Về
Một Quăng Đời của Trịnh Công Sơn
Nguyễn Thanh Ty
(V́ bài
quá dài nên chia ra làm 2 phần để dễ chuyển mà
thôi).
Phần
I:
Trịnh
Công Sơn đă nằm xuống. Cát bụi trở về
với cát bụi. Xong một kiếp người. Nhưng
đằng sau ông, vấn đề vẫn chưa xong.
Người khen ông rất nhiều. Kẻ chê ông cũng
lắm. Dù khen hay chê, mọi người đều
phải công nhận tài năng âm nhạc của ông. Cái
đó đă hẵn. Không bàn ở đây. Vấn đề
đang tranh cải được đặt ra ở
đây: Trịnh công Sơn có là Cộng Sản hay không? Hay
chỉ là nạn nhân đi giữa hai lằn đạn?
Như ông Trịnh Cung và một số người đă
nêu!
Người
viết bài này có dịp gần gũi và sống chung
với Trịnh Công Sơn một thời gian, từ
năm 1962 đến 1967, nên biết được đôi
điều về cuộc đời thường của
nhạc sĩ họ Trịnh này. Nhân ngày ông qua đời,
một số thân hữu yêu cầu tôi viết lại
những kỷ niệm vui buồn với người quá
cố để anh em hiểu thêm về một thiên tài âm
nhạc. Và luận xem thử Trịnh Công Sơn có là
Cộng sản hay thiên Cộng hoặc đi giữa?
Tôi
chưa hề viết văn. Mong rằng những ḍng thô
thiển dưới đây giúp ích được phần
nào cho những ai thích sưu tầm tài liệu về
cuộc đời người nghệ sĩ tài hoa bạc
mệnh này. Miễn chấp cho chuyện chữ nghĩa.
Theo
chỗ tôi biết, trong số những người
viết về cuộc đời của nhạc sĩ
họ Trịnh trong thời gian dạy học, chỉ có
bốn người mới có thể có nhiều tài liệu
sống về Trịnh Công Sơn, c̣n hầu hết
đều cưỡi ngựa xem hoa, hoặc cặm
cụi mày ṃ, đào xới trong các bài viết của
nhiều người, cóp chỗ này một ít, chỗ kia vài
chi tiết và đem các ca từ của họ Trịnh ra,
sợi tóc chẻ làm tám, rồi dùng ng̣i bút thần kỳ hô
phong, hoán vũ, tô lục, chuốc hồng mà thôi.
Bốn
người đó là: Hoàng Phủ Ngọc Tường - Khánh
Ly - Trịnh Cung - Đinh Cường.
Thời
gian Trịnh công Sơn c̣n sống, báo chí hải ngoại
viết rất nhiều về người nhạc sĩ
này, cả khen lẫn chê, nhiều khi đến độ
gay gắt. Tôi cố t́m đọc những bài của ông
Đinh Cường để xem lập trường
của ông, nhưng không thấy. Mới đây ông Nguyễn
văn Liễu tức họa sĩ Trịnh Cung có
phát biểu một số điều tại Cali trong
dịp tưởng niệm Trịnh Công Sơn. Trong đó
có một số sự việc ông không phản ảnh
đúng sự thật. Tôi nghĩ rằng ông quên hoặc ông
suy diễn.
Măi đến khi tờ Hợp Lưu,
số 59, phụ trang đặc biệt Trịnh Công
Sơn "Một cơi đi về", tôi mới
được đọc một bài duy nhất của ông
Đinh Cường. Cả hai ông Trịnh Cung và Đinh
Cường đều nói là bạn lâu năm với
Trịnh Công Sơn, từng cưu mang, chia ngọt, xẻ
bùi cùng nhau cho đến ngày nhạc sĩ họ Trịnh
từ giă cuộc đời. Nhưng tuyệt nhiên, người
ta không thấy hai ông đả động ǵ tới
vấn đề Trịnh Công Sơn có là Cọng Sản
hay không?
Ca
sĩ Khánh Ly hết lời ca tụng người nhạc
sĩ này là điều đương nhiên, dễ hiểu.
Nếu không có nhạc Trịnh Công Sơn chắp cánh cho
Khánh Ly bay cao, th́ suốt đời Khánh Ly chỉ là một
cô bé "nhếch nhác", như lời ông Cung mô tả,
ở tại Đà Lạt mà thôi. Ngược lại,
nếu nhạc Trịnh Công Sơn không nhờ Khánh Ly
"lăng xê chùa" trên Đài Phát Thanh Đà Lạt, ṛng
ră ba năm liền, từ 1964 đến 1967, và "đi
chân đất" về Sài G̣n hát miễn phí cho sinh viên nghe
th́ liệu nhạc của họ Trịnh có
được phổ biến rộng răi như ngày nay
không? Cần nhắc ở đây là trước 1964, từ
cái thuở mới mười bảy tuổi, Trịnh Công
Sơn đă có những bản nhạc rất hay như
"Ướt Mi", "Thương Một
Người", "Biển Nhớ", "Nh́n
Những Mùa Thu Đi" mà nào có tăm tiếng ǵ. Có
chăng là những bạn bè trong giới Sư phạm
hoặc một vài thân hữu chuyền tay nhau hát!
Người
có thẩm quyền nhất để giải đáp
thắc mắc của nhiều người liệu
Trịnh Công Sơn có là Cộng Sản hay không chính là Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Nhưng đến giờ này,
tôi không thấy ông lên tiếng xác nhận. Hoặc có mà tôi
không biết chăng?
Hai
Năm Tại Trường Sư Phạm Qui Nhơn 1962-1964
Tôi
học chung một khóa Sư phạm với Trịnh Công
Sơn. Khóa I, ngày 22 tháng 4 năm 1962, khóa đầu tiên
được mở ra tại thành phố Qui Nhơn,
tỉnh B́nh Định. Tên gọi khóa học là
"Thường Xuyên", học hai năm, để phân
biệt với "Khóa Cấp tốc", học một
năm. Tiêu chuẩn tối thiểu để nộp
đơn là Tú Tài I. Tuy nhiên khóa đầu tiên ấy đa
số đă có Tú Tài II. Một vài người đă có
một, hai chứng chỉ Đại học. Sĩ số
giáo sinh là ba trăm người. Đa phần là
người Huế, tỷ lệ có lẽ chiếm 60%.
Số c̣n lại răi rác ở các tỉnh Quảng Nam,
Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên, Khánh Ḥa... lên tận các
tỉnh cao nguyên Đà Lạt, Lâm Đồng, PleiKu, KonTum...
Trịnh
Công Sơn theo ban Pháp văn. Tôi theo ban Anh văn. Hiệu
trưởng là thầy Đinh Thành Chương. Ông này
rất tôn sùng tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Mỗi
sáng thứ hai, chào cờ, Ông thường có những bài
phát biểu trước giáo sinh, ca tụng công đức
Ngô Chí Sĩ hết lời. Ngược lại, em Ông, giáo
sư Đinh Thành Bài lại thiên Cộng. Trong những
giờ dạy Sư phạm lư thuyết, thầy
thường xen vào những lời ca ngợi chế
độ Cộng Sản.
Năm
1963, phong trào Phật Giáo nổi lên, lật đổ chính
quyền Ngô Đ́nh Diệm. Một nhóm giáo sinh tổ
chức tố khổ thầy Đinh Thành Chương,
buộc Ông phải từ chức. Trịnh Công Sơn
cũng bị lôi kéo theo trong vụ này. Mấy tuần sau,
Bộ Giáo Dục phải bổ nhiệm giáo sư Mẫn
mới từ Hoa Kỳ về, thay thế thầy
Chương, nội vụ mới êm.
C̣n
nhớ, ngày nhập học đầu tiên, thầy Đoàn
Nhật Tấn, dạy môn tâm lư giáo dục, đọc
tặng học tṛ hai câu thơ:
Dưa
leo chấm với cá kèo,
Bởi
con nhà nghèo mới học Normal! (Sư phạm)
Đúng vậy!
Đa số chúng tôi lúc ấy đều là con nhà nghèo.
Hoặc học hành dang dở, hoặc cha mẹ không
đủ khả năng tài chánh để gửi con ra
Huế hay vào Sài G̣n tiếp tục học lên Đại
học. V́ vậy chúng tôi đều cố thi vào Sư
phạm để chắc chắn rằng sau hai năm
sẽ có công ăn việc làm cho bản thân và có thể giúp
gia đ́nh. Tưởng cũng nên nói rơ ở đây tại
sao chúng tôi cố thi vào Sư phạm. Thời gian đó hai
ngành Y Tế và Giáo dục rất thiếu nhân viên. Khóa nào
vừa đào tạo xong là được bổ nhiệm
đi làm ngay. Trong khi các ngành khác như Công Chánh, Nông-Lâm-Súc,
Kỹ Thuật Phú Thọ...ra trường, nằm nhà
mấy năm vẫn chưa được bổ
nhiệm.
Có
một nghi vấn ở đây: Không biết ông Trịnh
Cung vin vào đâu mà bảo rằng Trịnh Công Sơn vào
được trường Sư phạm Qui Nhơn
để núp bóng là nhờ hai ông Tường và Kha giúp
đỡ. Có lẽ ông Cung đă nghe ông Tường, ông Kha
hay là Sơn kể lại chăng?
Nói thêm một chút về chuyện thi vào
Sư phạm. Đề thi thật ra không khó, nhưng
để lọt được vào cửa ải, mỗi
thí sinh phải chọi lại ít nhất mười
đối thủ. Tính từ Quảng Trị, Trung Trung
Phần đến miền cao nguyên hơn mười
bốn tỉnh, Bộ chỉ chọn có ba trăm
người. Vậy theo tiết lộ của ông Cung,
người ta nghĩ đến hai vấn đề:
1/ Ông Tường hoặc ông Kha đă
thi dùm cho Sơn? Hoặc 2 ông có chân trong Ban Giám khảo,
chấm cho Sơn đậu?
-
Tại sao lại phải vào trường Sư Phạm núp
bóng mà không là Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật
Huế? Nơi mà ông Cung với ông Cường theo học.
Ông
Đinh Cường từng xác nhận là Sơn có tài
hội họa, vậy th́ thi vào Mỹ thuật có khó
khăn ǵ, thi chi vào Sư phạm để phải nhờ
đến sự giúp đỡ của hai ông Tường
và Kha?
Thứ
nữa, ông Cung chê nghề dạy học không xứng
đáng với tài năng của Sơn (lúc ấy?). Và ông
c̣n cho biết đă cưu mang Sơn.
Tôi
không biết ông nói chữ "cưu mang" với
một nghĩa nào. Theo chỗ tôi biết, đem chỉ
số lương ra so sánh th́ lương của Sơn
phải hơn hẵn.
2/
Trịnh Công Sơn vào Sư Phạm để núp bóng.
Cả hai ông Cung và Cường đều nói như
thế. Vậy Trịnh Công Sơn vào Sư Phạm
để núp ai? và núp cái ǵ? Sẽ có hai giải thích
được đặt ra cho hai chữ "núp bóng"
a/
Sơn vào Sư Phạm để tạm thời trốn
lính.
b/ Hoàng
Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Văn
Liễu (Trịnh Cung) và Đinh Cường đă có mưu
đồ gài Sơn vào Sư Phạm để thực
hiện sách lược "học đường
vận"?
Giải
thích một: không vững. Lúc đó Sơn đă có Tú Tài I.
Đâu phải ở vào trường hợp "Rớt tú
tài anh đi trung sĩ". Sơn có thể theo học
bất cứ một trường Trung Học tư nào
để thi lấy Tú Tài II vẫn được hoăn
dịch theo luật định. Nếu cuối năm, thi
hỏng, th́ a-lê, mời anh vào Thủ Đức, vác Garant M1
đi "ắc ê" chín tháng quân trường. Sau đó
mang lon chuẩn úy, đi "mút chỉ cà tha", bốn
vùng chiến thuật, trả nợ nước non. C̣n
nếu anh bợ được cái Tú Tài II, th́ anh cứ tà
tà lên Đại Học. Chí ít cũng được hoăn
dịch bốn năm nữa. Chính phủ Việt Nam
Cọng Ḥa đâu có chủ trương lùa hết trẻ,
già, trai, gái, lớn, bé đi "Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước" như
ở miền Bắc.
Ông
Cường nói v́ t́nh h́nh, thời cuộc lúc đó...
lại càng khiên cưỡng. Những ai sinh từ năm
1940 trở về trước đều biết rất rơ
rằng: Miền nam được hưởng một
thời gian mấy năm rất thanh b́nh, kể từ ngày
Ông Diệm chấp chánh (54-63) cho đến lúc Ông bị
đám "Thập nhị Sứ quân" giết.
Giải
thích hai: có lẽ thuyết phục hơn, nếu xét theo
bề dày "thành tích" Sơn đă cúc cung tận
tụy, phục vụ chế độ sau tháng Tư,
bảy lăm. Nhưng suốt những tháng, năm
sống chung với Sơn, tôi không thấy Sơn có một
hành động cụ thể nào khả dĩ gọi là có
vẽ "Việt Cộng". Trừ khoảng thời
gian giữa năm 1965, Sơn nhận được
nhiều thư từ của ông Hoàng Phủ Ngọc
Tường và tiếp theo là những cuộc gặp
gỡ, tiếp xúc bí mật tại một trang trại ở
Phim Nôm, gần Tùng Nghĩa, Đà Lạt với một nhân
vật, Sơn dấu tên. Sau đó, Sơn mới vội vă
sáng tác tập "Ca Khúc Da Vàng" trong ṿng có ba tháng hè
năm 1965.
Loại
trừ hai giải thích trên, Sơn vào Sư phạm với
một lư do hết sức đơn giản là:
Dưa
leo chấm với cá kèo.
Bởi
con nhà nghèo mới học "Sư phạm".
(Cái sĩ diện hăo
của đa số người Huế cứ mơ về
một thời vàng son làm "ôn" làm "mệ"
cố che dấu cái hiện tại suy tàn đă đành. C̣n
ông Liễu là dân Nha Trang-Cầu Đá-Chụt chính tông mà
cũng lập lờ "đánh bùn sang ao" quả là chuyện
lạ)
Nhắc
lại hai câu thơ của thầy Đoàn Nhật Tấn
đă dẫn nhập để thấy rằng lúc ấy
nhà Sơn đang lâm vào cảnh ngặt nghèo. Cha bị tai
nạn mất sớm, gia đ́nh khánh kiệt. Má Sơn
phải chật vật lắm mới nuôi nỗi đàn con
c̣n nhỏ dại. Sơn là con trưởng, phải bỏ
dở chương tŕnh học để lấy nốt cái
Bac II Philosophie, về lại Huế để phụ giúp
mẹ. Sư phạm Qui Nhơn là con đường
ngắn nhất có thể giúp Sơn đạt
được ư nguyện này. Những ngày mưa gió ủ
ê, đất nhăo, không đi ra ngoài được, nằm
khoèo ở nhà, Sơn tỉ tê kể cho tôi nghe về
cuộc đời của Sơn nhiều buồn vui
lẫn lộn. Trong đó có cả điều thất
vọng và thất t́nh về cô Diễm. Từ đó
mới có bài ca thất t́nh diễm lệ "Diễm
xưa".
Dù
bất cứ ai, vô t́nh hay hữu ư, che dấu hay huyền
thoại hóa Trịnh Công Sơn trong giai đoạn học
Sư phạm và dạy học bằng những lư do
rất "mờ mờ, ăo ăo" để đánh
hỏa mù dư luận với mục đích thần
tượng hóa đời thường của một
nghệ sĩ, cũng cần cơm ăn, áo mặc...
như mọi người, đều không giúp ích ǵ
được trong việc cung cấp tài liệu
để viết lại tiểu sử một
người nghệ sĩ tài ba được nhiều
người mến mộ. Có khi lại phản tác
dụng.
Trường
Sư Phạm và trường Kỹ Thuật Qui Nhơn
được ngân sách Mỹ tài trợ, xây cất rất
qui mô và tân kỳ. Hai trường nằm gần nhau
tại Khu Sáu, sát bờ biển, khoảng giưă
đường từ phố Gia Long đến Ghềnh
Ráng, nơi thi sĩ Hàn Mặc Tử an nghỉ giấc ngàn
thu. Qua khỏi Ghềnh Ráng là làng Qui Ḥa, làng dành riêng cho
người mắc bệnh cùi. Ở đó có nhiều bà
"xơ" hy sinh một đời, tận tụy
chăm sóc cho bệnh nhân.
Lúc bấy giờ, 1962, thành phố Qui
Nhơn hăy c̣n tiêu điều xơ xác. Ngay con
đường chính Gia Long, chạy dài từ Núi Một (Ga
xe lửa) đến bến cảng hăy c̣n nhiều ngôi nhà
vô chủ, đổ nát hoang tàn trong chiến tranh chưa có
ai dọn dẹp. Đường Lê Lợi chạy từ
trung tâm phố thẳng ra biển c̣n rất nhiều nhà
tranh, vách lá.
Vẽ
lại một vài h́nh ảnh cũ để cho thấy
chính phủ lúc ấy có dụng ư khi cho xây cất hai ngôi
trường đồ sộ tại đây. Mỗi năm
hai trường qui tụ hơn một ngàn giáo sinh và
học sinh kỹ thuật khắp nơi đổ về.
Nền kinh tế tại đây đă nhanh chóng phục
hồi.
Để
quảng bá rộng răi cho nhiều nơi biết về
trường Sư Phạm, Ban Giám Đốc nhà
trường cho thành lập một ban văn nghệ.
Trịnh Công Sơn được bầu làm trưởng
ban, chịu trách nhiệm tổng quát. Thanh Hải, phó ban
thứ nhất, trách nhiệm về nhạc. Vơ Văn Pḥng,
phó ban thứ hai, trách nhiệm về kịch. Một
vỡ kịch thơ dài 45 phút nhan đề "Tiếng
Cười Bao Tự" được dàn dựng. Tôi
được chọn để thổi sáo đệm
thơ. Nhân dịp này tôi mới biết và quen với
Trịnh Công Sơn.
Một
chương tŕnh đại qui mô gồm đủ các
tiết mục ca, múa, nhạc, kịch được Ban Văn
nghệ hoạch định. Thêm vào đó là một tổ
phụ trách ánh sáng. (Lúc đó rất hiện đại và
tân kỳ. Dùng đèn chiếu slide làm hậu cảnh thay
đổi mỗi màn tŕnh diễn khác nhau. Dùng đèn quay,
chớp chớp đổi màu rất đẹp mắt)
Buổi
tŕnh diễn được ra mắt đúng ngày "Song
Thất" năm đó, chứ không phải ngày măn khóa
như ông Đinh Cường nói.
