1.
Năm 1954, khi vết dao chém đứt ngang ḿnh đất nước c̣n đang đổ máu, tổ quốc
của chúng ta bị chia thành hai miền thù hận, và toàn thể dân tộc bị đẩy vào
thế một mất một c̣n. Trong bối cảnh lịch sử đó hầu như miền Nam của những
người Việt Nam không cộng sản, dưới sự cai trị không mấy sáng suốt của Đệ nhất
Cộng ḥa, có một nhăn quan thiếu nghiêm chỉnh với mọi sinh hoạt của miền Bắc,
phóng ra hết đợt “Tố cộng” này đến đợt khác, bất cứ cái ǵ khởi đi từ miền Bắc
đều không đáng quan tâm, đều bị bịt kín. Thậm chí quay lưng lại với những sai
lầm độc ác của chính quyền miền Bắc trong các đợt cải cách ruộng đất, đấu tố
địa chủ, tiêu diệt cường hào diễn ra trên đất Bắc.
Lẽ ra miền Nam phải hỗ trợ cho các cuộc tranh đấu của những người cầm bút bên
kia vĩ tuyến 17, khi những người này gióng lên tiếng nói bất khuất của họ ngay
từ năm 1956, trong một số sách báo xuất bản vào thời điểm này. Măi cho tới năm
1959, khi những nhà văn đích thực của miền Bắc đă bị chính quyền cộng sản đàn
áp, người th́ chết, kẻ th́ sống dở, đến độ tiếng ta thán ngút trời mây; chính
quyền cộng sản phải trấn an dân chúng bằng những đợt “sửa sai” phát động trên
toàn miền Bắc, th́ trong Nam học giả Hoàng Văn Chí, sau một thời gian dài quan
sát, thu thập tài liệu cho xuất bản một tác phẩm viết về các cuộc tranh đấu
của giới trí thức và văn nghệ sĩ miền Bắc. Đó là quyển Trăm hoa đua nở trên
đất Bắc. Công tŕnh biên khảo này hoàn toàn có tính cách cá nhân, không hề
được sự hỗ trợ của chính quyền miền Nam. Măi tới lúc đó những người ham đọc
sách, thích suy nghĩ và quan sát chính trị và lịch sử ở miền Nam mới có dịp
thấy được một phần những sự kiện đang xẩy ra bên kia vĩ tuyến 17, bên kia vết
thương chém ngang ḿnh tổ quốc, một vết thương không bao giờ lành cho dù lịch
sử có trôi đi thêm vài trăm năm nữa. Bởi v́ vết thương nơi con sông Bến Hải
chỉ là vết thương lập lại, làm rộng thêm miệng một vết thương cũ, kéo dài ba
thế kỷ, nơi hai bờ sông Gianh trong thời Trịnh Nguyễn.
Trước khi tác phẩm biên khảo Trăm hoa đua nở trên đất Bắc ra đời, tên
tuổi của Phùng Quán chỉ được biết tới trên đất Bắc. Khi miền Nam biết tới ông,
chính là lúc ông đang sống không sống được, chết chẳng chết cho. Học giả Hoàng
Văn Chí giới thiệu Phùng Quán như sau:
“Phùng Quán năm nay (năm 1959) 25 tuổi, là một thanh niên nghèo. Trước đi bộ
đội, sau được giới thiệu về trường dự bị đại học để học thêm. Về Hà Nội anh
lại tiếp tục công tác văn nghệ trong quân đội.
Anh viết theo lối hiện thực xă hội và được coi là Triệu Tử Long trong nhóm
đối lập. Những bài thơ của anh được dư luận gọi là những “bom nguyên tử”.
Chúng tôi trích đăng bài Chống tham ô lăng phí đăng trong Giai
phẩm mùa Thu, tháng 10. 1956 và bài Lời mẹ dặn đăng trong tờ Văn,
tháng 9. 1957.
Anh không đ̣i hỏi ǵ hơn là quét sạch những rác rưởi trong xă hội và yêu cầu
các nhà văn phảI trung thành với tâm hồn ḿnh: “Yêu ai cứ bảo rằng yêu, ghét
ai cứ bảo là ghét”. Anh bị khủng bố chỉ v́ dám nói như vậy.
