chơi gái lần đầu, tôi t́nh cờ phát hiện ra ḿnh có khả năng kỳ diệu đó. Tôi có thể kiểm soát và điều khiển thằng "em tôi" theo ư muốn. Muốn tấn, thối, hoăn binh hoặc trường kỳ kháng chiến bao lâu cũng được. Bởi vậy, anh em trong vơ lâm mới bái tôi là Sư phụ.

Nghe xong, chúng tôi đều thất vọng. Ngàn năm mới có cơ duyên một lần. Đâu đă đến phiên ḿnh!

Mỗi lần lên Gu Gha, chúng tôi kêu bia uống vài chai cho nóng máy, thong thả ngắm các em Thái lượn qua, lượn lại để chọn th́ Sơn lúc nào cũng t́nh nguyện làm người lính xung kích đầu tiên. Đánh nhanh, rút nhanh. Đó là phương pháp chiến đấu của Sơn. Có lần chúng tôi chưa uống hết chai bia, Sơn đă tàn cuộc chiến, mặt mũi bơ phờ, trở về hậu cứ.

- Thật phí đồng tiền, bát gạo! Tín phê b́nh.

Đến lượt Thao trổ tài. Quả thật lời đồn không sai. Chúng tôi cà kê đến chai thứ tư th́ Thao đang hùng dũng trên đường chiến thắng trở về mang theo một tù binh: Một em Thái trắng (đồ mạo hóa) cũng Xà rông, cũng ṿng cườm đeo tứ tung, nhưng chỉ nói được ba tiếng "bắt cái nước". Đó là tiếng Thượng, có nghĩa "ấy em". C̣n th́ nói rặc tiếng Việt. Hóa ra, em từ sông Mao, Phan Thiết lên đổi vùng. Bà chủ bắt mạch biết khách yêu hoa hay ham của lạ, đặc sản, nên treo đầu dê, bán thịt chó. Bà bắt mấy em thay đổi xiêm y, đeo ṿng, giả làm sơn nữ Phà Ca câu khách.

Dần dà, thời gian sau, Sơn không tháp tùng với chúng tôi nữa. Cố "nài hoa, ép liễu" đến mấy, Sơn cũng t́m cớ thối thác. Khi th́ lư do này, khi th́ lư do nọ. Ngô Thanh Bạch phán một câu chắc nịch:

- Bây giờ ông Sơn có chị Năm rồi. Ổng đang hợp tác với hăng súc ve chai!

 

Tập vẽ

Đến bây giờ, tôi mới biết Sơn c̣n kiêm thêm tài hội họa và đă nhiều lần cùng các ông Đinh Cường, Trịnh Cung đem tranh đi triễn lăm khắp nơi. Lúc bấy giờ, Sơn chỉ ngồi hí hoáy vẽ theo mấy cái h́nh thiếu nữ mặt nhọn, một mắt. Người ốm tong, dài thọng. Hai bàn tay thường kẹp giữa đùi. H́nh nào cũng mờ mờ, không rơ nét. Sơn vẽ theo những h́nh b́a cuả Đinh Cường. Tôi không có óc thẩm mỹ và "i tờ rít" về hội họa nên thường phá đám Sơn trong lúc vẽ:

- Ông Sơn nè! Ví dụ như người con gái ông vẽ lâu nay, th́nh ĺnh hiện ra như trong chuyện Bích Câu kỳ ngộ, th́ ông có lấy làm vợ không?

Sơn đang chăm chú gôm đi vẽ lại, nghe tôi hỏi thế, ngẫn ra mấy giây mới đáp:

- Sao ông lại thô tục thế! Người đẹp trong tranh phải có cái khác người thật ngoài đời chứ. Nếu cứ phải cho giống th́ chụp h́nh là dễ nhất. Mà đă thế th́ c̣n đâu là nghệ thuật.

Tôi làm như hiểu ra thế nào là nghệ thuật bèn à lên một tiếng:

- Vậy nghệ thuật, nhất là về hội họa là phải vẻ làm sao cho khác với sự thật, lạ hơn sự thật, càng quái dị càng hay, đến lúc người xem không thể nào hiểu được bức tranh ông họa sĩ vẽ cái ǵ, th́ lúc đó ông họa sĩ mới thực có tài và nổi tiếng?

Nghe tôi dài ḍng cái sự "mới hiểu ra" nghệ thuật, Sơn gật gù:

- Gần gần như vậy!

- Thế th́ tôi cũng sẽ nổi tiếng! Tôi sẽ vẽ tranh trừu tượng! Tôi hớn hở khoe.

Sơn trợn mắt nh́n tôi:

- Thiệt không cha? Cha mà cũng biết vẽ tranh trừu tượng? Vẽ thử tôi coi!

Tôi cười thầm trong bụng, v́ Sơn bị tôi gạt:

- Dễ thôi! Tôi sẽ treo một khung tranh trống không. Nếu có ai hỏi, tôi sẽ nói: Đó là bức tranh tôi vẽ đàn ḅ đang ăn cỏ theo phái trừu tượng. Nếu c̣n thắc mắc: Đàn ḅ đâu? Tôi sẽ nói: Đàn ḅ ăn hết cỏ rồi, nó đi chỗ khác, chớ c̣n đứng đó làm chi!

Đến đây, Sơn chợt hiểu, cười phá lên, hỏi tôi:

- Ông đào ở đâu ra những chuyện tiếu như vậy?

- Thiếu khối ǵ! Cứ hỏi ông Đặng Trần Huân khắc biết.

Sơn không biết ông Huân là ai!

 

Xem Tiep….

 

Xin vui ḷng liên lạc với  butvang@yahoo.com  về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương
Copyright © 2004 Anh Duong Online
Last modified: 08/10/06