Trong
thời gian này, Trịnh Công Sơn sáng tác trường ca
"Tiếng Hát Dă Tràng" hay gọi gọn hơn là
"Dă Tràng Ca" để làm tiết mục mở màn.
Đây là tiết mục công phu và đặc sắc
nhất. Ban hợp xướng gồm năm mươi
người gồm nam lẫn nữ do Sơn thử
giọng tất cả các mầm non văn nghệ và
chọn lọc. Anh đă khổ công tập ráo riết trong
ba tháng trời, xen kẻ giữa những giờ học,
và đă thành công vượt mức trước sự
ngạc nhiên đầy thích thú và khen ngợi của quan
khách và công chúng. Tiếng vỗ tay đă kéo dài rất lâu.
Rất
tiếc, tôi không có chân trong ban hợp xướng, nên không
thuộc trường ca này. Chỉ nhớ lơm bơm vài câu, xin
ghi lại cho vui.
Tiếng Hát Dă Tràng hay Dă Tràng Ca.
(Tiếng
vọng) Dă tràng... Dă tràng... Dă tràng...
Dă
tràng xe cát biển Đông... Dă tràng xe cát hoài công...
(Tiếng
trống Bass dồn dập, thúc dục):
Trùng
dương ơi... Trùng dương ơi vỗ sóng vào
bờ...
....(quên)...
Thôi...
c̣n ǵ nữa đâu... C̣n ǵ nữa đâu... Đời lên
cơn đau! Xuân, Hạ, Thu, Đông bốn mùa làm rét
mướt... Tôi gọi tên tôi giữa nước non ngàn...
Tôi
chỉ nhớ đại khái vậy. Hiện nay, tại
thành phố Lawrence, Mass, có anh Nguyễn Văn Tấn, Cali có
chị Hồ thị Nghị trước ở trong ban
hợp xướng, chắc c̣n nhớ. Bốn mươi
năm đă qua rồi, c̣n ǵ!
Cũng trong thời gian học Sư
Phạm, Sơn c̣n sáng tác thêm những nhạc phẩm khác
như "Biển Nhớ", "Nh́n Những Mùa Thu
Đi", "Nắng Thủy Tinh". Hầu như
tất cả giáo sinh đều biết và ngâm nga những
bài này. Ngoài ra Sơn cũng sáng tác một vài bài vui, ngắn
để chúng tôi khi đi thực tập tại các
trường dạy cho các em hát.
Tôi
xin ghi lại đây một bài tượng trưng:
Ông Tiên vui
Ông Tiên
vui,
Ông có cái
râu dài.
Đêm
ông thường ngủ yên trên đỉnh mây.
Ông Tiên
vui,
Ông
thường hay nhắc đến.
Chốn
thiên đ́nh chẳng có tháng ngày vui.
Ông Tiên
vui,
Ông có cái
căn nhà.
Trên
ngọn đồi hằng đêm Ông ghé qua.
Hôm em
lên,
Ông
chợt đi đâu vắng!
Lúc em
về, em buồn đến ngẩn ngơ.
Xin
nhắc lại ở đây, Qui Nhơn lúc ấy c̣n nghèo
lắm. Cả thành phố có mỗi quán kem duy nhất,
vừa bán kem, vừa bán cà phê, thuốc lá, bia, trà. Đó là
quán Phi Điệp, nằm trên đường Phan Bội
Châu, đối diện với hội trường Qui
Nhơn, nơi đă tŕnh diễn văn nghệ.
Mỗi
buổi chiều, chúng tôi, anh chị em nào có chút tiền c̣m
th́ kéo nhau vào quán, kêu b́nh trà, ngồi nhâm nhi nghe nhạc. Khá
một chút nữa th́ kêu một chai bia với tô ḅ viên gân,
ngầu pín của ông Ba Tàu đậu xe trước quán.
Thế là sang lắm rồi. Anh chị nào "bô xu" th́
ra biển ngồi ngắm trăng suông. Biển Qui Nhơn
là biển bùn nên cát ở đó có màu vàng xỉn trông dơ
dáy, không trắng như cát biển Nha Trang. Dọc theo
bờ biển là một hàng dương, chạy dài từ
khu quân sự đến bệnh viện Nguyễn Huệ.
Trước bệnh viện là xóm chài. Bờ biển không
có một lều quán hay kiosque nào. Ông Đinh Cường nói
cùng Trịnh Công Sơn và Bích Khê ra đó uống cà phê
ngắm trăng là nói nhầm.
Ba
Năm Tại B'lao (Bảo Lộc, Lâm Đồng)
Sau
hai năm, măn khóa, chúng tôi tốt nghiệp ra trường.
Tôi và Trịnh Công Sơn cùng bốn giáo sinh khác là Lê Thị
Ngọc Trinh (Huế), Nguyễn Văn Sang, Trương
Khắc Nhượng, Đỗ Thị Nghiên (Nha Trang) cùng
được bổ nhiệm chung một sư vụ
lệnh, đáo nhậm nhiệm sở Ty Tiểu học
Lâm Đồng. Sự vụ lệnh mang số
961-GD/NV/38/SVL tạm thời tuyển bổ do Ông Nguyễn
Hữu Quyến, Xử Lư Thường Vụ Hiệu
Trưởng Trường Sư Phạm kư ngày 14 tháng 8
năm 1964.
Sau
hai năm tập sự, chúng tôi được điều
chỉnh tuyển dụng bằng Nghị Định mang
số 596-GD/NV/BC/QĐ do XLTV Đổng Lư Văn Pḥng,
Phụ Tá Chuyên Môn, Phạm Văn Thuật kư ngày 6/5/1966.
Đến
năm 1967, chúng tôi mới được chính thức
bổ dụng bằng Nghị Định mang số
687/GD/NV/3B/NĐ kể từ ngày 01/9/1966 do T.U.N Ủy Viên
Giáo Dục Đổng Lư Văn pḥng Huỳnh Ngọc Anh kư
ngày 7/4/ 1967.
Với
chỉ số lương 320 cộng thêm phụ cấp
đắc đỏ vùng cao lúc bấy giờ, chúng tôi lănh
được năm ngàn hai trăm đồng ($5.200)
mỗi tháng, tương đương với hai lạng
rưỡi vàng Kim Thành. Vật giá lại rất rẽ.
Tiền ăn, ở mỗi tháng chỉ hết 600
đồng. Chai bia Con Cọp 3 đồng. Một dĩa
thịt ḅ lúc lắc bốn người ăn giá 7
đồng. Tô phở 3 đồng. Cà phê loại ngon,
một ly/1 đồng. Cơm bữa với ba món, 6
đồng. Thời gian từ 1964 đến 1967, chúng tôi
sống sung sướng, tiêu pha rộng răi mà vẫn c̣n
rủng rỉnh.
Tôi
từ Nha Trang lên, theo đường Nha Trang - Đà
Lạt - Bảo Lộc. Trịnh Công Sơn, từ Huế
bay vào Sài G̣n, rồi từ Sài G̣n đi xe đ̣ lên Bảo
Lộc.
Không
hẹn mà gặp lại nhau trên bến xe vắng vẻ,
thưa thớt bóng người. Lâu lâu mới thấy
dăm người Thượng lầm lũi nối
đuôi nhau, lặng lẽ rảo bước về
một bản làng nào đó. Chúng tôi nh́n nhau, ḷng thầm
nghĩ: Trời ơi! Cái thiên đường mà ḿnh
tưởng tượng khi nắm trong tay tờ Sự
Vụ Lệnh là đây sao? B'lao-Bảo Lộc là đây sao?
Một phố quận vào chiều thứ sáu sao mà vắng
lặng, buồn hiu hắt. Chuyến xe cuối cùng
đổ khách xuống đây rồi lẫn mất. Ai
cũng tản mác về nhà. Chỉ c̣n trơ lại Sơn
và tôi, trơ trọi, cô độc. Trời lại đang
mưa lâm râm, lành lạnh. Hai chúng tôi, mỗi người
một va li quần áo nhẹ tênh. Lang thang t́m người
hỏi đường đến Ty Tiểu Học Lâm
Đồng. Lúc bấy giờ, thị xă Đà Lạt
thuộc tỉnh Tuyên Đức. Lâm Đồng là một
tỉnh chỉ có vỏn vẹn hai quận là Djiring (Di Linh)
và B'lao (Bảo Lộc). Trước năm 1960, Ṭa Hành Chánh
đặt ở Di Linh. Sau dời về Bảo Lộc
được mấy năm, trước khi chúng tôi
đến.
Khi
chúng tôi t́m được đến Ty Tiểu Học th́
trời đă sụp tối mặc dù chưa tới sáu
giờ. Sương mù bốc lên từ mặt đất,
bay là là dưới chân. Ty chỉ cách bến xe non nửa
cây số. May mắn, lúc ấy bác lao công đang khóa cửa
chuẩn bị ra về. Khi biết chúng tôi là giáo viên
mới đổi đến, bác ân cần mời chúng tôi
theo bác.
-
Mấy thầy cũng may! Bác nói. Chút nữa là tôi về
rồi. Mai thứ bảy Ty nghỉ. Mấy thầy
biết trọ nơi đâu. Đi theo tôi, tôi sẽ
giới thiệu hai thầy với mấy ông giáo cũng
vừa mới đổi tới đây mấy hôm
trước.
Chúng
tôi theo chân Bác vào ngơ Tiên Dung (gọi là ngơ Tiên Dung v́
đầu ngơ có tiệm chụp h́nh mang tên ấy). Đi
sâu vào khoảng hai trăm thước, con hẽm hẹp,
trơn trợt v́ cơn mưa buổi chiều, xoai xoăi lên
dốc dần. Bác dừng chân trước một căn
nhà mái tole, vách ván. Trong nhà vẳng ra tiếng cười nói
vui nhộn của đám đông. Bác cai bước vào
trước. Tiếng huyên náo im bặt. Bác ra hiệu cho
chúng tôi vào nhà. Trong nhà chỉ có một chiếc
giường gỗ khá rộng. Trên giường bốn
mạng đang nằm, ngồi lổn nhổn. Mọi
người nh́n bác cai chờ đợi. Bác đưa tay
về chúng tôi rồi hướng về một anh lớn
nhất trong đám giới thiệu:
-
Thầy Lăng à! Mấy thầy này mới đổi tới
hồi chiều. Ty đóng cửa rồi, không tŕnh diện
được. Thầy giúp dùm cho mấy thẩy ở
tạm qua đêm được không? Nhà tôi chật quá,
không có chỗ ngủ.
Lăng
tung chăn, ngồi dậy, giọng hơi cà lăm:
-
Thế à! Được... được! Bác cứ
về! Để... để tụi này thu xếp.
Sau
khi bác cai quay lưng ra khỏi cửa, tôi với Sơn
sực nhớ ra chưa nói lời nào cám ơn sự giúp
đỡ của bác, bèn vội nói vói theo:
- Cám
ơn bác nghe!
Không
thấy tiếng trả lời. Có lẽ bác đă đi khá
xa. Chợt Lăng lên tiếng:
- -i
giời! Nhà bác ấy cũng gần ngay đây thôi! Sáng mai,
thế nào bác ấy cũng sang đây. Các anh vào đây
đă. Sao cứ đứng măi thế. Để...
để cái va li vào góc này!
Chúng
tôi theo lời anh đem hành lư đặt vào góc nhà. Thế
rồi cả bốn người bu quanh hỏi thăm
rối rít.
- Sư
Phạm Qui Nhơn hả?
- Vâng!
- À, có
anh Sang cũng Sư Phạm Qui Nhơn đây, mới tŕnh
diện hôm kia. C̣n bọn này Sư Phạm Sài G̣n. Cũng lên
trước mấy ngày thôi.
Tôi
nh́n qua Sang. Cũng dân Nha Trang, nhưng tôi chưa gặp
mặt lần nào tại Qui Nhơn. Sang ốm và cao như
cây tre miễu. Nước da đen nhẽm. Mắt tṛn xoe,
tṛng trắng nhiều hơn tṛng đen. C̣n hai người
kia mới thoạt nh́n cứ tưởng là hai anh em.
Cả hai đều tṛn lẵn, chắc nịch. Da mặt
hồng hào, bóng lưỡng. Một anh tên là Nguyễn
Đức Hinh, năy giờ chỉ đứng nh́n chúng tôi
cười cười, không nói ǵ, nét mặt lộ vẽ
thân thiện. C̣n anh kia là Đỗ Danh Đạo,
người hoạt bát, nói năng vui vẻ. Anh giới
thiệu với chúng tôi người này, người nọ
bằng một giọng đặc biệt Bắc pha Sài
G̣n nghe rất tếu:
- Ông này
là Nguyễn Tiến Lăng, -anh chỉ tay về phía
đầu giường, Lăng đang quấn mền,
ngồi dựa lưng vào vách.- Lăng là thổ địa
kỳ cựu sáu năm ở đây, có biệt danh là ông
Trùm. Đang dạy tại trường Nam Bảo Lộc.
Có
lẽ đoán được sự thắc mắc của
chúng tôi qua nét mặt ngơ ngác, Đạo giải thích:
- Sở
dĩ ông Lăng lên tới chức Ông Trùm là v́ ông ở đây
lâu, thổ nhưỡng Lâm Đồng tặng cho ông
bệnh sốt rét kinh niên. Cứ tới năm giờ
chiều là ông phải trùm mền, xoa dầu Nhị Thiên
Đường. Ngày nắng hay ngày mưa cũng
đều đặn.
Mọi
người cười rộ lên qua lời tếu của
Đạo. Quay qua cặp mập và ốm ngồi cạnh
nhau, Đạo tiếp:
- C̣n hai
ông này là Sang và Hinh, đang làm vua một cơi tại Lạc
An, cách đây bảy cây số. Một tuần về
phố một lần để du hí. Tạm trú tại
"am" của em và bác Lăng.
Không
khí dần dần cởi mở, thân mật. Chúng tôi
thấy ấm ḷng và quên ngay nỗi buồn nặng nề
buổi chiều, mới cách đây có hai tiếng
đồng hồ. Chợt Hinh lên tiếng:
- Này ông,
ông giới thiệu người khác lung tung, sao ông không nói
ǵ về ông hết?
Đạo
đỏ mặt rần lên, phất tay lia lịa:
- Thôi tha
cho nhà em, nhà em đâu có ǵ để mà nói!
Nhưng
Hinh đâu có chịu tha:
- Hai anh
nè! Hắn là Đỗ Danh Đạo, tự là Đạo
Sữa. Hôm mẹ hắn dẫn hắn lên đây giao cho bác
Lăng trông nom, có dặn ḍ bác Lăng nhắc chừng hắn
uống đều đặn mỗi ngày ba lần sữa,
sữa Guigoze chính hiệu bà Lang Trọc đấy.
Nói
xong, anh chỉ cho chúng tôi thấy hai thùng sữa tổ
bố nằm dưới gầm bàn.
Thoáng
chốc, chúng tôi thấy gần gũi và thân t́nh như
đă quen nhau tự bao giờ. Mọi người dục
chúng tôi đi tắm rữa rồi dẫn đi ăn
tối. Đi ngược lại hẽm Tiên Dung. Phía bên kia
đường là quán ăn Ngọc Hương, nằm bên
phải đầu cầu. Buổi chiều, lầm lũi
theo bác cai nên chúng tôi không để ư. Cầu có tên là Cầu
Đất, v́ bên dưới không có sông hay suối ǵ
cả. Người ta dùng xe ủi, ủi đất
lấp đầy một quăng, nối liền hai trái
đồi, thành một lối đi, hai bên có thành che
chắn cho khỏi ngă xuống hố, trông giống như
cây cầu. Sương buổi tối đă dâng lên dầy
đặc. Cả phố Bảo Lộc thắp thoáng
ẩn hiện trong sương giống như cảnh tiên
bồng trong xi nê. Quán ăn Ngọc Hương lập ḷe
ánh điện, văng vẳng tiếng nhạc phát ra, nghe
như lúc gần lúc xa. C̣n nhớ h́nh như bản
"Những Bước Chân Âm Thầm". V́ lời ca,
tiếng nhạc với cái khung cảnh lúc bấy giờ
nó ḥa nhập vào ḷng người lần đầu tiên
đặt chân lên miền cao nguyên, sơn cước...
Trước mắt tôi, một cảnh trí hoàn toàn lạ
lẫm, đầy huyền ăo và thơ mộng mà từ
thuở nhỏ đến giờ, sống ở miền
gió biển, cát trắng, sóng vỗ quanh năm, tôi chưa
từng được thấy. Có chăng cũng chỉ
là tưởng tượng ra những h́nh ảnh mơ
hồ qua bản nhạc "Ai Lên Xứ Hoa Đào"
của nhạc sĩ Hoàng Nguyên mà thôi.
Những
h́nh ảnh buổi chiều đứng co ro nơi bến
xe vắng ngắt bóng người, nó ảm đạm thê
lương bao nhiêu, bây giờ trở thành thơ mộng,
lăng mạn bấy nhiêu. Nào con đường đất
đỏ quanh co lẫn khuất dần trong ngơ vắng.
Nào sương mù là là bay từng đám dưới chân. Nào
những con đường lên dốc, xuống dốc
khiến những mái nhà trồi lên, hụp xuống theo, y
như những con thuyền tṛng trành lượn theo
giợn sóng xa xa ngoài biển.
Đang
đói suốt một ngày đi đường, tôi và
Sơn, vèo một cái, mỗi người đă ăn
hết một dĩa cơm sườn nướng
một cách ngon lành. Trong lúc mọi người đang nhâm
nhi cà phê, nghe nhạc. Họ đă ăn từ chiều.