Phùng Quán bị đưa đi chỉnh huấn và phải viết bài thú tội. Trong bản thú tội
này nhà thơ trẻ tuổi thú nhận rằng sau khi nhóm Nhân văn Giai phẩm bị
giải tán th́ suốt ngày chỉ chơi với con bú dù. Các bạn hỏi tại sao thích
nuôi bú dù, Phùng Quán trả lời: “Chơi với người chán lắm rồi, thành phải
chơi với bú dù.”
Một chế độ đă đào luyện cho thanh niên một tâm trạng như vậy đủ làm cho
chúng ta suy nghĩ về chân giá trị của chế độ đó vậy”.
Trăm hoa đua nở trên đất Bắc đưa ra hai bài thơ của Phùng Quán. Một
trong hai bài thơ này, bài Lời mẹ dặn có thể nói không c̣n là thơ như
chúng ta hằng mong đợi ở thơ. Đó là một bản tuyên ngôn cho nhân phẩm, dưới
dạng thi ca. Bản tuyên ngôn giản dị đến độ đọc xong chúng ta cảm nhận được
trong hơi thơ của Phùng Quán có hơi thở của cuộc đời ông, và không phải chỉ là
hơi thở của một ḿnh ông, đó là hơi thở của cả một xă hội đang dồn dập gấp gáp
v́ thiếu khí trời để thở. Khi đọc thơ ông, tôi có cảm giác bắt gặp h́nh ảnh
những con cá mắc cạn, hai cái mang nhấp nháy liên hồi, và càng quẫy động càng
tiến dần đến cái chết.
Ông vốn là người nhiệt thành yêu nước, từ khi c̣n niên thiếu đă là liên lạc
viên cho các mặt trận, rồi từ đó bước một bước Phù Đổng trở thành một người
lính, chân thành bảo vệ tổ quốc chống quân cướp nước. Ông lao ḿnh vào tên đạn
của quân thù những mong rằng cuộc chiến đấu mà ông góp phần sẽ mang lại tự do,
cùng cơm no o ấm cho đồng bào ông. Nào ngờ khi bóng quân thù mất đi, ông bỗng
đối đầu với một chế độ cai trị c̣n hà khắc hơn cả quân xâm lược. Do đó trong
thi ca của ông, người ta gặp lại anh lính tiền phong ngày nào, viết những ḍng
thơ như nhắm bắn thẳng vào quân thù trước mặt.
Chỉ với hai bài thơ, Phùng Quán đă hiện nguyên h́nh một anh lính thiện xạ
trong thi ca. Cái đích bây giờ không phải là quân xâm lược mà là cả một guồng
máy cai trị nặng nề và kệch cỡm. Trong Trăng hoàng cung, tác phẩm mới
nhất của ông, do nhà Thanh Văn xuất bản tại Hoa Kỳ, ông viết:
...Từ năm 24 tuổi cho tới năm 56 tuổi, cơ chế quan liêu đă đánh trả tôi đến
chí mạng. Tước đoạt của tôi quyền lao động thiêng liêng: sáng tác, xuất bản,
quyền được sinh sống cho ra một con người. Và d́m ngập tôi trong bùn nhơ, lăng
nhục trước công luận.
Chịu chừng ấy đầy ải, lim thép sắt cũng gẫy gục. Nhưng Thơ đă cứu tôi, giúp
tôi đứng vững, dậy tôi dũng khí bền gan.
Nếu cần đi trở lại
Tôi lại đi đường này
Để cuối cùng lại chấm hết ở đây...
2.
Nhà văn Phùng Quán sinh năm 1933. Năm 1954, sau hơn 80 năm dùng súng đạn cai
trị nước Việt, khi người Pháp phải xuống tầu về nước ông 21 tuổi. Ông tự giới
thiệu trong lời khai từ của Trăng hoàng cung như sau:
... Hai mươi mốt tuổi, tôi, người lính chiến bước thẳng vào làng văn với
cuốn tiểu thuyết đầu tay kể chuyện
những người vượt ngục thất bại. Ngay sau đó tôi được coi là nhà văn. Nhưng
với tôi Thơ mới là tất cả. Thơ là mạng sống, lư lịch của đời tôi...