Chúng tôi tiếp tục uống cà phê và tṛ chuyện. Sơn
ít nói, chỉ ngồi nghe. Thỉnh thoảng góp vài câu
gọi là. Có lẽ lần đầu c̣n giữ kẽ
chăng? Ba anh: Lăng, Hinh, Đạo chốc chốc lại
ngó chăm chăm vào Sơn, nửa như ṭ ṃ, nửa
như quan sát. Phải chăng cái phong thái nghệ sĩ
của Sơn đă gây cho người ta cái ấn
tượng đầu tiên? Đối với tôi hay Sang,
cái h́nh ảnh Trịnh Công Sơn, với một khuôn
mặt ngăm đen, đôi mắt nhỏ mơ màng sau
cặp kính cận khổ lớn, gọng đồi
mồi che gần hết nửa khuôn mặt, trong hai năm
học tại Qui Nhơn đă quá quen thuộc. Nhưng
giờ đây, với những người bạn mới,
chân chỉ hạt bột, mới rời ghế nhà
trường, lần đầu tiên bước chân ra ngoài
xă hội th́ h́nh ảnh một ngươi nghệ sĩ
như Sơn tự nhiên với mái tóc thưa, hơi dài, cái
trán hói cao, đôi kính cận to quá khổ, hàng ria mép lưa
thưa, vừa như râu, vừa như lông, mănh và mịn
khiến người ta thấy lạ nhưng ưa nh́n và
có cảm t́nh ngay.
Gần
chín giờ, mọi người dục về. Tôi và Sơn
muốn nán lại chút nữa để được
hưởng thêm cái hương vị ngọt ngào,
đậm đà kỷ niệm của ngày đầu tiên
đặt chân lên xứ Thượng. Nhưng anh Lăng cho
biết, đúng chín giờ là nhà máy điện sẽ cúp.
Đêm
đó, chúng tôi trăi chiếu, chăn xuống thềm nhà,
năm người bạn trẻ, trừ anh Lăng nằm
trên giường, tuổi sàng sàng từ hai bốn
đến hai sáu, cùng nhau trao đổi những chuyện
quê hương đi dần từ Sài G̣n ra đến
Huế rồi thiếp vào giấc ngủ. Lúc bừng
mắt dậy đă chín giờ sáng.
Sáng
thứ Hai, tŕnh diện tại Ty để chờ bổ
nhiệm, chúng tôi gặp hầu hết các bạn khác
từ các nơi cũng đă đến từ thứ
Bảy, Chủ Nhật. Sư phạm Qui Nhơn đủ
mặt: Lê Thị Ngọc Trinh, Đỗ Thị Nghiên,
Trương Khắc Nhượng. Sư phạm Sài G̣n: Nam
có Nguyễn Hảo Tâm, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Văn
Tâm, Trần Văn Nghị. Nữ có: các cô Nguyệt, Châu,
Hải, Trang ... Sư phạm Long An chỉ có một ngoe là
Ngô Thanh Bạch.
Ty Trưởng đương nhiệm là
Ông Trương Cảnh Ngôn, sắp về hưu.
Đỗ Thị Nghiên, Trương Khắc Nhượng,
Nguyễn Hảo Tâm và tôi cùng được bổ
nhiệm về trường Tân Bùi, xứ Tân Bùi, cách trung
tâm Bảo Lộc chừng năm cây số. Lê Thị
Ngọc Trinh bổ về trường Nữ Bảo
Lộc ngay trung tâm phố. Nguyễn Văn Ba phụ chân
kế toán tại Ty. Riêng Trịnh Công Sơn
được "biệt nhăn" hơn bổ về
một trường Sơ Cấp Thượng, ở sát nách
Ty, chừng non cây số. Với chức vụ là
Trưởng Giáo. (Xin chú ở đây, theo qui chế Bộ
Giáo Dục bấy giờ: một trường chỉ có
lớp bốn trở xuống gọi là trường
Sơ cấp. Đứng đầu là Trưởng Giáo,
phải dạy lớp và không có phụ cấp chức
vụ 200$. Trường từ năm lớp trở lên
mới được gọi là trường Tiểu
học. Đứng đầu là Hiệu Trưởng có
phụ cấp chức vụ, vẫn phải đứng
lớp. Truờng có từ mười lớp trở lên,
Hiệu Trưởng mới được miễn
dạy.
Ngạch
chúng tôi là Giáo Học Bổ Túc, chỉ số lương
tập sự là 320, ngân sách do Bộ Quốc Gia Giáo Dục
đài thọ, như đă nói ở trên. Sau khi phân
bổ xong, Ty cho chúng tôi được nghỉ một
tuần để thu xếp nơi ăn chốn ở.
Thứ hai tuần tới sẽ tŕnh diện nhiệm
sở mới. Khi về đến nhà, chúng tôi ḅ
lăn ra cười với cái chức Trưởng giáo
của Sơn. Lần đầu nghe tới chức Trưởng
Giáo, ai cũng liên tưởng tới chức Trưởng
Lăo Hộ Pháp trong Ma Giáo, truyện chưởng Kim Dung.
Mấy
ngày thong thả, tôi và Sơn đi dạo khắp nơi
để t́m nhà trọ. Thật đúng như lời
của một bản nhạc "đi dăm phút đă
trở về chốn cũ..." Phố Bảo Lộc
nằm dọc theo quốc lộ, chỉ có một
đoạn ngắn chưa đầy nửa cây số.
Bắt đầu từ trường Nông Lâm Súc, chạy
thoai thoải xuống dốc, đến cuối dốc là
một cái hồ nước, trông giống như cái ḷng
chăo là hết. Lên dốc, hai bên là những đồi trà
ngút ngàn. Lâm Đồng là xứ trà. Xưa kia B'B'Lao do
người Pháp khai khẩn trồng trà và chế biến
trà. Họ có nhiều trang trại lớn và có cả sân bay
tư nhân. Năm chúng tôi được bổ về
đây th́ chỉ c̣n hai người Pháp già lấy vợ
Việt Nam là c̣n ở lại. Những trại chủ khác
đă bán lại cơ sở cho người Việt
hoặc bỏ hoang để về nước v́ không
chịu nổi Việt Cộng thu thuế.
Bảo
Lộc là đọc theo âm Việt của tên Thượng
là B'Lao . Năm 1954, ông Diệm đưa số
người Bắc di cư lên đây khẩn hoang lập
nghiệp. Họ toàn là người Công Giáo. Dẫn
đầu là một cha xứ. Người xứ nào ở
ngoài Bắc thuộc làng ǵ th́ lên đây qui tụ lại
thành một xứ, lấy tên làng ḿnh ghép thêm chữ Tân
để thành tên của xứ ḿnh. Ví dụ: làng Bùi Chu
thành Tân Bùi. Theo thứ tự, hướng từ
Định Quán lên cao dần, qua khỏi khu vực sông La
Ngà là đèo Ma Đa Gui, ranh giới tỉnh Lâm Đồng.
Quận Bảo Lộc bắt đầu từ xứ Tân
Bùi. Tiếp theo là Tân Hà. Phố Bảo Lộc nằm
giữa. Rồi đến Tân Thanh, Tân Phát. Xa vào tận buôn
Thượng c̣n thêm Tân Rai và Tân Lú. Tôi chưa đến
đó bao giờ. Chỉ đọc thấy trên bản
đồ hành chánh. Mỗi xứ đạo do một cha
xứ cai quản, cả phần hồn lẫn phần
xác. Phụ tá có các ông trùm. Xứ có lực lượng
vũ trang riêng để tự vệ an ninh và đánh
trả Việt Cộng. Chung quanh xứ bảo bọc
bởi hàng rào tre kiên cố. Kẻ lạ muốn vào xứ
phải có người trong xứ quen và hướng
dẫn. Xứ được xây dựng theo đồ h́nh
bát quái. Trung tâm là nhà thờ. Dưới mỗi nhà
đều có đường hầm ăn thông với
đường hầm chính dẫn tới nhà thờ. Đường
hầm được đào và xây dựng rất rộng
răi, chắc chắn. Suốt những năm ông Diệm
chấp chánh, không một tên du kích nào dám bén măng đến
quấy rối. Nghe nói lúc đầu cũng có vài tên cố
thâm nhập nhưng đều bị giáo dân tóm cổ
tức khắc. Trong khi đó, tại trung tâm phố, khu
tập trung đông đảo dân Nam, Ngăi, B́nh, Phú, Thừa
Thiên theo đạo Phật đa số th́ Việt Cộng
lại dễ dàng trà trộn răi truyền đơn và treo cờ.
Kể từ năm 1964, khi chúng tôi dạy học tại
đây, trở về sau, những chính quyền kế
tiếp không chú trọng đến kế hoạch ấp
chiến lược nữa, thu hồi toàn bộ vũ khí
của các xứ, nên vấn đề an ninh lỏng
lẽo dần.
Trở
lại chuyện chúng tôi đi t́m nhà trọ. Suốt
mấy ngày, Sơn và tôi lang thang khắp ngơ để t́m nhà
thuê, nhưng không nơi nào vừa ư. Nhất là nhà vệ
sinh th́ khiếp quá. Tất cả các nhà đều đào
hố xí sau vườn. Gác ngang miệng hố là hai thanh
gỗ. Che chung quanh bằng những tấm cót tre. Không có
mái che. Ngày mưa phải đội nón lá mà ngồi.
Nhặng xanh hằng ngàn con bay vù vù từ dưới
hố lên, bu cả vào người. Ḍi bọ trắng
nhởn to bằng đầu đũa, ḅ lổn nhổn
khắp mặt đất. Eo ơi! C̣n những ngày
nắng oi nồng, cái mùi xú uế từ dưới xông lên
càng khiếp đảm.
Trong
lúc loay hoay t́m nhà, có ai đó mách chúng tôi, ở về phía Ty
Công Chánh có ngôi biệt thự vừa xây xong, chủ nhà
muốn cho thuê nhưng hơi đắt. Sơn và tôi
đến ngay. Nhà rất đẹp, tọa lạc trên
một khu quang đăng, thoáng tầm nh́n. Chung quanh hàng rào bao
bọc, phía trước có cổng. Nhà có ba pḥng ngủ,
một pḥng khách. Nhà bếp rộng chia làm hai, một
nửa là bếp, một nửa là pḥng tắm và vệ
sinh. Chủ nhà là một người đàn bà tuổi
trạc độ ba mươi, người mănh dẽ. Bà
hiện là Trưởng Pḥng Kế Toán của Ty Công Chánh Lâm
Đồng. Bà sống với đứa con gái nhỏ sáu
tuổi tên Đào. Chồng bà đang làm việc ở
Sàig̣n, bà cho biết. Sau khi nói chuyện độ dăm
phút, chúng tôi bằng ḷng thuê toàn bộ căn nhà, trừ
một pḥng cho bà và đứa con gái để ở,
với giá 1.200 đồng. Nếu muốn ăn cơm
tháng th́ bà nấu luôn cho. Ngày ba bữa, mỗi người
trả thêm ba trăm đồng. Chúng tôi ra về với
ḷng thơ thới v́ đă t́m được nơi ăn
ở vừa ư. Trên đường về Sơn cứ
lẩm bẩm: Đàn bà mà tên Phi lại lót Thị, Thị
Phi... Thị Phi!
Sơn
tủm tỉm cười một ḿnh. Tôi biết Sơn
đang nghĩ ǵ về bà chủ nhà trẻ, sống
một ḿnh.
Chúng
tôi rủ thêm hai người bạn nữa để chia
bớt pḥng và chia bớt tiền. Hai anh Nguyễn Hảo
Tâm và Nguyễn Văn Ba đến xem nhà và đồng ư
ngay. Sơn và tôi có công t́m nhà, nên được ưu tiên
ở căn pḥng trước, có cửa sổ quay ra
mặt đường. Tâm và Ba ở căn kế. Bà
chủ nhà căn trong cùng. Ba pḥng ăn thông ra pḥng khách. Pḥng
khách có cửa hông thông với nhà bếp. Từ lúc chúng tôi
về ở, trừ những lúc dọn cơm cho chúng tôi
hay những lúc đi làm chạm mặt ở pḥng khách, bà
chủ cùng đứa con gái đóng cửa im ỉm, nói
chuyện rầm ŕ ở trong buồng, ít khi ló mặt ra
ngoài. Mấy tháng sau, bà thuê được một cô
người làm. Cô này độ chừng hơn hai
mươi, có da thịt, tính t́nh hiền hậu, hơi quê
mùa nhưng dễ thương. Cô giúp bà chủ đi
chợ nấu ăn cho chúng tôi. Cô ngủ ở nhà bếp.
Nhớ
lại một mẫu chuyện vui. Có lần bà chủ
nghỉ phép nửa tháng về Sài G̣n với gia đ́nh, bà
yêu cầu chúng tôi t́m chỗ ăn tạm trong thời gian
này. (lúc đó chưa có cô giúp việc) Bốn chúng tôi thay
phiên nhau đi chợ nấu ăn mỗi người
một ngày. Sở dĩ chúng tôi không đi ăn tiệm là
v́ hai lư do. Thứ nhất là làm biếng đi xa. Từ nhà
đến tiệm ăn xa hơn đến chợ. Thứ
hai, có cơ hội để thử ḿnh có khả năng
tự lực cánh sinh hay không? Đầu tiên, tôi xung phong
trước. Bữa ăn có cá chiên dầm mắm tỏi
ớt, chắm với dưa leo, rau sống, xà lách. Hội
đồng chấm điểm: Tạm được!
Ngày thứ hai, Nguyễn Văn Ba. Thịt ba chỉ kho
hột vịt ăn với dưa cải và cà pháo muối
mặn. Điểm: Khá. Đêm đó chúng tôi lục
đục thức dậy uống nước và đi
tiểu suốt. Nguyễn Hảo Tâm người Sài G̣n,
giả giọng Bắc của Ba, ngâm ư ử chọc
Văn Ba:
Em
ơi! Mở cửa cho anh ra!
Kẻo
anh chết khát trong vại cà nhà em!
Ngày thứ ba,
Hảo Tâm vác chiếc bụng phệ đi chợ. Vậy
mà thoáng cái đă về, xăn tay áo vào bếp. Trưa hôm
đó chúng tôi được thưởng thức món
hột vịt luộc, dầm x́ dầu ớt chanh,
chấm với giá chua, rau sống. Sơn rên rỉ :
Chắc cái rô bi nê nước của bà chủ nhà đêm nay
hư quá! Văn Ba được dịp trả thù câu
chọc tối qua của Hảo Tâm:
- Này ông
Tâm! Cái câu "Kẻo anh chết khát trong hủ giá chua nhà
em" tối nay đọc nghe trúc trắc quá, ông ráng
sửa lại nghe cho êm tai nhá!
Tâm
cười giả lả:
- Nè... nè
tráng miệng với chuối bồ hương đi! Ngon
lắm đó.
Ngày
thứ tư đến lượt Sơn. Anh rũ tôi
đi cho có bạn. Hóa ra anh chàng mắc cỡ. Anh thủ
sẵn trong túi hồi nào không hay một cái bao bằng
giấy xi măng. Miệng ngậm ống vố ph́ phèo,
tay chắp sau đít, anh lững thững vào chợ như
người đi dạo cảnh. Tôi theo sau không ư kiến,
mắt đảo quanh đám người Thượng, xem
họ mua bán đổi chác những thổ sản mang
từ trên núi xuống. Nhiều nhất là phong lan. Nhưng
chỉ là những loại thường như hoàng lan, hoàng
điệp, hàm rồng, long tu, địa lan... Mấy
thứ này rẽ tiền. Chỉ năm, mười
đồng một nhánh. Tháng đầu tôi ham, mua về
treo đầy trong pḥng. Song nó cứ rũ ra, chết
dần. Có người bày cách, phải treo nó ngoài trời
cho có đủ sương và nắng gió nó mới sống.
Tôi làm theo. Nhưng mấy chục nhánh cũng lần
lượt héo sầu, đổi sang màu vàng rồi
chết khô. Có lẽ nó nhớ bạn, nhớ rừng
chăng?
Sơn
xăm xăm đi tới hàng đồ khô, gia vị và nói
với bà bán hàng:
- Bà cho
tôi một chục trứng gà, một ít củ hành và
tỏi. Tính hết bao nhiêu?
Bà
bán hàng nói giá tiền và hỏi lại:
-
Cậu có cái ǵ đựng không? Đi chợ mà đi hai tay
không vậy?
Sơn
nhanh nhẹn rút trong túi quần ra cái bị giấy xi
măng đưa cho bà bán hàng và nói:
- Bà
bỏ hết vô đây là được rồi.
Trả
tiền xong, Sơn quành qua hàng thịt mua một miếng
thịt ba chỉ. Trở lại hàng rau mua thêm mấy trái
cà chua.
- Xong!
Ông thấy tôi có nghề không? Sơn hỏi tôi mà không
cần câu trả lời.
Vừa
về đến nhà đă thấy hai chàng Tâm và Ba chờ
sẵn.
- Nào!
Bữa nay coi anh chàng nhạc sĩ của ḿnh nấu
nướng ra làm sao!
Sơn
cười h́ h́:
-
Được rồi! Mấy ông vô hết trong này coi tôi
trổ tài nghe.
Sơn
vào bếp chỉ huy ba chúng tôi, người này lột
vỏ hành, tỏi, người kia rửa cà, thái lát
mỏng, người nọ cắt thịt ba chỉ thành
sợi như chiếc đũa. Chúng tôi làm theo răm
rắp. Mọi việc đâu vào đấy. Và giục
Sơn ra tay v́ trời đă khá trưa rồi. Sơn
bắt đầu đổ dầu chiên vào chăo. Trong khi
chờ đợi dầu nóng, Sơn giảng giải cách
làm các món:
- Các ông
sẽ được thưởng thức món hột gà
"ốp la" và hột gà đổ chả nghe! (Sơn
thường đệm tiếng "nghe" ở
cuối câu rất nhẹ và rất dễ thương)
Phải đợi dầu thật nóng, bốc khói, rồi
khử dầu bằng vài tép tỏi đập dập cho
thơm-Sơn nói tiếp:
- Bây
giờ mấy ông coi nghe!
Sơn
cầm lấy một trứng gà bằng hai tay, vừa làm
vừa giảng tiếp:
- Ḿnh
phải cầm trứng bằng tám ngón tay như thế
này, từ ngón trỏ đến ngón út, hai ngón tay cái bấm
vào trứng để bóp quả trứng. Nè! Chú ư nè!
Chúng
tôi ngó theo bàn tay Sơn, những ngón tay thuôn dài đang ôm
lấy quả trứng. Những ngón tay khô, xương và
da. Phải cho có thêm một ít thịt th́ bàn tay Sơn
chắc đẹp không thua ǵ bàn tay con gái. Sơn bóp
mạnh hai ngón tay. Ḷng trắng, ḷng đỏ trứng gà
thay v́ lọt vào chăo, lại vọt xuống đất
đánh "bạch" một tiếng. Một trứng
đi đời. Sơn bào chữa:
-
Tại tôi bóp mạnh quá!
Chúng
tôi khuyến khích:
- Làm
lại! Làm lại!
Sơn
làm thêm hai lần nữa, t́nh trạng vẫn y như
cũ. Một đống trứng nhầy nhụa
dưới chân. Ba la lên:
- Thôi!
Thôi! Ông Sơn ơi, làm ơn tránh ra cho chúng tôi làm. Mà ông có
biết làm không th́ bảo?
Sơn
nói:
-
Hồi nhỏ tôi thấy má tôi làm như vậy mà!
Tâm
hỏi lại:
- Mà ông
đă làm thử lần nào chưa?
-
Chưa!
-
Vậy mà cũng bày!
Tôi
chọc quê Sơn bằng cách hát nhại "Dă Tràng Ca":
"Thôi! C̣n ǵ nữa đâu! C̣n ǵ nữa đâu! Mà không
ăn rau..."
Sơn
nổi cáu, x́ nẹt:
- Thôi
cha! Cha sửa lời làm hư hết bản nhạc
của tôi đó cha.
Sau
đó chúng tôi đập hết những trứng c̣n
lại vào trong một cái tô lớn. Trộn thêm
đường, hành củ, cà chua, thịt ba chỉ, tiêu,
x́ dầu đánh đều lên thành một món hổ
lốn, đổ vào chảo thành hai lượt cho mau chín
và không bị cháy phía dưới. Không ngờ bữa cơm
ấy lại vui và ngon ra phết. Ai nấy vừa ăn
vừa nhắc lại cảnh Sơn bóp trứng mà
cười. Dứt bữa ăn, Sơn trịnh trọng
đứng lên tuyên bố:
-
Bắt đầu chiều nay đi ăn cơm tiệm!
Không
ngờ cái lệnh vô t́nh ấy lại hợp cả cho
chúng tôi. Không ai bảo ai, cả ba chúng tôi đồng thanh
vừa cười, vừa hô to:
- Ăn
cơm tiệm! Đă đảo đi chợ!
Những
ngày chúng tôi sống chung với nhau trong "ngôi biệt
thự" của bà Trần Thị Phi thật là vui
nhộn. Cũng chính trong căn pḥng có khung cửa sổ
ngó ra con đường đất đỏ của
căn nhà này, Trịnh Công Sơn đă sáng tác các nhạc
phẩm để đời: "Chiều Một Ḿnh Qua
Phố", "Lời Buồn Thánh", "Vết
Lăn Trầm"- và "Ca Khúc Da Vàng."
Ngày Lănh
Lương Đầu Đời
Mới
ngày nào vừa tŕnh diện để nhận nhiệm
sở, thoáng cái đă đến cuối tháng lănh
lương. Ngày lănh lương đầu tiên trong
đời, chúng tôi ai nấy đều háo hức
đến Ty thật sớm để được kư
tên vào sổ lương. Tôi kư tên và nghĩ đến
một món tiền lớn do chính tay ḿnh làm ra. Món tiền mà
từ xưa tới nay, tôi chưa hề được
cầm trong tay. Hai năm trọ học ở Qui Nhơn,
cha mẹ tôi phải khó nhọc lắm mới chắt chiu
được sáu trăm đồng hàng tháng gửi cho tôi
chi tiêu. Có tháng chậm tới ngày thứ mười mà tôi
vẫn không dám viết thư dục v́ tôi hiểu rơ hoàn
cảnh của tôi: Con nhà nghèo.
Trong
khi chúng tôi nôn nao chờ đợi được gọi
tên vào pḥng kế toán để lănh tiền th́ anh Thành, phát ngân
viên, cứ đủng đỉnh hút thuốc lào. Tiếng
kêu rít rít của cái nỏ cầy càng thêm sốt ruột.
Lại thêm mấy ngụm trà Tàu khề khà nữa chứ.
Tiếng
Nguyễn Đức Tín, giáo viên trường Cộng
Đồng Thượng, một tay lâu năm trong nghề,
rất hoạt kê và lém lĩnh vang lên:
- Bố
Thành ơi! Ra tay làm phúc cho chúng em nhờ tí! Cả tháng nay
chưa có hột cơm nào trong bụng cả. Hôm nay em
về trễ, có mà vào nhà bằng đít.
Giai
thoại về anh chàng Tín này rất nhiều. Chuyện nào
cũng cười vỡ bụng. Có dịp sẽ kể.
Khi mọi người đă cầm trong tay cái phong b́ dày
cộm có ghi tên ḿnh, Tín tḥng thêm một câu chót trước
khi ra khỏi cửa Ty:
- Này
bố Thành! Em bảo nhé! Cứ thuốc lào nhiều vào! Hai
cái má hóp như hai cái hố ấy. Người cứ
quắt như cái tăm, bà Thành không cho tí chút th́
đừng bảo Tín này không nói trước nhá!
Nói
xong, Tín cười hềnh hệch. Ra khỏi Ty, Sơn săi
chân đi thật lẹ. Sơn cao, chân dài. Tôi thấp, chân
ngắn, nên phải nhảy ba bước một mới
kịp. Vừa thở, vừa kêu:
- Ông
Sơn! Về nhà chớ đi đâu mà ông đi như ma
đuổi vậy! Từ từ chờ tôi với chứ!
Sơn
không đáp cứ cắm đầu đi thẳng. Vừa
vào pḥng, Sơn khóa trái cửa lại. Tôi nhạc nhiên
chờ xem anh chàng làm cái ǵ đây. Sơn để nguyên
quần áo, giày vớ, nằm vật ngữa ra đi
văng, tay rút trong túi quần ra cái pḥng b́ tiền
lương lúc năy, xé phong b́, nắm hết xấp tiền
5.200 đồng, gồm giấy năm đồng,
mười đồng, năm chục đồng tung lên
trên trần nhà. Giấy bạc mới tinh, phát ngân viên Thành
vừa lănh từ Kho bạc ra, rơi lả tả
xuống người Sơn, rơi xuống đi-văng.
Sơn hốt lên, tung trở lại. Sơn cười
sằng sặc. Sơn cười ha hả. Tiếng
cười nghe là lạ. Nó pha lẫn niềm vui và nỗi
phẫn hận. Rồi Sơn chửi thề:
- Đù
mạ mi! Đù mạ mi! Tiền! Tiền!
Đó
là lần đầu tiên tôi nghe Sơn chửi thề. Và
cũng là lần duy nhất suốt ba năm sống chung
với nhau.
Tôi
để mặc Sơn được tự do trong những
giây phút ấy. Tôi không muốn gây một tiếng
động nào để quấy rầy Sơn đang
đắm ch́m trong thế giới riêng của ḿnh.
Tôi
yên lặng đếm tiền của ḿnh một cách
chậm răi. Từng tờ, từng tờ. Tôi để cho
mười đầu ngón tay của ḿnh cảm nhận
hoàn toàn cái cảm giác đê mê, sung sướng đang run
lên từng chặp với những tiếng kêu sột
soạt của những tờ bạc mới tinh nguyên
chạm vào nhau. Cái âm thanh nghe sao mà hấp dẫn. Cái mùi
giấy bạc mới sao mà quyến rũ thế!
Đầu tôi phác hoạ ra một chương tŕnh mau
lẹ: Hăy trích ra ba ngàn đồng, ra ngay Bưu
điện mua một cái "măng đa" gửi
liền về cho Má để Má mừng. Chắc Má sẽ
vui lắm khi nhận được tiền do thằng con
gửi về. Thằng con do bà nuôi nấng, chắt chiu,
dành dụm từng đồng, từng cắc của gánh
hàng đè nặng lên vai bà ngày ngày, cho con ăn học. Hôm
nay có lẽ bà sẽ sung sướng và hănh diện âm
thầm, không tỏ lộ cùng ai: Con bà đă trở thành ông
giáo!
Chiều
hôm đó tất cả chúng tôi không ăn cơm nhà. Phải
tự khao cho ḿnh một chầu linh đ́nh mới
được. Tại nhà hàng Ngọc Hương (bây
giờ ông bà chủ quen mặt chúng tôi quá rồi) có mặt
đông đủ các ông giáo trẻ vừa mới có
được một thành tích: "Một tháng công
vụ" Chúng tôi uống bia. Tín gọi nhà hàng ơi
ới:
- Này ông
bà chủ! Cho một két bia "ông Tây Cà lồ" nhé! Bia
thật lạnh đấy!
Bia
"ông Tây Cà lồ" mà Tín gọi là bia Con Cọp,
loại chai lớn. Tín có những từ ngữ thật
đặc biệt để gọi các vật hay những
việc nghe rất buồn cười. Có lần anh ta
mời Sơn và tôi đến nhà chơi. Anh ta nói oang oang
giữa đám đông đang bù khú:
- Này! Xin
thưa với các cụ! Hôm nay em xin phép các cụ cho em
"rước" hai ông anh này đến "am" em
chơi, làm mấy "ve". Xin các cụ đừng
"à uôm" ǵ cả nhớ!
Đêm
đó chúng tôi ăn uống tưng bừng. Cười nói
hả hê. Chín giờ, điện cúp. Chúng tôi ra về, bá vai
nhau đi khệnh khạng, xiên xẹo giữa phố
vắng, dày đặc sương mù. Đến cuối
dốc cầu, xếp hàng ngang, vạch quần, vừa
đi, vừa tè, vẽ thành rồng rắn, loang lỗ trên
mặt đường nhựa.
Ôi
một thời tuổi trẻ vô tư, hồn nhiên!
Một
Thầy, Một Cô, Một Con Chó Cái!
Tôi
không h́nh dung được lúc ông Cao bá Quát làm giáo thụ
ở Quốc Oai cái cảnh nó ra làm sao, mà ông tả oán
bằng những câu thê thảm:
Một
thầy, một cô, một chó cái,
Học
tṛ dăm đứa, nửa người,
nửa
ngợm, nửa đười ươi!
Nhưng
cái cảnh ông trưởng giáo Sơn ngồi dạy
học ở ngôi trường Sơ cấp Thượng
th́ thật bi hài. Mỗi buổi sáng, cái hoạt cảnh ông
đi dạy đă là buồn cười rồi. Tôi và
Sơn có điểm giống nhau là không thích đeo
đồng hồ. Tôi dạy buổi chiều nên tha hồ
nằm nướng trên giường. Sơn dạy
buổi sáng, phải dạy sớm lúc bảy giờ
để đến trường. Những ngày có mặt
trời th́ nh́n bóng nắng, độ giờ mà đi.
Những
ngày sương mù hay mưa dầm th́ lắng nghe tiếng
kèn đồng chào cờ của một đồn lính nào
đó, rất xa vọng lại văng vẵng. Te te... ṭ tí
te... ṭ tí te... là Sơn xỏ vội chiếc áo sơ mi ka
ki vàng cụt tay, (Chiếc áo này tôi thấy từ lúc c̣n
ở trường Sư phạm) đôi giầy Ba-Ta màu
nâu. Nách kẹp cuốn vở soạn bài cuộn tṛn,
miệng ngậm ống vố, chân sải bương bă
đến trường. Trường không xa lắm. Cách
nhà non nửa cây số. Sơn lội bộ hàng ngày trên con
đường đất đỏ, càng lúc càng lên
dốc. Ngày nắng th́ bụi đỏ mù trời. Ngày
mưa đất nhăo, nhèm nhẹp. Đi một lúc th́
phải t́m một khúc cây hay ḥn đá bên đường
để gạt bớt lớp đất nhăo dính vào
đế giày càng lúc càng nặng. (Quảng đường
này ông Trịnh Cung tưởng tượng ra dài
đến mấy cây số, Sơn phải g̣ lưng
đạp xe đạp đến trường). Có hôm,
Sơn ngồi chờ măi vẫn không nghe thấy tiếng
kèn đồng giục giă ṭ te, tí te, cứ ôm đàn t́m
nốt nhạc. Đến khi sương tan, mặt
trời ló ra th́ đă trưa rồi. Ba chân bốn cẳng,
Sơn phóng như ngựa phi đến trường.
Nửa giờ sau, thấy anh ta đủng đỉnh ra
về. Tôi hỏi:
-
Ủa! Không dạy à?
-
Học tṛ đâu mà dạy? Sơn trả lời tỉnh
khô. Tôi vẫn chưa hết thắc mắc:
-
Vậy th́ chúng nó không đi học à?
- Không
biết! Nhưng có lẽ chúng nó thấy không có thầy nên
tự động ra về. Tôi đoán vậy.
- Nè ông
Sơn! Trường ông sát nách Ty. Coi chừng Thanh tra
Lương đi kiểm soát bất tử th́ chết không
kịp ngáp đó nghe! Tôi nhắc chừng. Sơn vẫn nói
cứng:
- A! Tôi
đâu có cho phép. Chúng nó tự động về là lỗi
của chúng. Đâu phải lỗi tại tôi.
Đến
nước này th́ tôi chào thua, hết căi.
Một
hôm, tôi bỗng nảy ư định đến xem ngôi
trường của ông trưởng giáo Sơn nó ra làm sao.
Leo
hết con dốc ngắn, ngôi trường hiện ra trên
một khoảng đất trống. Xung quanh trơ
trọi, không một cây cối ǵ cả. Trường
được ngăn đôi thành hai lớp học. Mái
tranh, vách đất, không cửa nẻo. Trong lớp
một bàn vuông cho Thầy, sáu bộ bàn ghế dài cho tṛ.
Trên vách treo một tấm bảng đen đă bạc
thếch chính giữa. Chắc trải nhiều năm tháng
không ai buồn sơn lại. Bụi đỏ bám khắp
nơi. Từ vách đến bàn ghế thầy lẫn tṛ. Tôi
đến đó khoảng mười giờ. Học tṛ
hầu hết là các em bé người Thượng. Chỉ
xen lẫn vài em người Kinh. Có lẽ là con em của
những gia đ́nh lính đóng đồn gần đó.
Tất cả đều bẩn thỉu. Có đứa
ở trần, đánh độc một chiếc quần
xà lơn. Có đứa cũng đủ bộ. Nhưng màu đất
đỏ đă nhuộm từ ống quần trở lên,
lâu ngày không c̣n nhận ra màu ǵ nữa.
Có
lẽ là giờ ra chơi. Thầy Sơn đang ngồi
tư lự. Miệng ngậm ống vố, mắt nh́n
lơ đăng về cánh rừng xa xa. Mặc cho đám
học tṛ nhỏ làm ǵ th́ làm. Một túm đang g̣ lưng
trên bàn, méo mồm, méo miệng nắn nót viết bài.
Một tụm đang ḅ lê bắn bi dưới
đất. Cuối lớp có vài đứa đang dựa
lưng vào vách, há mồm ngủ.
Thấy
tôi vào, Sơn cười méo miệng:
-
Tới đây chi cha?
-
Tới coi ông trưởng giáo làm ăn ra sao cho biết! Tôi
cười cười.
- C̣n ông
già Thống đâu?
- Ông
Thống dạy buổi chiều.
-
Trường có mấy lớp anh Sơn?
- Ba. Tôi
dạy lớp ba. Ông Thống lớp một và hai.
-
Học sinh đông không?
- Th́ ông
thấy đó. Bữa nào không đi hái trà th́
được hai chục. Bữa nào cha mẹ nó cần
thêm nhân công th́ lớp mươi, mười lăm
đứa.
Những
đứa học tṛ thấy người lạ th́ trố
mắt nh́n. Sơn gơ gơ cây thước lên bàn làm hiệu.
Đám học tṛ ngưng hẵn cuộc chơi, chờ
lệnh thầy. Sơn nói:
- Hôm nay
thầy có khách. Cho các em về sớm.
Đám trẻ con hớn hở ra mặt, vội thu sách
vở, ùa ra cửa. Trong giây lát, tất cả trở
về trong yên lặng. Sơn ngồi trầm ngâm, nán
lại thêm một chút nữa, đăo mắt nh́n quanh
một ṿng, rồi tặc lưỡi đứng lên. Hai
chúng tôi yên lặng xuống đồi. Trong thâm tâm, có
lẽ mỗi người đang theo đuổi những
ư nghĩ khác nhau. Sơn nghĩ ǵ? Tôi không biết. Riêng tôi
th́ nghĩ: May cho ông thi sĩ họ Cao ngày xưa. Ngồi
dạy học ở nơi khỉ ho c̣ gáy, c̣n có một cô,
một chó cái an ủi. Ngày nay ông nhạc sĩ họ
Trịnh cũng ngồi dạy học ở một nơi
y như vậy mà không có ǵ bầu bạn, ngoài một
nỗi buồn cô quạnh!
Trên
đường về, tôi gợi ư với Sơn, nên
nhập hai buổi thành một, để có thêm ông già
Thống cho vui. Sơn cho là ư hay.
Chiều
nay tôi phải bàn với ông Thống mới
được.
Ông Già
Thống: Con Ngựa Già Của Trưởng Giáo Trịnh
Sau khoảng vài tháng đầu niên khóa
64-65, ông Trương Cảnh Ngôn về hưu. Ông Lê Cao
Lợi, một vị thanh tra kỳ cựu, có tu nghiệp
ở Mỹ một thời gian, được Bộ
đề cử chức Ty Trưởng thay ông Ngôn.
Thời gian này là thời kỳ vàng son của Trịnh Công
Sơn. Ông Lợi, người trung niên, có tâm hồn văn
nghệ, thích thơ, nhạc, nên đối với một
nghệ sĩ như Sơn, Ông dành cho nhiều dễ dăi.
Đôi lúc nhắm mắt làm ngơ cho Sơn dùng th́ giờ
dạy học làm việc riêng của ḿnh. Điều này
đă khiến cho một vài giáo viên già, lâu năm trong
nghề, so b́.
Khi
chúng tôi đặt chân lên Bảo Lộc, trời đă vào
thu. Những tháng đầu c̣n lạ nước, lạ
cái, không biết đi đâu, làm ǵ cho hết th́ giờ. V́
chỉ dạy có một buổi, chúng tôi có suốt
những buổi chiều lang thang. Cứ hết
"những bước chân âm thầm" trong khuôn viên
trường Nông Lâm Súc, im ĺm vắng vẽ với
những tàn cây sao, cây gơ, cây gụ... cao vút tận trời
xanh, lại đến đoạn đường Quốc
Lộ chạy xuyên qua con phố Bảo Lộc lèo tèo vài
quán ăn dọc đường ngắn củn. Chúng tôi
lại đi ṿng ṿng bờ hồ cho đến khi
chiều xuống hẳn. Sương mù bắt đầu xuất
hiện trên mặt hồ. Ban đầu mỏng rồi
đầy dần, đầy dần cho đến lúc che
khuất hẳn một cḥm cây giữa hồ. Chỉ c̣n
thấy một thân cây chết khô với những cành
khẳng khiu vươn lên trơ trọi giữa trời
mây. Đến lúc đó, ai cũng cảm thấy mỏi
chân. Và muốn vào quán ngồi nhâm nhi cà phê hoặc làm vài chai
bia, nghe nhạc, chờ tối để về nhà t́m
giấc ngủ. Trong cái không gian và thời gian đó,
Trịnh Công Sơn đă cảm hứng sáng tác nhạc
phẩm "Chiều Một Ḿnh Qua Phố".