Năm 1957, cao điểm của phong trào Nhân Văn, ông 24 tuổi. Trước đó một năm,
Phùng Quán viết bài thơ
Chống tham ô lăng phí, ngay lập tức ông trở thành “cái đích” của những
“cái đích” do chính ông chọn. Tuy nhiên trong năm 1956 đó, lời kêu gọi “Bách
gia tranh minh, bách hoa tề phóng” (Trăm nhà đua tiếng, trăm hoa đua nở) của
Hồ Chí Minh chưa kịp ráo miệng, nên những “cái đích” của Phùng Quán nhịn ông
một mũi giáo. Năm 1957, ông xả một đường gươm khốc liệt Lời mẹ dặn đúng
vào lúc những “cái đích” của ông bắt đầu phản công. Trong thời điểm một mất
một c̣n này, lẽ ra cần có một đạo quân mới mong đánh đổ được những con người
tŕ trệ, quan liêu, máy móc th́ nhóm Nhân Văn quanh đi quẩn lại có được một
quân số không quá một trung đội. Vài chục người, ném vào một trận chiến mà bên
kia là cả một đạo quân nghiêng nước. Thật là một trận chiến không cân xứng.
Thế là đem trứng chọi đá, thế là trù dập bắt đầu.
Trong Cát bụi chân ai in cuối năm 1993, tác phẩm mới nhất của Tô Hoài,
một trong những “cái đích” của Phùng Quán thời 24 tuổi, Tô Hoài hồi tưởng lại
giai đoạn kinh hoàng này và tiết lộ cho người đọc những chi
tiết không một ai biết được: Có người quá sợ nuốt dao cạo tự tử. Hay một hoạ
sĩ được chọn làm tiểu đội trưởng trong chiến dịch cải cách ruộng đất. Để tránh
né cảnh ḿnh phải đứng ra tổ chức những buổi đấu tố, lăng nhục con người, họa
sĩ này đă giả vờ đi lạc trong rừng hai ngày đêm. Khi t́m được th́ ngơ ngơ ngẩn
ngẩn, giống như bị ma ám, mồm miệng đầy đất cát. Tô Hoài cũng cho biết đă gặp
Phùng Cung, một nhân vật xung kích khác của nhóm Nhân Văn. Cách mô tả của Tô
Hoài cho thấy Phùng Cung như một bóng ma, mới được móc từ huyệt ra, lôi từ băi
tha ma về, toàn thân là một tổng hợp của mọi thứ bệnh gây nên do đói, nghèo,
bệnh hoạn...
Tôi không có ư so sánh kích thước văn chương giữa Phùng Quán và Phùng Cung,
nhưng quả thật Lời mẹ dặn đau hơn Con ngựa già của Chúa Trịnh.
Thành thử một bài thơ viết từ năm 24 tuổi đă khiến ông bị trù
dập, lăng nhục, tước đoạt quyền sống trong ba mươi hai năm trường, tới năm ông
56 tuổi.
Suốt ba mươi hai năm không được sống như một con người, Phùng Quán không bao
giờ v́ những áp lực mà uốn cho cong cái lưng thật thẳng của ông. Ông không thể
đầu hàng, ông không thể thỏa hiệp bởi một lư do giản dị: ông là tác giả những
ḍng thơ, tuyệt không bóng bẩy, không kêu, không rỗng, chỉ giản dị nhưng quyết
liệt với bất cứ ai làm cho đời sống của dân chúng trở nên tồi tệ. Tôi xin ghi
lại đây toàn bài thơ Lời mẹ dặn của ông:
Phùng Quán
Lời mẹ dặn
Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối Mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đ̣n
Nhưng không Mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
- Con ơi - Trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
- Mẹ ơi chân thật là ǵ?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
- Bé ơi, bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nh́n tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời
In lên vết son đỏ chói.