Một
điều đặc biệt rất lạ là suốt
thời gian ba năm làm nhạc tại Bảo Lộc,
những nhạc phẩm "Chiều Một Ḿnh Qua
Phố", "Lời Buồn Thánh", "Vết
Lăn Trầm", "Tiếng Hát Dạ Lan" và
tập "Ca Khúc Da Vàng" Sơn đều đi
mượn đàn của bạn. Mặc dù đă có
tiền nặng túi, Sơn vẫn không có nỗi cây đàn.
Hay Sơn không muốn mua? Cây đàn đă giúp Sơn ghi
lại những nốt nhạc mà Sơn thai nghén trong lúc
đi dạy hoặc lang thang với chúng tôi ban ngày. Tối
về chúng tôi say trong giấc ngủ th́ Sơn say sưa ôm đàn
ḍ lại những âm thanh chập chờn ẩn hiện
trong đầu. Đó là cây đàn ghi ta của cô giáo
Đỗ Thị Nghiên.
Sau
những đêm như thế, Sơn phờ phạc
hẵn. Sáng ra, giỏ rác đầy tràn những giấy
nháp. Sơn chép vội những ḍng nhạc vừa xuất
hiện trong đầu rồi chợt biến. Vo tṛn, ném,
lại ḍ t́m. Sơn sợ làm ồn giấc ngủ của
tôi, nên phải chận phím để tạo những âm thanh
câm.
Như
trên đă nói, trước đó, Sơn đă có nhiều
nhạc phẩm hay nhưng chỉ chuyền tay nhau hát trong
chốn bạn bè. Có lẽ không có điều kiện hay v́
lư do nào đó, Sơn không thể xuất bản để
phổ biến rộng răi. Cho đến khi ở tại
Bảo Lộc, sau khi hoàn chỉnh nhạc phẩm
"Chiều Một Ḿnh Qua Phố", Sơn quyết
định mang đứa con của ḿnh về Sài G̣n, t́m
nhà xuất bản.
Sơn
ở rịt tại Sài G̣n gần ba tuần lễ.
Ông
giáo già Tạ Văn Thống chạy chiếc xe gắn máy
hiệu Sach, cũ kỹ, già nua không thua ǵ tuổi
đời của ông, đến chỗ chúng tôi trọ, t́m
thầy Sơn.
-
Thầy ơi! Thầy có biết thầy Sơn ở
đâu không? Ông hỏi tôi.
Ông
ấy về Sài G̣n rồi! Ông ta không nói ǵ với ông sao? Tôi
đáp. Ông Thống không trả lời tôi, chỉ ôm
đầu rền rĩ.
- -i
giời ôi! Tôi chết mất! Thế này th́ tôi chết
mất! Một ḿnh tôi phải ôm ba lớp suốt ba
tuần nay.
Ông
lại hỏi tôi:
-
Thầy có biết lúc nào ông ấy về không?
- Không!
Không thể nào biết được bác Thống ạ!
-
Thế th́ tôi chết mất!
Ông
vừa chào tôi, vừa rền rĩ, thất thểu
dắt xe ra ngơ. Tôi nh́n theo, ái ngại cho tuổi già của
ông. Vài năm nữa là về hưu, nên ông cố gắng
đeo cái nghề này trong chốn đèo heo, hút gió
để mong được chút tiền hưu, an
hưởng tuổi già. T́nh trạng này sẽ c̣n tái
diễn dài dài. Và ông vẫn sẽ phải ôm ba lớp mà ca
cẩm, rên rĩ như mọi bận. Chúng tôi gọi đùa
sau lưng ông là "Con Ngựa Già Của Trưởng Giáo
Trịnh". Nhại lại nhan đề một
truyện ngắn.
Nhạc
Phẩm Đầu Tiên Được Ấn Hành
Mấy
ngày sau Sơn về, mặt mày bơ phờ, hốc hác. Tôi
kể chuyện ông già Thống đi t́m. Sơn nói sẽ
xin lỗi sau. Xong, Sơn ngủ vùi suốt ngày hôm đó.
Hôm sau, Sơn vui vẻ kể cho tôi nghe đầu đuôi
câu chuyện về nhạc phẩm "Chiều Một
Ḿnh Qua Phố". Sơn kể:
- Ḿnh bán
cho cha Duy Khánh. Chả trả có ba ngàn đồng bạc.
Ḿnh nài thêm, chả nói: "Nhạc Phạm Duy là đắt
nhứt mà cũng chỉ tới năm ngàn là cùng, ông là
nhạc sĩ mới, giá vậy là cao lắm rồi".
Sơn tặc lưỡi nói tiếp:
- Thôi
cũng được, nhưng tiếc một điều
là chả làm hư bản nhạc của ḿnh. Ḿnh bán
đứt bản quyền rồi đâu c̣n ư kiến chi
được!
Tôi
thắc mắc:
- Hư
là hư làm sao?
-
Nhạc của ḿnh thuộc loại êm, nhẹ, diễn
tả nổi buồn của những ngày lang thang trên
phố vắng, đ́u hiu, quạnh quẽ, mà chả
cứ rống lên như ḅ rống!
Sơn
giả điệu bộ và giọng Duy Khánh, lấy tay
nắm lấy da cổ họng giựt giựt miệng
rống lên "Chiều một ḿnh qua phố...
ố...ố...ố..." Tôi không sao nín cười
được. Nhân đó, Sơn giải nghĩa cho tôi nghe
về việc in ấn, tác quyền, phát hành, gom tiền...
rất nhiều giai đoạn nhiêu khê. Tác giả một
nhạc phẩm hay một tiểu thuyết không thể nào
tự ḿnh làm được các việc đó, nên bị các
nhà xuất bản bắt chẹt, đành phải bán
bản quyền cho họ. Bấy giờ tôi mới vỡ
ra. Lâu nay tôi cứ ngỡ các ông văn sĩ, nhạc sĩ
có sách, có nhạc được in ra, đem bán khắp
nơi, chắc hẳn là giàu lắm. Này nhé, cứ tính
nhẩm th́ thấy ngay: một bản nhạc giá 7$ x
một triệu bản = 7 triệu đồng. Triệu
phú rồi c̣n ǵ! Té ra, sự thật, ông nhạc sĩ nhà
ḿnh ôm có ba ngàn đồng bạc đi ăn nhậu,
nhảy đầm với đám bạn mấy ngày hết
sạch! C̣n phía nhà xuất bản th́ sao? Ông Duy Khánh của
ta đem in ra chỉ có 1.500 bản, gởi các đại lư
khắp nước bán dùm, họ ăn hoa hồng 35%.
Gần cả nửa năm sau chưa gom hết tiền
về.
Dịp này, Sơn cũng kể cho tôi nghe
về hai người bạn ở Sài G̣n mà Sơn
thường về ở chung, đi ăn, đi nhảy
với nhau. Đó là Trịnh Cung và Đinh Cường.
Đến giờ phút này tôi vẫn chưa có dịp
gặp và biết Đinh Cường. (Trừ những
tấm h́nh trên Net). Trịnh Cung th́ tôi thấy mặt
một lần khi ông ta ghé thăm Sơn tại Bảo
Lộc, nơi pḥng chúng tôi đang ở. Khoảng đầu
năm 1965 th́ phải! H́nh ảnh của 2 ông Trịnh
thật là tương phản. Ông Trịnh nhạc sĩ
th́ xuề xoà, giản dị trong bộ đồ, áo kaki
vàng bỏ vô quần tergal, với đôi giầy Ba-Ta màu nâu
muôn thuở. (Sau này có may thêm hai áo sơ mi, một nâu,
một trắng bằng vải Nil France) Dạo ấy
Sơn có biệt danh do chúng tôi đặt là "Chàng
nghệ sĩ nhứt y nhứt quởn". Có lẽ
một năm Sơn mới đi hớt tóc một
lần, tôi nghĩ vậy, v́ không bao giờ thấy Sơn
có đầu tóc mới. Vẫn mái tóc thưa, mềm
chạy dài xuống gáy. Hàng râu mép hung hung nâu. Không phải râu,
cũng không phải lông. Khi dài th́ Sơn lấy kéo cắt
bớt. Hàng râu cằm lại càng khiêm nhường. Từ
sợi nọ sang sợi kia có thể mắc vơng
được. Tôi thường đùa với Sơn
như vậy.
C̣n
ông Trịnh họa sĩ th́ rất đỏm dáng trong
bộ âu phục thời trang. Áo veston xẻ hông, cà vạt,
giầy da bóng láng. Ông có bộ râu quai nón rất rậm, che
kín gần hết khuôn mặt, chỉ chừa một khoảng
nhỏ từ trán xuống mũi.
Lần
thứ hai tôi gặp lại ông là tháng 6 năm 1967. Tổng
động viên, tôi vào Thủ Đức. Lúc ấy ông
đang mang lon Thiếu Úy, làm huấn luyện viên. Lần
thứ ba, giữa năm 1970, tôi gặp lại cả hai
ông Trịnh tại pḥng triễn lăm tranh được tổ
chức trong ngôi biệt thự Văn Hóa Pháp,
đường Yersin Nha Trang. Lần ấy, Sơn không nh́n
thấy tôi hay không c̣n nhận ra tôi, tôi không biết.
Nhưng lúc ấy Sơn đang bận rộn bắt tay
người này, cười nói với người kia.
Cả một đám đông đang quây xung quanh. Tôi không
tiện và cũng không thể len vào để nói mấy câu
nh́n bạn. Sơn vẫn xuề x̣a trong bộ âu phục
thường. Ông họa sĩ vẫn đóng khung c̣m lê, cà
vạt. Tối hôm đó nằm mơ, tôi thấy Sơn
đến thăm tôi tại căn pḥng có cửa sổ ngó
ra con đường đất đỏ, trong ngôi nhà
của bà Trần Thị Phi và hai chúng tôi đến Câu
Lạc Bộ Lâm Đồng uống cà phê. Nhưng
sương chiều cứ là là bay, che khuất khuôn mặt
Sơn. Tôi cố nh́n nhưng vẫn không thấy rơ nét.
Trở
lại câu chuyện "Chiều Một Ḿnh Qua
Phố". Sơn hỏi tôi:
- Có nghe
ông Lợi nói ǵ về tôi không?
- Không
biết! Nhưng ông đi lâu quá, tôi e cũng đă
đến tai ông ta rồi.
- Làm sao
bây giờ? Sơn có vẽ hơi lo. Tôi trấn an:
- Không
sao đâu! Chiều nay ông lên Ty, cười cầu tài
một phát. Nói vài lời xin lỗi rồi tặng ổng
bản nhạc là xong ngay.
Sơn
thở phào nhẹ nhỏm. Sơn rút trong cặp ra hai
bản nhạc, kư tặng ông Lợi một bản, tôi
một bản. Bản đặc biệt in trên giấy
láng, hai lớp. H́nh b́a màu nâu, vẽ chàng nghệ sĩ tay
trái xách đàn, tay phải vắt áo khoác trên vai, đang
lầm lũi xuống con đường dốc. H́nh b́a
này chắc không phải do ông Cường hoặc ông Cung
vẽ. Nét vẽ chân phương không lập dị như
thường thấy của hai ông. Sơn kư cả họ
lẫn tên và chữ lót dài từ đầu này đến
đầu kia của bản nhạc theo chiều
đứng. Cái gạch ngang chữ T trên đầu kéo dài
che hết ba chữ Trịnh Công Sơn. Không có h́nh con cá
như ông Cường nói. Tôi làm thầy bói nói ṃ:
-
Chữ kư ông đẹp. Tiếc thay cái gạch dài quá, che
hết cuộc đời của ông, e rằng không
được tốt!
Sơn
cười:
- Thôi
cha! Bày đặt coi tướng số, tử vi hả?
Chiều
hôm đó, từ Ty về, Sơn hớn hở khoe với
tôi:
- Lúc
mới vô Ty, mấy nhân viên văn pḥng ái ngại nh́n tôi,
chắc thế nào cũng bị ông Lợi quạt một
trận tơi bời v́ tội bỏ nhiệm sở. Tôi
cũng hơi lo. Nhưng lúc gặp ổng trong văn pḥng
riêng, tôi x́a bản nhạc ra trước và nói mấy câu
phân bua lư do vắng mặt cùng lời xin lỗi. Ổng
cầm bản nhạc, chăm chú xem, không nói ǵ. Lúc đó
tôi hơi yên tâm. Cuối cùng ông ta nói:
- Cám
ơn anh bản nhạc. Nhưng từ rày về sau
đừng bỏ trường nữa. Tôi nghiệp cho ông
Thống. Và tôi cũng khó đối xử với các nhân viên
khác. Về lănh vực âm nhạc, mong anh thành công nhiều
hơn.
Cô
Nữ Sinh Tên Ngà, Tiếng Kèn Đồng Và "Lời
Buồn Thánh"
Khoảng
đầu tháng tư năm 1965, chúng tôi đau buồn
tiễn biệt người bạn trẻ Nguyễn
Văn Ba về bên kia thế giới. Căn nhà chỉ c̣n
ba người. Nguyễn Hảo Tâm ở một ḿnh
để được yên tĩnh học, mong lấy
nốt chứng chỉ Văn khoa cuối cùng.
Ba
là người ngoan đạo. Mỗi buổi sáng, đúng
năm giờ, dứt hồi chuông đầu là anh đă ra
khỏi nhà để đến nhà thờ dự lễ
nhứt. Trong khi chúng tôi c̣n quấn kỹ trong chăn.
Rất chăm chỉ, rất đều đặn, anh
không bỏ sót một ngày, dù mưa hay băo.
Hôm
anh về Sài G̣n để thăm gia đ́nh, Việt
Cộng đắp mô ở đoạn đường
đèo Madagui. Trên chiếc xe đ̣ Minh Tâm, tám chỗ
ngồi, có một cha xứ ở Tân Phát cùng đi. Không
một ai dám xuống xe để gỡ mô. Cha xứ nóng
ḷng về Sài G̣n gấp, không thể chờ quân đội
đến phá mô như mọi bận, nên Cha tự tay
xuống gỡ. Mô chỉ là một đống đất
hoặc vài tảng đá. Có khi là một thân cây chắn
giữa đường, trên phủ cành lá um tùm. Bên
dưới gài lựu đạn hoặc ḿn. Có khi chỉ
là nghi trang, mục đích làm trở ngại giao thông, gây khó
khăn cho dân chúng đi lại làm ăn mà thôi. Lần này mô
rất sơ sài, chỉ dăm ba cục đá, một ít
đất, vài nhánh cây phủ lên trên. Trông không có vẽ ǵ
ghê rợn như mọi lần. Chừng năm,
mười phút dọn dẹp là xe có thể lưu thông
được. Thấy Cha Xứ xuống xe gỡ mô, Ba
cản lại:
- Cha
cứ ngồi trong xe. Ḿnh con xuống gỡ là
được rồi!
Ba
kéo gần hết các nhánh cây ra khỏi mô. Thấy không
động tịnh ǵ. Mọi người thở phào
nhẹ nhơm. Năy giờ cứ lên ruột. Tài xế nổ
máy xe, chuẩn bị lăn bánh. Ầm! một quả
lựu đạn nội hóa phát nổ. Ba vật ngữa
ra, chết liền tại chỗ. Cả xe bàng hoàng,
khủng khiếp. Không một ai nhúc nhích. Mấy phút sau, cha
xứ và vài hành khách rụt rè xuống xe, lại gần Ba,
khiêng anh về. Xe chạy ngược lại Bảo
Lộc.
Khi
hay tin, chúng tôi sững sốt, nghẹn ngào. Vội vă
đến thăm anh tại nhà thương Bảo
Lộc. Anh nằm trong nhà xác. Thần thái như đang
ngủ. Thi thể không một vết thương. Nhân viên
y tế cho biết chỉ có một mănh duy nhất trúng ngay
tim. Năm ấy anh mới có hai mươi bốn
tuổi, tuổi vừa mới biết yêu. T́nh yêu mới
chớm nở với người đẹp Bùi Thị
Lan, nữ thư kư trong Ty. Một cái chết tức
tửi, oan uổng, phi lư.
Sau
cái chết của Nguyễn Văn Ba, Sơn đâm rét, không
dám về Sài G̣n hàng tuần nữa. Trước đó,
cứ trưa thứ sáu, sau khi tan trường, Sơn
đi thẳng ra bến xe, lấy vé về Sài G̣n. Xe
nhỏ Minh Tâm, chỉ bốn tiếng đồng hồ là
Sơn đă "tiếu ngạo" ở thành phố hoa
lệ. Mười hai giờ trưa Chúa Nhật, Sơn
lại lên xe đ̣, đánh một giấc. Năm giờ
chiều đă có mặt tại quán cà phê Ngọc Trang.
Những
ngày bó gối nằm nhà, Sơn thường ngồi tư
lự trước bàn viết duy nhất dành cho cả hai
soạn bài, nh́n đăm đắm ra con đường
đất đỏ. Mùa này bông lau nở trắng khắp
nơi. Lau trắng dọc theo con đường dốc
chạy dài từ trong buôn ra tới quốc lộ, băng
ngang trước nhà chúng tôi. Buổi chiều, gió nồm
thổi nhẹ từng cơn, lướt qua rừng lau,
xô chúng ngă nghiêng xuống, rồi chúng bật dậy,
tạo thành những âm thanh xào xạc nhè nhẹ,
đều đều, buồn buồn. Chiều xuống
dần. Những vạt nắng cuối cùng chiếu xiên
trên những ngọn bông lau, lấp lánh sáng ngời. Gió
lắng dần. Không gian trở nên im ắng, tĩnh
mịch. Chợt tiếng kèn đồng xa xa vẳng
lại, lúc nghe, lúc mất. Thật hắt hiu buồn.
Đó là lúc cô nữ sinh hàng xóm, cô Ngà, đúng giờ đi
lễ chiều. Chuông nhà thờ đang vang vang, dồn
dập từng hồi, thúc dục con chiên đến giáo
đường.
Thật
đúng như tên đặt, da cô trắng ngà. Người
mănh mai với mái tóc thề chấm ngang vai, với khuôn
mặt phảng phất nhiều nét như Đức
mẹ Maria. Rất dịu dàng trong dáng đi. Mỗi
buổi chiều cô đi lễ, đều đi ngang nhà
chúng tôi. Hai tay ấp quyển Thánh Kinh trước ngực,
đầu hơi cuối xuống, lặng lẽ, khoan thai
bước. Đă bao lâu rồi? Cái h́nh ảnh rất
đẹp ấy, cái màu áo dài trắng nổi bật trên
nền đất đỏ, thấp thoáng ẩn hiện
trong đám lau trắng, đă đi ngang nhà chúng tôi bao nhiêu
chiều rồi mà chúng tôi không hề hay biết. Thật
uổng phí! Chẳng là, cứ ba giờ chiều, chúng tôi
đă túc trực quanh mấy cái bàn bi da để dành
chỗ rồi chơi cho đến khi tắt điện
mới ṃ về, th́ làm sao có th́ giờ để biết
bên hàng xóm có người đẹp. Cái tên Ngà, măi về sau,
theo dơi, lắng nghe mấy đứa em cô gọi, mới
biết.
Từ
ngày Nguyễn Văn Ba chết, chúng tôi buồn v́ thiếu
vắng một người bạn, nên không c̣n hứng thú
trong những buổi lang thang nữa. Ngồi nhà suốt
một tuần nên mới phát hiện ra bên hàng dậu có
người ngọc. Cả ba: Sơn, Tâm và tôi bắt
đầu theo đuổi. Nhưng cả ba đều
không thành công. Chúng tôi đều bỏ cuộc nửa
chừng. Lư do: Tuổi trẻ ham chơi không để phí
nhiều th́ giờ để đeo đuổi. Thứ
nữa là sĩ diện, quan trên trông xuống, người
ta trông vào. Thầy giáo mà đi chọc gái th́ ê càng quá.
Tuy
nhiên, với tâm hồn nhạy cảm của người
nghệ sĩ, Sơn đă thành công khi đưa tất
cả những âm thanh mơ hồ của ngàn lau, của
tiếng kèn đồng, tiếng chuông nhà thờ cùng dáng
yểu điệu của cô Ngà, ḥa nhập với gió
chiều nhè nhẹ, để cấu thành chất liệu
tuyệt vời tạo nên nhạc phẩm "Lời
Buồn Thánh".
Đôi
Nét Về Trịnh Công Sơn
Trịnh
Công Sơn có vẽ người nghệ sĩ tự nhiên
với mái tóc thưa, bồng bềnh, không chải
chuốt hoặc cố làm dáng như các bạn văn
nghệ của anh. Anh không bao giờ cạo mặt.
Nếu ai nh́n kỹ khuôn mặt anh, sẽ thấy
đầy những lông măng. Có lần tôi ṭ ṃ hỏi anh
về chuyện hớt tóc, cạo râu, anh cho biết:
Mỗi khi thấy lưỡi dao cạo bén ngót của ông
thợ cạo là bắt rùng ḿnh. Nghĩ ngay đến
cảnh đang nằm ngửa cổ chờ cạo râu th́
ông thợ cạo đưa một đường
ngọt xớt, đứt ĺa cuống họng. Sơn không
nói v́ sao lại có cái ám ảnh ghê rợn đó.
Sơn
rất gầy, thường xuyên ở mức bốn
mươi kư lô, mặc dù anh cao hơn tôi. Nhất là
mỗi năm sắp đến kỳ nghỉ hè, đám
giáo viên lại nhận được giấy gọi
nhập ngũ, Sơn nhịn đói, thức khuya, uống
cà phê đen, đậm, hút thuốc lá liên tục
để xuống cân. Sau một tháng, Sơn rạc
hẵn, trông rất tiều tụy. Thảm năo đến
tội nghiệp. Sơn chỉ c̣n ba mươi hai kư lô,
dưới "pi nhê" để đi lính. Ngược
lại với Sơn, chúng tôi ăn nhậu thả dàn cho thỏa
những ngày c̣n ung dung tự tại. Sợ chó ǵ! Đi lính
th́ đi! Thiên hạ đi lính chết cả à? Sống
chết phải có số chứ! Mới vừa đây thôi.
Việt Cộng pháo kích vào quận, một trái hỏa
tiển rơi nhằm nhà một cô giáo, trúng ngay chiếc
giường, ba mẹ con đang ngủ, chết tan xác. Ông
chồng nằm pḥng bên cạnh lại không hề hấn
ǵ. Chúng tôi cứ lập luận như vậy để
tự an ủi chứ ai cũng thừa biết rằng "Xưa
nay chinh chiến mấy ai về".
Ấy
vậy mà gần đến ngày tựu trường, chúng
tôi lại nhận được giấy hoăn dịch thêm
được một năm. Lại có cớ để
ăn mừng lớn. Nhậu một bữa quắc
chỉ cần câu. Lần này Sơn mới dám mạnh
dạn nhập cuộc. Lần lữa, chúng tôi thoát được
hai niên khóa. Đến niên khóa thứ ba, năm 1967, t́nh h́nh
chiến sự ngày càng ác liệt, tổn thất nhân
mạng trầm trọng, Bộ Quốc Pḥng vét một
mẻ lớn. Đui, què, mẻ, sứt phải nhập
ngũ ráo. Bộ Giáo Dục bó tay, không can thiệp
được nữa. Đến nước này, biện
pháp nhịn ăn để xuống cân, tăng độ
cận thị không c̣n hiệu quả nữa. Sơn
trốn lính. (Ông Liễu nói Sơn uống dấm là không
đúng)
Sơn
hút ống vố (pipe) thuốc Mỹ, pha trộn hai
loại Half & Half và No #79 thơm không chịu
được. Bên cạnh c̣n thêm Basto xanh. Thường
trực trong nhà phải có mấy lố. Sơn uống cà
phê đen pha bằng "phin" Inox, từng giọt,
từng giọt quánh như keo, rất ít đường.
Sơn chê chúng tôi uống cà phê như ăn chè. "Gần
mực th́ đen, gần đèn th́ sáng". Tôi đang hút
Pallmall. Thỉnh thoảng thay gu bằng Lucky Strike. Thấy
Sơn hút tẩu, tôi ghiền mùi No 79. Tôi cũng tập ṭ
hút ống vố, nhất là bắt chước cho
giống nghệ sĩ. (Ông Liễu cũng ngậm ống
vố) Một dịp về Sài G̣n du hí, tôi ṃ vào Eden, mua
đủ bộ lệ gồm một ví da ba ngăn,
một ngăn đựng ống vố, một ngăn
đựng thuốc, một ngăn đựng que thông ṇng
và con dao xếp đặc biệt ba lưỡi. Dao này dùng
nhồi thuốc, nạo tàn và xoi ṇng. Mấy ngày
đầu ráng tập ngậm, khổ sở vô cùng. Không
biết nước miếng ở đâu mà cứ tuôn ra ào
ào, chảy ṛng ṛng hai bên mép. Vừa lau xong, lại lau. C̣n
cái ống vố, có cảm tưởng nặng chừng
cả kư lô. Nó kéo tŕ cái môi và cái hàm dưới lệch
một bên làm khuôn mặt méo xẹo như người
mắc phong. Thôi! Bỏ! Tiếp theo, tôi bắt
chước để tóc dài bồng bềnh như mây khói.
Nhưng hởi ôi! Tóc râu tôi thuộc loại rễ tre. Càng
dài càng xỉa ra trông giống cái chổi xể. Soi
gương, thấy giống thằng ăn cướp.
Bộ tịch thầy giáo như vậy làm sao mà dạy
học tṛ. Tôi đành từ bỏ cái mộng làm dáng
nghệ sĩ.
Bản
tính Sơn hiền lành, điềm đạm, nói năng
nhỏ nhẹ. Không giống bọn tôi. Lúc nào cũng ào ào,
cười nói toe toét. Nhất là khi đă có vài ve vào th́
khỏi nói. Trái lại, Sơn trầm tĩnh, chỉ
ngồi cười. Rơ ràng đồng trang lứa mà Sơn
đă chững chạc hơn chúng tôi nhiều. Nhưng
Sơn hiền quá đến độ nhu nhược.
Gần như hèn.
Nhớ
lại hồi mới lên Bảo Lộc được vài
ngày, Sơn, Trương Khắc Nhượng và tôi kéo nhau
đi uống cà phê ở một cái quán cuối con dốc,
cạnh bờ hồ (Quên tên quán). Quán có cô chủ rất
xinh, nên mấy anh choai choai túc trực rất đông.
Trời mưa lâm râm. Mới hơn bảy giờ mà đă
tối mịt. Chúng tôi lựa một cái bàn trong góc tối
để dể ngắm nh́n cô chủ. Nhạc êm nhè
nhẹ, xập x́nh. Cà phê từng ngụm nóng hổi,
thơm phức. Vừa cảnh, vừa t́nh thật không ǵ
thú cho bằng.
Đang
khoan khoái thưởng thức cái thú cà phê, thuốc lá,
bỗng từ bàn phía bên kia, một cậu choai choai
độ 17 hay 18 tiến sang bàn chúng tôi, chỉ vào chàng
thư sinh Trương Khắc Nhượng, ra lệnh:
-
Mời anh ra ngoài sân cho tôi nói chuyện.
Tôi
đá vào chân Nhượng dưới gầm bàn, ra hiệu
đừng đi. Nhượng ú ớ:
- Tôi...
tôi đâu có quen anh?
Tên
kia sẵng giọng:
- Không
cần quen hay không! Anh có ra không th́ bảo?
Chúng
tôi tái mặt. Rơ ràng chúng muốn gây sự đây mà. Rơ ràng
ma cũ bắt nạt ma mới. Tôi đang nghĩ kế
thoát thân. Quán không có cửa hông. Cửa sau ăn ra bếp.
Phải chạy ṿng qua chỗ cát xê, cô chủ đang
ngồi, xuống bếp cũng kẹt vào đường
cùng. Ngơ trước th́ bọn nó cả chục đứa
đang án ngữ. Không chừng bọn nó có dao nữa.
Tiến thối lưỡng nan. Sơn bắt đầu
run lập cập. Nhượng nói hết ra hơi. Tôi
cố kéo dài thời gian t́m kế:
- Anh à!
Chúng tôi vừa mới lên đây có mấy ngày, có quen ai
đâu, đâu có chuyện ǵ để nói!
Hắn
vẫn sấn sổ:
- Tôi
không mời anh. Tôi muốn nói chuyện với thằng kia!
Nói
xong, nó quay sang Nhượng, nắm lấy tay anh
định lôi đi. Nhượng líu lưỡi:
- Ơ!
Không!... không!
Hai
bên đang dằng co, lôi kéo. Đột nhiên, như một
cảnh trong phim cao bồi, từ trong góc tối phía bên kia,
một thanh niên dong dỏng cao, vẻ đẹp trai thư
sinh, áo sơ mi trắng dài tay, xăn lửng, bỏ trong
quần, bước tới bàn chúng tôi, với giọng rơ
ràng, chắc nịch:
- Các anh
đừng sợ.
Quay
sang tên kia, anh gằn giọng:
-
Bọn mầy muốn ǵ th́ gặp tao đây!
Tên
kia bất ngờ hụt hẫng con mồi, bước
nhanh ra cửa, tay ngoắc, miệng chửi thề:
- Đ.
má! Mầy ngon hả? Ngon th́ ra đây!
Vị
cứu tinh chúng tôi săi ba bước tới cửa, hai tay
bám vào xà ngang, cùng lúc hai chân anh phóng một đạp như
trời giáng vào ngực tên kia nhanh như chớp. Trong lúc
không ngờ, tên kia ngă huỵch xuống đất, ôm ngực
la bài hăi vừa chửi thề luôn miệng. Đồng
bọn hơn chục đứa kéo ra vây chung quanh anh,
vừa vung tay, vừa ḥ hét:
-
Đánh chết mẹ nó đi! Chém chết cha nó đi!
Chúng
tôi rụng rời tay chân. Cứu tinh chúng tôi phen này chắc
phải bỏ mạng với chúng. Đám khách trong quán
ngồi im thin thít. Không một ai dám hó hé. Cô chủ quán
đến bàn chúng tôi hỏi thăm và an ủi:
-
Mấy anh có vẽ lạ, h́nh như mới tới đây
phải không? Cái đám du đăng này ở công trường
Nông Sơn trốn ra mấy bữa nay. Đêm nào chúng
cũng đến đây quậy phá mà không ai dám làm ǵ.
Cô
đưa mắt nh́n ra cửa lo lắng:
- Đêm
nay số xui tới phiên các anh và cả anh kia nữa.
Trong
lúc ấy, ngoài cửa tiếng ḥ hét, tiếng chửi
thề, càng lúc càng hung hăn. Chúng vây anh thanh niên vào giữa ṿng
tṛn, nhưng không tên nào dám xông vô tấn công.
Chợt
cô chủ quán la lên khe khẻ:
-
Trời! Chúng có dao!
Bây
giờ chúng tôi mới thấy rơ trong tay bọn chúng
đứa nào cũng lăm lăm con dao. Làm sao đây? Chúng
tôi nh́n nhau không biết phải làm cách nào để giúp
sức người ơn, đành trơ mắt ếch nh́n
anh một cách bất lực. Nhưng lạ thay, chàng thanh
niên vẫn b́nh tĩnh, tay chống nạnh sườn, nh́n
đám du đăng đang giương nanh, múa vuốt, không
một chút sợ sệt. Sau một lúc ḥ hét thị oai
để cướp tinh thần đối phương,
chúng hè nhau áp vô một lượt định tấn công
anh bằng đ̣n hội chợ. Nhưng nhanh hơn chúng
trước mấy giây đồng hồ, ba phát súng nổ
chát chúa vang lên trong đêm tối tĩnh mịch. Cả
bọn bỏ chạy tán loạn, té ḅ lê, ḅ càng. Vừa
chạy vừa la thất thanh:
- Nó có
súng! Nó có súng!
Th́
ra trong lúc chúng tôi lo lắng cho sự an nguy của anh, anh
rất b́nh tĩnh đối phó với chúng. Chờ cho
chúng thật sự tấn công, anh mới móc súng ra bắn
ba phát chỉ thiên thị uy, cốt hù dọa chúng mà thôi. Khi
mọi sự trở lại yên tĩnh, chúng tôi mời anh
vào quán để cám ơn và mời anh một chầu. Anh
vui vẻ ngồi vào bàn và tự giới thiệu:
- Tôi là
Triệu. Thiếu úy Triệu. Đại đội tôi
mới được tăng cường tới Bảo
Lộc sáng nay để bảo vệ an ninh quận.
Anh
quay sang hỏi thăm chúng tôi. Sau khi nghe chúng tôi lần
lượt giới thiệu và cho biết là đang dạy
học tại đây, cũng vừa mới tới
được mấy ngày. Anh à lên một tiếng và xoay
lưng ra phía sau, ngoắc tay một cái, lập tức có
hai anh khác đang ngồi nhâm nhi cà phê trong góc vội
chạy đến trông điệu bộ rất cung kính:
- Dạ
! Ông thầy! Ông thầy sai ǵ tụi em!
Triệu
nói:
- Hai anh
về lấy chiếc Dodge tới đây để
đưa mấy ông giáo về nhà cho an toàn!
Một
anh nói:
-
Khỏi cần hai người. Một ḿnh em về lấy
xe. Để thằng Xinh ở lại bảo vệ ông
Thầy.
Chúng
tôi lo ngại anh đi một ḿnh nên đồng thanh:
- Anh coi
chừng tụi nó trả thù.
Anh
ta nháy mắt cười với chúng tôi, tay vỗ vỗ
vào lưng và nói:
- Tui có
cái này, đố cha tụi nó dám!
Hóa ra, thiếu úy Triệu c̣n có hai vệ
sĩ đi kèm mà chưa cần phải ra tay. Ngoài hai
vệ sĩ to như hai ông hộ pháp ra c̣n có ba con chó
lửa nữa th́ tụi nhóc du đăng cả chục
đứa ăn nhằm ǵ. Chúng tôi kết bạn với
nhau từ đêm ấy. Hơn tháng sau, đại
đội Triệu hành quân đi nơi khác, gấp rút,
không kịp gặp nhau nói lời từ giă. (Không biết
vị ân nhân này, bây giờ c̣n hay mất, tôi không hề
gặp lại). Đêm đó, Sơn nằm kể cho tôi
nghe, thời gian ở Huế, anh làm huấn luyện viên
nhu đạo cho Sở Hiến Binh Thừa Thiên. Sau một
cơn bạo bệnh, anh quên hết các thế vơ. Tôi nghe mà
ḷng hoài nghi, thắc mắc. Tôi cũng có học đôi chút
về nhu đạo. Nhu đạo cốt lấy nhu
thắng cương. Dùng lực người làm lực ḿnh
để chiến đấu, rất ít hao nội lực.
Nếu v́ bệnh hay lư do nào khác th́ chỉ mất sức
khoẻ hay nội lực chứ làm sao mà quên hết các
thế vơ. Trừ khi mất trí nhớ. Nhưng thấy
Sơn trong lúc c̣n đang sợ về chuyện vừa
rồi, tôi không tiện hỏi lại. Sau đó cũng quên
luôn. Nay, lại nghe ông Trịnh Cung nhắc chuyện Sơn
tập nhu đạo với đứa em, bị cú choàng
vai, phải nằm viện, thành ra ốm yếu. Mối
nghi ngờ Sơn nói dối để tự che đậy
mặc cảm nhút nhát, hèn yếu của ḿnh lại vụt
trở về trong kư ức.
Lại
nhớ thêm một lần khác, năm 1962, lúc học ở
Qui Nhơn. Con trai B́nh Định rất ghét nam giáo sinh
Huế. V́ trai Huế mă ngoài trông rất bảnh và sang
trọng. Các em nữ sinh Qui Nhơn bỏ kép "lô can"
của ḿnh chạy theo "của ngoại". Hơn
nữa, Qui Nhơn lúc bấy giờ chỉ có trường
trung học Cường Để là lớn nhất,
nhưng chỉ có đến lớp đệ nhị mà
thôi. Học sinh Cường Để đồng phục
quần kaki xanh, áo sơ mi trắng "póp pờ lin Ba Trái
Đào", dép lốp bánh xe hơi làm sao địch
lại với giáo sinh Sư phạm quần Tergal đen, áo
sơ mi dài tay trắng Nyl France, cà vạt đen, đi
giầy da bóng lộn. Trông oai và bảnh chọe lắm. Ái
chà! C̣n cái ông thợ may tiệm may Thích nữa chứ!