Người làm xiếc đi giây thật khó
Nhưng chưa khó bằng nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Năm nay tôi hai mươi nhăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngă
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.
Với những người yêu thi ca bóng bẩy, lăng mạn th́ có thể những ḍng thơ trên
chưa chắc đă hay, nhưng không một ai có thể phủ nhận kích thước của những ḍng
thơ này lớn. Không hề dùng những từ ngữ có tính bác học, ai đọc cũng thấm vào
hồn, cũng lậm vào máu. Khi viết những ḍng thơ này, Phùng Quán đă tuyên chiến
với bọn giả h́nh đầy dẫy trong xă hội miền Bắc. Tất nhiên ông cũng tuyên chiến
với bọn giả h́nh trong miền Nam, bọn giả h́nh trong hiện tại và trong tương
lai vậy.
Bản chất của Phùng Quán là một người lính quật cường, bất khuất. Ông vùng vẫy
trong nghịch cảnh, ông không chịu đầu hàng dù cho toàn thể nhóm Nhân Văn đă
tan thành những con người tiều tụy, trở thành những mảnh đời vất vưởng không
nơi ăn chốn ở. Nguyễn Hữu Đang, một trí tuệ lớn, một kẻ sĩ thứ thật vào ở
trong một cái chuồng lợn. Những tên tuổi như Trần Dần, Hoàng Cầm, Hữu Loan,
Trần Lê Văn, Sĩ Ngọc, Văn Cao... tan tác trong một sớm một chiều. Đó chỉ là
danh tính của những người đă nổi lên trên mặt tầng, c̣n biết bao người đă ngă
quỵ trong tăm tối như Tô Hoài cho biết trong Cát bụi chân ai.
Theo tiết lộ của Văn Xương, một người bạn cũng dân bộ đội phục viên như Phùng
Quán, và đă dậy Phùng Quán nghề “câu cá“ độ nhật, khi cái bẫy đời đă ập xuống
đầu ông: Những năm Phùng Quán 27, 28 tuổi mặt ông lúc nào cũng dàu dàu, nhầu
nát, quân phục bạc mầu, gương mặt xanh xao hốc hác, ánh mắt buồn rầu u uẩn.
Ông thường mua một bát cơm và một bát canh, với vẻ lơ đăng như không biết ḿnh
đang ăn ǵ. Câu cá hợp lệ phải mua vé hai đồng câu suốt ngày, nếu ngày nào
không có cá cắn câu th́ mất cả ch́ lẫn chài, do đó Phùng Quán đi theo phường
câu trộm. Thời gian này ông hay đọc thơ của Essenin, đặc biệt là những câu:
Những số phận khác thường
sinh ra thường định trước
Tôi không thành nhà thơ th́ cũng thành
trộm cướp...
Trước kia Phùng Quán chê bia, cho là đắng, giờ đây ông nốc rượu cuốc lủi t́
t́. V́ không được phép viết dưới tên ḿnh, trong suốt ba mươi hai năm trời mầy
ṃ trong tăm tối, để có thể sống được ông đă “viết chui” hơn năm chục quyển
sách dầy mỏng, dưới hàng chục bút hiệu. Ông cũng câu trộm hơn 4 tấn cá. Ông
được các bạn văn cùng thời vẽ chân dung ông thật giản dị: “Cá trộm - Rượu
chịu - Văn chui”
3.
Tôi có cảm giác không ổn, khi đọc lời giới thiệu tác phẩm Trăng hoàng cung
của Phùng Quán do nhà xuất bản Thanh Văn ấn hành. Người viết lời giới thiệu
dường như chỉ nh́n những ḍng thơ trong tác phẩm này như những bài thơ t́nh
thuần túy.
Tôi nghĩ có một cách hiểu Nàng Thơ của Phùng Quán khác hơn. Cả cuộc đời ông là
một bài thơ hùng tráng, lẫm liệt, quật cường. Nàng Thơ của ông chính là cuộc
đời, cho dù cuộc đời đối với ông có tệ bạc, phũ phàng thế nào chăng nữa, ông
vẫn chiến đấu, vẫn làm thơ cho cuộc đời tươi tốt hơn. Giản dị mà nói th́ toàn
bộ tác phẩm ngắn gồm thơ trộn lẫn với văn này là một thí dụ điển h́nh cho
thành ngữ: “Ư tại, ngôn ngoại”. Cho dù có một mối t́nh thật sự của Phùng Quán
với một giai nhân nào đó, cho dù ngôn ngữ thi ca của ông
trong tác phẩm này đầy những “anh” và “em”, tôi vẫn không tin đây là những bài
thơ t́nh thuần túy. Tôi tin tưởng mănh liệt vào điều này bởi v́ trong Khai
từ của cuốn sách do chính ông viết, tôi đọc được những điều sau đây:
Có những phút ngă ḷng
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy.
...........................
Cạn thơ giữa cuộc đời, tôi quyết định rời bỏ thành phố, gia đ́nh, bạn hữu,
giữa cái tuổi năm mươi, lên rừng đào t́m mạch thơ giữa thiên nhiên.
Tôi đă sống suốt ba năm trong cái lán lợp tranh nứa, giữa một băi đất phù
sa cổ hoang vu, vùng đồi núi Thái Nguyên, mọc lút đầu cỏ dại và cây trinh nữ
xanh. Xung quanh băi đất hoang, con suối lớn Linh Nham vây bọc. Bàn ghế là rễ
cây chết tôi lặn lên từ ḷng suối. Giường nằm là cây cơi cổ thụ bị băo xô bật
gốc, con suối Linh Nham mang từ rừng đại ngàn về, dâng lũ lên đến tận thềm
lán, trao tặng tôi. Tôi vạt bằng mặt trên thân cây bằng ŕu, rồi đục lơm sâu
xuống, phảng phất h́nh cái áo quan; mùa đông nằm vào đó tránh được cái giá rét
và sơn lam chướng khí. Tôi sống cùng một con chó, một con heo, một bầy gà; ăn
bắp, sắn, rau lang, ốc suối, tôm cá tự đánh bắt lấy.
Mưa lũ không ai dám vượt suối dữ Linh Nham, nên có khi mười ngày liền không
nói tiếng người. Trong ba năm th́ có hai người bạn lặn lội t́m đến thăm. Trần
Quốc Vượng, giáo sư sử học; Đỗ Quốc Thuấn, một bạn làm thơ trẻ.
Trước mặt lán, sát bờ suối, tôi đào cái huyệt rộng một mét, dài hai mét,
sâu mét rưỡi. Tôi nguyền nếu không t́m thấy Thơ, tôi sẽ lăn xuống đó...
Đàn mối đất phù sa
Sẽ thay phu đào huyệt
Bao nghiệt ngă trần gian
Chỉ một tuần vùi hết...
Tôi chưa được đọc một tác phẩm nào trọn vẹn của ông ngoài Trăng hoàng cung.
Theo cách nh́n rất chủ quan của tôi th́ cuốn sách này không phải là một cuốn
sách hay. Có lẽ lần đầu gặp thơ Phùng Quán trong Lời mẹ dặn tạo cho tôi
ấn tượng quá lớn. Khi đó tôi hai mươi tuổi, nh́n cuộc đời giản dị và lư tưởng.
Những lời thơ tôi đọc trong tuổi thanh xuân đó đă chỉ hướng phần nào cho cuộc
đời tôi sau này. Vả lại h́nh ảnh Phùng Quán mà tôi mang trong đầu là h́nh ảnh
của một “kẻ sĩ” trong thế trận bối thủy. Ông tựa lưng vào bờ sông, đánh những
đường gươm chí tử cho bản thân ông và cho cuộc đời. Trước mặt ông, hàng hàng
lớp lớp những con người, tiêu máu xương dân chúng như tiêu bạc giả đang ùn ùn
kéo tới. Thế mà ông vẫn sống c̣n, cho dù sống như cánh c̣ trắng phau, bay qua
nền trời chiều chập tối.