Thật là tài! Không biết ông bắt được ở
đâu cái "tuy dô" rằng giáo sinh sẽ có món học
bổng 200 đồng. Ông liền điều đ́nh với
Ban Giám đốc trường cho ông thầu may mỗi giáo
sinh một bộ complet màu xám. Tiền sẽ trừ vào
cuối khóa. Thế là bỗng nhiên từ trên trời
rơi xuống, mỗi anh giáo sinh có một bộ
đồ lớn, diện vào mỗi chiều thứ
bảy, dung dăng dung dẻ với người
đẹp. Trông thiệt là oách! Nó chính là cái gai lớn trong
con mắt mấy anh con trai Qui Nhơn. Phải t́m cách
chơi lại mới đươc! Với chiến
thuật du kích, ŕnh ṃ trong các hẽm vắng, bất cứ
anh Sư phạm
nào
có âm giọng "chi, mô, răng, rứa" đều
bị đột kích. Trịnh Công Sơn là một trong
những nạn nhân đầu tiên. Anh bị tước
mất đôi kính cận. Tiếp mấy ngày sau, con
đường từ bệnh viện Nguyễn Huệ
đến trường, chỗ nào cũng bị chận
và khiêu khích đánh lộn. Đă có mấy vụ ẩu
đă. Dĩ nhiên, bị bất ngờ, phe ta ôm đầu
máu. Chuyện này náo động cả trường Sư
Phạm. Thanh Hải, cây đờn ghi ta số một, lên
xin phép thầy Hiệu Trưởng Đinh Thành
Chương cho lập toán đặc biệt để bài
trừ du đảng. Nhưng thầy không cho. Thầy
bảo: "Nhiệm vụ đó là của Cảnh Sát. Các
anh đến đây để học thành thầy giáo
chớ không phải để thành cảnh sát". Sau
đó, thầy liên hệ với chính quyền sở
tại, xin can thiệp. Sự việc kéo dài cả nửa
năm mới dứt. Riêng Trịnh Công Sơn, mất
đôi kính, trở thành anh mù bất đắc dĩ, không
đi học được. Bạn bè phải nhờ môi
giới trung gian liên lạc với tên đầu
đảng xin chuộc lại đôi kính. Vậy mà Sơn
lại kể với Trịnh Cung chuyện ḿnh luyện
Judo! Để làm ǵ?
Sau khi đại đội Triệu thuyên
chuyển đi nơi khác, Sơn không dám đi uống cà
phê tối nữa. Tôi ở nhà cuồng chân, buồn như
chấu cắn. Mà đi một ḿnh không có Sơn th́ không
vui. Một hôm, tôi cố rủ Sơn cho bằng
được và cam đoan bảo đảm an ninh cho anh.
Sơn không mấy tin tưởng v́ tôi nhỏ con hơn
anh. Sơn ḍ xét:
- Ông
lấy cái ǵ bảo vệ tôi?
Tôi
vỗ vào bụng và nói:
- Cái này
bảo vệ cho ông và cho tôi!
Sơn
cười ré lên. Đang nằm dài trên
"đi-văng", Sơn nhổm dậy tới sờ
vào bụng tôi, vừa cười vừa nói:
-
Để coi mấy con lăi trong bụng ông to cỡ nào mà
bảo vệ được tôi?
Nhưng
Sơn vội rụt tay lại và nín bặt. Hai mắt tṛn
xoe đầy ngạc nhiên nh́n tôi thắc mắc. Giọng
tôi nghiêm chỉnh lập lại:
-
Được chưa?
Sơn
vẫn đầy nghi ngờ:
- Ông
lấy ra cho tôi coi nó là cái ǵ vậy?
Tôi tḥ tay vào áo, lôi ra một sợi dây
điện, loại dây đôi, mềm, dài một
thước rưỡi. Sơn lại càng thắc mắc:
- Ông
đem dây điện theo dùng làm ǵ?
Tôi
phải giảng giải sơ lược về công
dụng của nó thay thế chiếc trường côn,
tiện dụng mang theo bên ḿnh, pḥng khi hữu sự.
Sơn ṭ ṃ:
- Tôi
chưa nghe thấy bao giờ. Ông có thể kể cho tôi nghe
học ở đâu và biểu diễn vài đường
cho tôi coi được không?
Để
cho Sơn hoàn toàn yên tâm, tôi lôi Sơn ra sân xem tôi đi vài
đường lă lướt. Sợi dây điện lúc này
theo sức từ trong tay tôi vung ra đă biến thành
chiếc trường côn, quay tít trong không khí phát ra tiếng
vù vù. Tôi chỉ biểu diễn vài đường trong bài
"Thế roi tàng sư" rồi dừng lại. Sơn
vỗ tay khen hay. Lúc này Sơn mới chịu mặc
quần áo đi với tôi. Suốt buổi tối cà phê
đó, Sơn bắt tôi kể chuyện học vơ. Tôi
chỉ kể đại lược thôi, chứ kể
hết th́ dài ḍng lắm. Sơn cười khoái chí
những đoạn tôi đứng tấn cho tàn cây nhang,
hai chân mơi ră rời, té chỏng gọng. Hoặc tôi không
chịu học các môn đao, thương, kiếm, kích mà
chỉ yêu câu thầy dạy cho môn chạy trốn trong
"tam thập lục kế, đào tẩu vi
thượng sách."
Trịnh
Công Sơn Con Người Tài Hoa Nhiều Mặt
Ngoài
tài năng âm nhạc, Sơn c̣n nhiều tài khác nữa. Môn
nào cũng xuất sắc hết. Nhảy đầm
rất bay bướm. Đánh bi da hết xẩy. X́ phé
khỏi chê. Trừ cái món kia...
Nhảy
đầm.
Cuối
năm 1964, Tỉnh cho xây cất cạnh bờ hồ
một công tŕnh tân kỳ đặt tên là "Câu lạc
bộ Lâm Đồng" dành cho quân, cán chánh trong tỉnh
giải trí. Câu lạc bộ có hai tầng. Tầng
dưới đặt mấy bàn bi da. Tầng trên bán cà phê
và đồ nhậu. Mỗi buổi chiều, tắt
nắng, chúng tôi kéo nhau lên CLB nhâm nhi cà phê, nh́n ra mặt
hồ. Nhà thủy tạ giữa hồ được
nối liền vào bờ bằng một chiếc cầu
gỗ, dáng cong cong h́nh cầu ṿng, sơn toàn màu đỏ,
ẩn hiện giữa làn sương đục,
đẹp như bức tranh thủy mạc. Chúng tôi
cứ tưởng chừng như ngồi trên lầu Hoàng
Hạc. Thật ra chưa ai biết Hoàng Hạc lâu tṛn méo
ra sao. Nhất là những chiều mưa lâm râm, lất
phất. Khí trời lành lạnh, se se, kéo cao cổ áo
măng tô, ngồi trên lầu, nh́n về phía hồ xa xa,
nhớ người yêu mà ư ử hát: "Chiều này c̣n
mưa sao em không lại! Nhỡ mai trong cơn đau vùi, làm
sao có nhau! Hằn lên nỗi đau. Bước chân xin em
về mau... " Hoặc: "Chiều một ḿnh qua
phố, âm thầm nhớ, nhớ tên em..." th́ từng
lời, từng lời thấm không chịu
được. Nhạc của Sơn phải hát đúng
trong khung cảnh ấy mới hay, mới cảm hết
cái hồn của lời, của nhạc.
Người
quản lư CLB cho hay, Tỉnh dự định sẽ làm
lễ khánh thành CLB trước Tết dương lịch.
Ngày đó Tỉnh sẽ mướn một số ca ve
ở Sài G̣n lên, sẽ có dạ vũ tưng bừng.
Đích thân đại tá Tỉnh trưởng khai
"bal". Nghe tin, anh nào cũng ạo ực. Nhưng nh́n
lại toàn một đám nhà quê. Anh nào cũng chỉ
biết nhảy ḷ c̣. Trừ chàng họ Trịnh trúng mánh.
Thế là cả bọn xúm lại đ̣i Sơn dạy
nhảy. Thời gian c̣n hơn tháng, làm sao học cho
kịp. Phải gấp lên mới được. Căn
pḥng tôi và Sơn ở trở thành sàn nhảy. Nhưng
đám học tṛ láu cá, muốn trắc nghiệm tài
nghệ ông thầy trước mới học sau. Sơn
phải biểu diễn vài đường bay bướm.
Anh mượn chiếc ghế đẩu giả làm
đào, khai "bal" bằng điệu Paso dồn
dập. Miệng đánh nhịp, chân bước tới
lui, nhịp nhàng, uyển chuyển. Từ Paso anh chuyển
sang Cha Cha Cha, rồi Be bop, rồi Tango, quay cuồng với
điệu Valse, trở về với Bolero và cuối cùng
đứng yên một chổ, lắc lư thân h́nh, nghiêng
qua, ngă lại theo nhịp miệng Chắc... x́nh!
Chắc... x́nh! của điệu Slow. Tất cả
đều công nhận Sơn nhảy đẹp. Với
đôi chân dài, Sơn nhảy Tango rất tuyệt. Thấy
Sơn nhảy anh nào cũng ham. Nhưng nh́n lại ḿnh,
thấy thân h́nh ồ dề, thô cứng, nặng nề
như trâu nước, anh nào cũng lắc đầu ngao
ngán.
- Ông
Sơn ơi! Tụi này mà học nhảy được
như ông chắt phải tới tết Công Gô, tết Ma
Rốc!
Sơn
cười cười:
-
Mấy cha tưởng dễ ăn hả! Hết bao nhiêu
cơm gạo ở vũ trường rồi đó!
Rồi
Sơn trấn an chúng tôi:
- Mà không
sao! Mấy ông chỉ cần học một điệu Slow
là đủ rồi. Điệu này rất dễ. Nhưng
nhảy cho hay lại rất khó.
Để
trấn an và gây thêm tin tưởng cho chúng tôi, anh kể
chuyện một anh Tây già ở Sài G̣n, đêm nào cũng có
mặt ở vũ trường. Sơn kể:
- Tôi
hồi đó mới học nhảy nên cũng mê lắm.
Nhưng học sinh làm ǵ có tiền. Thỉnh thoảng
mới tới dancing, lần nào cũng gặp anh Tây già này.
Anh Tây này cao lớn, có cái bụng phệ rất bự, dáng
nặng nề nên không nhảy được các
điệu khác, chỉ nhảy mỗi một điệu
Slow. Anh ta ôm em nào cũng không hết ṿng lưng v́ bị
cản bởi cái bụng. Anh ta cứ ôm riết em ca ve,
đứng yên một chổ. Hễ nghe tiếng bass
đánh x́nh một cái, anh ta lắc nghiêng người
một cái. Cứ thế cho đến cuối bản
nhạc. Có điều đặc biệt đáng tức
cười ở đây là mỗi lần đến
đoạn nhạc du dương, đắc ư, anh ta th́nh
ĺnh buông em ra, bước lui một bước, tay phải
nắm lại, đấm vào ḷng bàn tay trái đánh bộp
một tiếng, miệng khen bằng tiếng Việt
"Hay...x́" rồi bước tới ôm em lắc
lư như cũ.
Sơn
vừa kể, vừa làm điệu bộ khiến chúng
tôi cười rũ ra. Lối kể chuyện của
Sơn rất có duyên và hấp dẫn. Sau mấy ngày
tập dượt ráo riết, chúng tôi cũng thuần
thục như anh Tây già. Chúng tôi náo nức trông cho mau
đến ngày khánh thành để được ôm mấy
em và trổ tài. Nhưng gần những ngày cuối năm
Việt Cộng ăn Tết sớm, rót hỏa tiễn
liên tục vào hai quận Di Linh và Bảo Lộc thay pháo,
chương tŕnh vui chơi phải hủy bỏ. Bài
học "Chát...x́nh" không có cơ hội đem ra
ứng dụng.
Bida
Thường
trực ở bàn bi da, bọn chúng tôi gồm năm
đứa. Sơn, Tâm mập (tức Nguyễn Hảo Tâm
phân biệt với Tâm lùn tức Nguyễn Văn Tâm),
Nguyễn Đức Tín, Ngô Thanh Bạch và tôi. Chia thành hai
phe, trường kỳ quyết đấu. Sơn và Tâm mập
một phe. Tín và Bạch một phe. Tôi bị cho ra ŕa v́
đánh quá dở. Không bao giờ đi một
"cơ" được ba điểm. Tôi
được hội đồng phong cho chức trọng
tài, lănh nhiệm vụ đứng ghi điểm và phân
xử những vụ ăn gian. Cuối cùng là ăn ké khi
kết thúc màn quyết đấu. Đứng ngoài mới
thấy rơ phong cách của từng người chơi. Tâm
mập có dáng xấu nhất v́ cái bụng phệ phát
triễn quá sớm ở cái tuổi hai mươi bốn.
Anh phải đứng dạng chân chàng hăng để cho cái
bụng thấp xuống khỏi cấn thành bàn. Tay trái
đặt trên mặt bàn, ngón tay trỏ cong lại như
cái móc câu để giữ đầu "cơ",
chứ không chịu hợp với ngón tay cái thành ṿng tṛn
như mọi người. Ngô Thanh Bạch to con, cao
bằng Sơn, đứng phải rùn chân xuống. Mỗi
lần chuẩn bị thụt một quả, anh nhắm
tới, nhắm lui, lưỡi thè ra khỏi miệng,
quẹo qua bên trái, hai hàm răng cắn chặt. Tôi cứ
có cảm giác mỗi lần anh thụt trái banh là mỗi
lần đứt lưỡi. Nhất là những cú
"đề trô" lại càng toát mồ hôi lạnh.
Nguyễn Đức Tín đặc biệt có khuôn mặt
tṛn, trắng trẻo như cô Thúy Vân. Mỗi lần đi
những đường cơ lắc léo, "ép phê c̣ng
tre", anh mắm môi, bặm miệng, hai con mắt ốc
nhồi mở ra hết cở. Trán anh nhướng lên thành
bốn lằn xếp. Anh liếm môi vài cái trước khi
thụt một đường banh quyết tử.
Trước khi thụt, mặt anh tái ngắt. Thụt xong,
mặt lại đỏ như gấc, trước khi
trở lại b́nh thường. Riêng Sơn, tôi thích
ngắm nh́n cái dáng của anh nhất. Người dong dơng,
hai chân dài, anh đứng thẳng người, hai chân
chụm lại, cúi xuống mặt bàn tạo thành một
h́nh thước ở thắc lưng. Anh đặt tay trái
xuống mặt bàn, hai ngón út và đeo nhẫn xoè ra h́nh
rẽ quạt tựa xuống mặt nỉ, ngón giữa
đỡ ngón cái và ngón trỏ đan hợp nhau thành
một ṿng tṛn, ôm khít khao đầu ngọn cơ.
Trước khi quyết định một
đường banh, anh chăm chú nh́n ba trái bi, tay cầm
cục "lơ" miết miết trên đầu
"cơ". Khi anh bỏ cục "lơ" xuống
thành bàn là đường "cơ" đă quyết
định. Anh đánh thong thả, nhẹ nhàng, xoay quanh
bốn cạnh bàn một cách khoan thai, từ tốn, không
một chút phí sức. Tối thiểu một
đường cơ của anh phải từ năm
điểm trở lên. Tuy nhiên, có bữa phe anh cũng thua
tơi bời hoa lá. Anh không thể nào cứu nổi
bồ, khi Tâm mập chơi bết bát quá. Trong khi hai tay
Bạch và Tín ngang sức, ngang tài. Chúng tôi chơi giải
trí không ăn tiền. Cá độ bằng những
chầu cà phê, bữa cơm trưa hoặc chầu bia tùy
theo giờ giấc sáng, trưa, chiều và có lúc cả
buổi tối nữa.
Những
ngày cuối tháng lănh lương, càng đông, càng vui
nhộn. Chúng tôi có thêm Nguyễn Văn Chất, Vơ Đôn
Thao biệt danh "Sư phụ" từ cầu
Đại Nga, giáp ranh với Tuyên Đức về. Di Linh
có Nguyễn Văn Hiện và Lâm Văn Rầm. Lại có
thêm lính mới ṭ te Đỗ Danh Đạo hổn danh
Đạo Sữa. Ngoài ra c̣n có những bạn nhà binh.
Những sĩ quan trẻ tuổi trạc chúng tôi, nhưng
"xếp bút nghiên theo việc đao cung" sớm.
Đó là những anh Vĩnh, Ngự, Tinh đều cùng
cấp bậc thiếu úy. Chỉ có anh Thành là trung úy, chi khu
phó, đă có vợ và một con. C̣n toàn là đám độc
thân vui tính. Ông trùm Lăng không có tên trong bảng "phong
thần" v́ năm giờ chiều là ông đă trùm
mền, xoa dầu Nhị Thiên Đường rồi.
X́ phé -
Xập xám
Mỗi
thứ sáu đầu tháng, pḥng chúng tôi trở thành ṣng
bạc. Nhà hai anh Lăng và Đạo thành nhà chứa. Đám
bạn từ các nơi về tụ lại nhà tôi chơi
bạc xong, kéo về nhà Lăng, Đạo ngủ. Đánh
bạc th́ tôi mù tịt. Tôi không có khiếu về môn này. Sau,
cố học lắm, mới biết chơi tứ
sắc. Nhưng lên rác, xuống rác, trôi rác, khui, quằn,
đếm lệnh chẵn, lẻ, tới trơn, tới
quan th́ rắc rối quá. Tôi chỉ thích đánh
"bấc" của người Bắc. Môn này vui và
hấp dẫn hơn bài cào. Nó hay ở chỗ là bài cùng
điểm mà lại ăn nhau ở hàng thập, hàng
vạn, hàng văn, hàng sách. Nhưng đám nhà nghề như
Sơn, Hiện, Rầm, Bạch, Thao, Tín... đều chê.