Trong các tác phẩm xuất hiện dưới tên Phùng Quán, người ta hay nhắc tới
Vượt Côn Đảo và Tuổi thơ dữ dội, tôi chưa có dịp đọc hai tác phẩm
này, nhưng cũng qua bài viết của Văn Xương, đăng trên báo Người Hà Nội, tôi
nghĩ Tuổi thơ dữ dội gồm một bộ ba cuốn có thể là một tác phẩm hay.
Nhân vật chính của tác phẩm này, một cậu bé liên lạc viên 13, 14 tuổi, bị nghi
ngờ là Việt gian. Cuối cùng khi đă bị đạn, thương tích đầy thân thể, vẫn cố
gắng liên lạc về với anh trung đoàn trưởng, chỉ để thều thào trước khi chết:
”... Anh ơi! Em không phải là Việt gian, em là Vệ Quốc quân...” Tôi tin
chắc nhân vật chính này có mang phần nào h́nh ảnh của chính Phùng Quán. Ông
từng là liên lạc viên trong thời niên thiếu.
Ông đă hoàn tất hơn năm chục tác phẩm dưới dạng “văn chui” với rất nhiều bút
hiệu. Tôi không hiểu sau khi ông nằm xuống, những người làm văn học trong nước
có bao giờ nghĩ đến những đóng góp âm thầm, như những bào thai phải đẻ non
này. Cóp nhặt, tuyển chọn lại những đóng góp có giá trị cao, in thành một
Phùng Quán toàn tập. Phải có một cố gắng nào đó để trả ơn cho một nhà
văn, nhà thơ đă v́ sự sống c̣n của một xă hội, một dân tộc mà hứng chịu không
biết bao nhiêu là oan khiên, cay đắng. Bị bỏ đói, bị lăng nhục, bị chèn ép đến
độ không được sống như một con người. Thế mà ông vẫn không bao giờ oán hận
cuộc đời. Ông chỉ thản nhiên sống như một con người.
Tôi không biết Phùng Quán có khi nào đọc Hermann Hesse, nhưng cách ông sống
làm cho người đọc ông liên tưởng tới một ư tưởng của nhà văn Đức ấy: “Cho
dù có phải đau đớn quằn quại cách mấy đi chăng nữa, tôi vẫn tha thiết yêu
thương trần gian điên dại này...”
Nhưng chỉ cần có một bài thơ Lời mẹ dặn mà thôi, ông đă có một chỗ ngồi
chắc chắn trong văn học Việt Nam cận đại. Tôi có cảm giác là những đóng góp
của ông trên lănh vực văn học tuy lớn, nhưng h́nh như không lớn bằng chính
cuộc sống của ông.
4.
H́nh như các nhà văn, nhà thơ luôn luôn là kẻ tiên tri cho chính ḿnh. Phùng
Quán cũng vậy, làm như ông đă nh́n thấy trước cái chết của ông trong một tầm
gần. Cách đây chưa đầy một tháng, tôi nhận được số Xuân Văn Học. Cũng như
thường lệ hàng năm số báo này là số báo đúp, dầy hơn hai trăm trang, như một
quyển sách. Tôi lật qua những trang đầu. Nơi trang mục lục tôi đọc thấy tên
Phùng Quán và bài viết Chút nghĩa cũ càng của ông. Lúc đó tôi đang bận
làm một công việc ǵ đó trong ṭa soạn Người Việt, nhưng tôi nhớ như in, tôi
bỏ dở công việc đang làm, vào thư viện, ngồi một cách nghiêm chỉnh nơi bộ bàn
ghế mới mua, c̣n thơm mùi vải mới. Tôi chọn một thế ngồi ngay ngắn, chăm chú
đọc bài viết của một thi sĩ đă làm tôi chấn động trong tuổi thanh xuân. Tôi
cũng phải thú thật một điều: Người viết lời giới thiệu cuốn Trăng hoàng
cung làm cho tôi lơ là khi đọc tác phẩm này.