Đó là dành cho dân nhà quê. C̣n dân chơi th́ chỉ xập xám
hoặc x́ phé mới đúng điệu. Sau khi lănh
lương, buổi sáng, ăn nhậu, bi da, cà phê đă
đời, anh nào không có máu đen đỏ th́ về nhà
Lăng ngủ. Phần c̣n lại về pḥng chúng tôi gầy
ṣng. Sơn một tay chấp hết. Anh trụ từ
đầu hôm cho đến sáng, người vẫn
khoẻ. Nói theo kiểu Kim Dung, sắc mặt không thay
đổi, hơi thở vẫn điều ḥa. Nghĩa là
có những anh, nửa đêm mệt quá phải ngă lưng,
kḥ một chút. Anh khác thay tay. Sơn vẫn ngồi một
chỗ, thuốc lá liên tục; cà phê hết ly này
đến ly khác; không đi tiểu, mới lạ. Cứ
trung b́nh mười ván là Sơn vơ làng hết bảy,
tám. Thua quá, những lần sau, Tín cạch. Tín chấp hai
tay làm bộ xá xá:
- Ông
Sơn ơi là ông Sơn ơi! Tiền lương em
đây! Ông cứ lấy mà xài. Đừng "rê" em vào
ṣng nữa. Bàn tay ông có ma, ghê thấy mẹ. Em sợ
lắm!
Nói
xong, Tín cười hềnh hệch, đổi giọng:
- Bố
bảo em cũng chả dám chơi với ông! Ghê thấy
mẹ!
Có
lần tôi hỏi Sơn:
- Này, ông
học nghề ở đâu vậy. Có chơi lận không?
Sơn
nói cho tôi biết bí quyết đánh bạc:
- Chẳng có gian lận ǵ hết!
Chẳng qua mấy cha ấy cứ đưa bài cho tôi coi,
tôi mới thắng được dễ dàng mà thôi.
Tôi
không tin, vặn lại:
- Ông
lại xạo rồi! Có ai đánh bài mà lại đưa
bài ḿnh cho người khác coi bao giờ?
Sơn
thích thú giảng nghĩa:
-
Tôi nói đưa bài có nghĩa là họ đưa cái mặt
họ cho tôi biết. Nước bài của họ hiện
lên nét mặt hết. Tại ông không ở trong nghề nên
không biết, không chú ư theo dơi. Ông chỉ nh́n xuống
chiếu, ngó quân bài thôi. Phải không nào?
Tôi
phải công nhận Sơn nói đúng. Tôi chỉ nh́n
những cây bài đánh xuống hoặc những chi bài binh
xong xoè ra mà thôi. Sơn nói tiếp:
-
Những tay cao thủ đánh bạc họ rất trầm
tính. Không bao giờ để lộ cảm xúc trên nét
mặt cho đối thủ biết. Ngược lại,
đôi mắt họ rất sắc. Họ kín đáo quan sát
đối phương để đoán từng
nước bài mà tùy cơ ứng phó. Trong khi đó, ông
ngẫm lại coi! Mất tay Thao, Tín, Hiện, Rầm,
hễ bài tốt th́ cười nói rầm rĩ. Bài xấu
th́ xịu mặt xuống, chửi thề ỏm tỏi
th́ làm sao mà tôi không biết.
Tôi
phải phục lăn kinh nghiệm của Sơn. Một
chân lư không căi vào đâu được. Dẫu bên này hay bên
kia chân núi Pyrhéné.
Tuy
nhiên hay không bằng hên. Sự đời có những cái
trớ trêu, tréo cẳng ngỗng, không ai có thể ngờ
hết được. Sơn đă đại bại
trước Phạm Quang Chữ, một tay mơ mới
tập chơi. Anh Chữ, chân chỉ hạt bột, ngoài
giờ dạy học là về phụ với vợ trong
việc mua bán. Vợ anh có gian hàng bán quần áo trong
chợ. Chị vợ ngồi thu tiền. Anh chạy ṿng
ngoài, gom hàng, giao hàng, tất bật suốt ngày. Anh ít giao
thiệp với bạn đồng nghiệp v́ mặc
cảm với căn bệnh nan y của anh: bệnh cùi.
Chỉ là đồn đoán thôi. Anh vẫn béo tốt, da dẽ
hồng hào. Duy chỉ có hai bàn tay là hơi lạ. Bắp
thịt hổ khẩu giữa ngón tay cái và ngón trỏ
mất hẳn. Những ngón khác co rút lại, cầm
đồ vật rất khó khăn. Người ta
đồn anh nhờ uống vàng hàng tháng nên mới cầm
giữ được không cho bệnh phát ra ngoài.
Trước
khi bọn trẻ chúng tôi được bổ nhiệm
tới, Ty Tiểu Học Lâm Đồng ở trong t́nh
trạng buồn tẻ. Chúng tôi đă đem lại một
nguồn sinh lực mới cho Ty. Với phương pháp
giáo dục mới và tinh thần trẻ trung đă thay
đổi hẵn cái không khí đều đều,
buồn tẻ bao nhiêu năm nay ở cái xứ cao nguyên này.
Phạm Quang Chữ là người đầu tiên bứt ra
khỏi cái ao tù nước đọng đó. Về sau, c̣n
có thêm nhiều người nữa tham gia vào cái không khí vui
nhộn, cởi mở, phóng khoáng của chúng tôi. Trong đó
có cả cụ Trạch, hiệu trưởng
trường Nam Bảo Lộc, sắp hồi hưu. Ông
Lợi Ty trưởng, rất văn nghệ, chịu
chơi. Nhiều lần xắn tay áo cùng đám trẻ
"hạ cờ tay", vừa nhậu, vừa đánh
bạc.
Trở
lại chuyện Phạm Quang Chữ đại thắng
Trịnh Công Sơn.
Bài
của Chữ đỏ từ đầu đến
cuối. Hai tay cầm bài ḷng kḥng, lèo khoèo, rớt lên,
rớt xuống, binh tầm bậy, tầm bạ mà
vẫn cứ thắng. Chuyển sang tứ sắc. Mới
đánh vài cây anh đă "tới" mà lại tới
quan, khui, quằn tùm lum. Đêm đó anh hốt trọn. Anh
nào cũng nhẵn túi. Nguyễn Đức Tín nổi khùng,
chửi thề:
-
Địt mẹ! Đúng là thánh nhân đăi kẻ khù
khờ. Mèo mù vớ cá rán. Ông bà ta bạc tóc mới nói ra
được điều ǵ th́ trúng phóc điều đó,
không sai một ly ông cụ.
Quay
sang Sơn, Tín thọc cù léc:
-
Chỉ có bàn tay ông cùi mới trị được ông bàn
tay ma!
Nói
xong, Tín cười hắc hắc một thôi. Quả thật,
đêm đó, Trịnh Công Sơn không c̣n một xu dính túi.
Cái
khoản kia...
"...
Em Pleiku má đỏ môi hồng...Ở đây mùa đông...đi
dăm phút đă về chốn cũ." Cái ông
nhà thơ nào đó đă tả cái xứ cao nguyên rất
đúng. Thật vậy! Cái phố quận Bảo Lộc
gom lại bằng bàn tay ở một đoạn phố
ngắn. Hầu hết cư dân đều sống
biệt lập trong các xứ đạo hoặc trong
những "phẹt". Danh từ "phẹt"
lần đầu nghe lạ tai và buồn cười. Tôi
cứ có ư nghĩ thô tục khi thấy những chiếc xe
Lam chở khách, hai bên hông kẻ hàng chữ chỉ tuyến
đường "Bờ Lao-Phẹt." Măi về sau, có
dịp đến phẹt mới biết đó là
"Ferme", trang trại của người Pháp có
đồn điền trà và cà phê tại đây. Mấy ông
trong xứ Tân Thanh, Tân Phát phiên âm thành tiếng Việt là
Phẹt.
Cái
phố quận quá nhỏ, đến nỗi có
người ví von, con chó cũng nằm không đủ
chỗ phải ló cái đuôi ra bên ngoài. Cho nên mấy ông giáo
đi đâu cũng đụng hoc tṛ của ḿnh. Học
tṛ ở đây đi học rất trễ. Có đứa
cao tồng ngồng bằng thầy. Do đó, muốn
giữ cái vỏ mô phạm luôn luôn sáng như trăng
rằm để làm gương soi cho học tṛ, chúng tôi,
mỗi tháng phải kéo nhau lên tận Đà Lạt, thác Gu
gha, để du hí. Ở đây, ngoài phong cảnh thơ
mộng, hửu t́nh, c̣n có những em Thái trắng, Thái đỏ
chuyên phục vụ cái khoản... thứ ba. Nghe nói các em có
nhiều kiểu lạ hơn người Kinh. Cả
bọn chúng tôi về cái khoản... đó, đều
"thường thường bậc trung". Chỉ có
Vơ Đôn Thao là được vơ lâm tôn lên hàng Sư phụ.
Đă không mất tiền cho em mà c̣n được em bao
ngược. Tha hồ cơm no, ḅ cưỡi.
Ngón
nghề này, anh nào cũng theo xin bí kíp. Vơ Đôn Thao ngoài
khả năng "Yêu em thật sâu...Yêu em dài lâu...", anh
c̣n có tài "xúc cốt" đánh lừa Hội
Đồng Y Khoa để được miễn dịch
vĩnh viễn. Xúc cốt, theo Kim Dung, ông tổ nói phét trong
truyện chưởng th́ đó là môn vơ công luyện
được phép làm cho thân ḿnh biến dạng, hoặc
nhỏ lại, xương cốt co lại như
đứa trẻ. Ở đây, Thao chỉ cần bẻ
quặt chân phải ḿnh qua một bên, đi lặt ĺa,
hệt như người què. Anh biểu diễn cho chúng
tôi coi. Lại được một phen cười vỡ
bụng. Nhờ vậy anh khỏi đi lính. Nhưng
đây chỉ là chuyện nhỏ. Quan trọng là bí kíp
"Nhất dương chỉ" chúng tôi ai cũng
muốn theo thọ giáo. Đứng đầu là Trịnh
Công Sơn. Công lực của anh rất kém. Theo Thao, đây
là cơ duyên, trời cho ai nấy hưởng, không
phải ai muốn luyện cũng được.
Anh
kể lại cái cơ duyên của ḿnh:
- Lúc tôi
mới mười hai tuổi, học lớp Nhất
ở Tuy Ḥa, Phú Yên, bỗng dưng mắc một chứng
bệnh kỳ lạ. Người cứ xanh mướt,
ngày càng gầy ốm. Cha mẹ tôi hết ḷng chạy
chữa đủ thứ thuốc vẫn không thuyên
giảm. Sau có ông thầy Tàu thuốc Bắc bắt
mạch, chẩn bệnh quả quyết rằng tôi mắt
bệnh hượt tinh. Thầy giảng giải cho cha tôi
rơ về căn bệnh này là tuổi thanh niên thường
vướng phải ba thứ tinh. Thông thường là
mộng tinh. Trai đang sung sức, ban ngày thấy gái
đẹp, đêm mơ tưởng giao hợp mà xuất
tinh. Ví như b́nh đầy mà tràn. Không có hại.
Cưới vợ là hết. Thứ hai, không nằm mơ
mà vẫn xuất tinh, ấy là di tinh, giống như cái
b́nh nghiêng, nước đổ. Cũng không hại
lắm. Phương thuốc hiệu nghiệm để
chửa là cưới vợ. C̣n cái này, ông thầy Tàu
chỉ tôi, gọi là hượt tinh, tức giống
như cái b́nh lũng đít, chảy ngày, chảy đêm cho
đến chết. Bệnh này gây ra do thần kinh quá
yếu hoặc chơi bời quá độ mà thành.
Cha
tôi nghe tới đó, trợn mắt:
-
Thầy nói sao? Thằng con tôi mới mười hai
tuổi mà thầy nói nó chơi bời quá độ?
Ông
thầy Tàu biết ḿnh bị hớ, nói chữa:
- A! Cái
này tôi nói theo sách vở mà! Nhưng ông đừng có lo. Tôi
cho mấy hộp "Tam tinh Hải cẩu bổ thận
hoàn", cháu nó uống một tháng là hết bệnh.
Cả
chục hộp, viên nào cũng to như ngón cẳng cái, tôi
cố trợn trạo nuốt. Thuốc hết mà bệnh
cứ y như cũ. Nghĩa là mỗi lần có chuyện
ǵ xúc động bất ngờ hoặc hồi hộp, lo
âu th́ đũng quần tôi ướt đẫm. Ví dụ
làm bài thi, gần hết giờ, bài vẫn chưa xong th́
bị. Th́nh ĺnh ai vỗ vai hù một tiếng cũng
bị. Tiếp tục uống Tam Tinh Hải cẩu cả
năm, người tôi cứ rạc dần, đi đứng
hết nỗi. Cha tôi phải mang tôi vào nhà thương
Grall, Sài G̣n xin chữa. Ở đó bác sĩ Tây, họ tiêm
vào đầu tôi cây kim dài cả gang tay để chữa.
Tôi nằm ở đó gần sáu tháng th́ bệnh dứt
hẵn. Cha tôi tốn rất nhiều tiền nhưng
cứu được thằng quí tử ông rất mừng.
Đến năm mười tám tuổi, đi chơi gái
lần đầu, tôi t́nh cờ phát hiện ra ḿnh có
khả năng kỳ diệu đó. Tôi có thể kiểm
soát và điều khiển thằng "em tôi" theo ư
muốn. Muốn tấn, thối, hoăn binh hoặc
trường kỳ kháng chiến bao lâu cũng
được. Bởi vậy, anh em trong vơ lâm mới bái
tôi là Sư phụ.
Nghe
xong, chúng tôi đều thất vọng. Ngàn năm mới
có cơ duyên một lần. Đâu đă đến phiên
ḿnh!
Mỗi
lần lên Gu Gha, chúng tôi kêu bia uống vài chai cho nóng máy, thong
thả ngắm các em Thái lượn qua, lượn lại
để chọn th́ Sơn lúc nào cũng t́nh nguyện làm
người lính xung kích đầu tiên. Đánh nhanh, rút
nhanh. Đó là phương pháp chiến đấu của
Sơn. Có lần chúng tôi chưa uống hết chai bia,
Sơn đă tàn cuộc chiến, mặt mũi bơ
phờ, trở về hậu cứ.
-
Thật phí đồng tiền, bát gạo! Tín phê b́nh.
Đến
lượt Thao trổ tài. Quả thật lời
đồn không sai. Chúng tôi cà kê đến chai thứ tư
th́ Thao đang hùng dũng trên đường chiến
thắng trở về mang theo một tù binh: Một em Thái
trắng (đồ mạo hóa) cũng Xà rông, cũng ṿng
cườm đeo tứ tung, nhưng chỉ nói
được ba tiếng "bắt cái nước".
Đó là tiếng Thượng, có nghĩa "ấy
em". C̣n th́ nói rặc tiếng Việt. Hóa ra, em từ
sông Mao, Phan Thiết lên đổi vùng. Bà chủ bắt
mạch biết khách yêu hoa hay ham của lạ, đặc
sản, nên treo đầu dê, bán thịt chó. Bà bắt
mấy em thay đổi xiêm y, đeo ṿng, giả làm sơn
nữ Phà Ca câu khách.
Dần
dà, thời gian sau, Sơn không tháp tùng với chúng tôi
nữa. Cố "nài hoa, ép liễu" đến
mấy, Sơn cũng t́m cớ thối thác. Khi th́ lư do này,
khi th́ lư do nọ. Ngô Thanh Bạch phán một câu chắc
nịch:
- Bây
giờ ông Sơn có chị Năm rồi. Ổng đang
hợp tác với hăng súc ve chai!
Tập
vẽ
Đến
bây giờ, tôi mới biết Sơn c̣n kiêm thêm tài hội
họa và đă nhiều lần cùng các ông Đinh
Cường, Trịnh Cung đem tranh đi triễn lăm
khắp nơi. Lúc bấy giờ, Sơn chỉ ngồi hí
hoáy vẽ theo mấy cái h́nh thiếu nữ mặt
nhọn, một mắt. Người ốm tong, dài thọng.
Hai bàn tay thường kẹp giữa đùi. H́nh nào cũng
mờ mờ, không rơ nét. Sơn vẽ theo những h́nh b́a
cuả Đinh Cường. Tôi không có óc thẩm mỹ và
"i tờ rít" về hội họa nên thường
phá đám Sơn trong lúc vẽ:
- Ông
Sơn nè! Ví dụ như người con gái ông vẽ lâu
nay, th́nh ĺnh hiện ra như trong chuyện Bích Câu kỳ
ngộ, th́ ông có lấy làm vợ không?
Sơn
đang chăm chú gôm đi vẽ lại, nghe tôi hỏi
thế, ngẫn ra mấy giây mới đáp:
- Sao ông
lại thô tục thế! Người đẹp trong tranh
phải có cái khác người thật ngoài đời
chứ. Nếu cứ phải cho giống th́ chụp h́nh là
dễ nhất. Mà đă thế th́ c̣n đâu là nghệ
thuật.
Tôi
làm như hiểu ra thế nào là nghệ thuật bèn à lên
một tiếng:
-
Vậy nghệ thuật, nhất là về hội họa là
phải vẻ làm sao cho khác với sự thật, lạ
hơn sự thật, càng quái dị càng hay, đến lúc
người xem không thể nào hiểu được
bức tranh ông họa sĩ vẽ cái ǵ, th́ lúc đó ông
họa sĩ mới thực có tài và nổi tiếng?
Nghe
tôi dài ḍng cái sự "mới hiểu ra" nghệ
thuật, Sơn gật gù:
- Gần
gần như vậy!
-
Thế th́ tôi cũng sẽ nổi tiếng! Tôi sẽ
vẽ tranh trừu tượng! Tôi hớn hở khoe.
Sơn
trợn mắt nh́n tôi:
-
Thiệt không cha? Cha mà cũng biết vẽ tranh trừu
tượng? Vẽ thử tôi coi!
Tôi
cười thầm trong bụng, v́ Sơn bị tôi
gạt:
- Dễ
thôi! Tôi sẽ treo một khung tranh trống không. Nếu có
ai hỏi, tôi sẽ nói: Đó là bức tranh tôi vẽ
đàn ḅ đang ăn cỏ theo phái trừu tượng.
Nếu c̣n thắc mắc: Đàn ḅ đâu? Tôi sẽ nói:
Đàn ḅ ăn hết cỏ rồi, nó đi chỗ khác,
chớ c̣n đứng đó làm chi!
Đến
đây, Sơn chợt hiểu, cười phá lên, hỏi
tôi:
- Ông
đào ở đâu ra những chuyện tiếu như
vậy?
-
Thiếu khối ǵ! Cứ hỏi ông Đặng Trần
Huân khắc biết.
Sơn
không biết ông Huân là ai!
Xem Tiep….