Thành thử giữa hai lần đọc Phùng Quán một cách nghiêm chỉnh, có một khoảng
cách hơn ba mươi năm. Lần đầu đọc thơ Lời mẹ dặn, tôi 20, và lần này
đọc văn Chút nghĩa cũ càng tôi đă 52. H́nh như khoảng thời gian 32 năm
cũng bằng khoảng thời gian Phùng Quán bị truy nă, trù dập. Ông và tôi có những
tiểu dị trong các đại đồng: Ông và tôi cùng mặc quân phục, chỗ khác nhau là
ông quân phục miền Bắc và tôi quân phục miền Nam. Ông và tôi cùng bị lưu đầy,
tôi lưu đầy ngoài nước, c̣n ông lưu đầy ngay chính nơi chôn nhau cắt rốn. Ông
và tôi cùng cơm hàng cháo chợ, ông ăn cơm “bụi”, tôi ăn “food to go”. Đó là
tôi chưa kể tới ông và tôi cùng viết văn và làm thơ. Ông “văn chui”, c̣n văn
chương của chúng tôi nơi đây, người ta rao bán ê hề như những đồ dùng một lần
rồi bỏ.
Hai lần đọc ông tôi có hai cảm giác khác nhau. Lần đầu là máu chẩy bừng bừng
trong huyết quản, lần này là một chút hiu quạnh trong ḷng. Thơ của ông ngày
trước cho tôi những phẫn nộ, tưởng như sắp xăn tay áo xông về phía trước. Văn
của ông bây giờ cho tôi những đau xót bồng bềnh, như những đám mây trắng nơn
trên trời. Chút nghĩa cũ càng ông viết về cái chết của nhà thơ Đoàn Phú
Tứ, một thi sĩ lớn của văn học thời tiền chiến. Tất nhiên trước khi viết về
cái chết của tác giả Mầu thời gian, ông duyệt qua những chông chênh cay
đắng trong những năm tháng cuối đời Đoàn Phú Tứ. Nào có khác ǵ đoạn đời của
chính ông mấy năm gần đây. Mỗi người khổ một cách khác, đau một cách khác,
nhưng sống th́ cùng chết dở như nhau. Tôi trích ra đây một đoạn ngắn Phùng
Quán viết về Đoàn Phú Tứ, nhưng có lẽ ông cũng viết cho chính ông:
...Nhà thơ ngồi trên cái ḥm gỗ thông xập xệ. Bức phản gỗ được dọn dẹp
quang một góc làm bàn viết. Cạnh các tác phẩm của Ra-bơ-le, Stăng-đan,
Íp-xen... mà ông đang dịch thuật theo một hợp đồng nào đó, là mùng mền cũ nát
ám khói, những cái gối đen đúa mồ hôi, chiếc chiếu rách xơ cuộn tṛn, một chai
rượu sắp cạn đến đáy, vài cái chén sứt quai... Tóc ông ngả mầu bạc cổ, dợn
sóng, đuôi tóc xoăn mềm mại ḷa x̣a quanh gáy, ria mép hơi vểnh lên, cḥm râu
nhọn được xén tỉa cẩn thận, làm tôn thêm vẻ đẹp thanh tú, quư phái của gương
mặt ông. Nom ông như một đại công tước Nga, thời Sa Hoàng đang chơi tṛ giả
trang. Tôi thường ngắm gương mặt ông và thầm nghĩ: Đó là một vẻ đẹp bền vững
của thời gian, sự nghèo đói, túng quẫn không sao tàn phá nổi. Và tôi chợt hiểu
tại sao vợ ông, chị Khiêm, kém ông những hai mươi tuổi, khá xinh đẹp, con nhà
gia thế đă yêu ông say đắm, bỏ cửa bỏ nhà để theo ông...
Nhưng rồi năm tháng và cuộc sống cùng quẫn đói nghèo đă làm lụi tàn đi tất
cả... Lụi tàn t́nh yêu, lụi tàn hy vọng, lụi tàn mộng mơ...
Chỉ một đoạn văn ngắn, người đọc bắt gặp không biết bao nhiêu là h́nh ảnh,
trộn với t́nh cảm, cộng với xót xa, ḥa với khổ đau của Phùng Quán dành cho
Đoàn Phú Tứ và dành cho chính Phùng Quán. Thế nhưng văn phong lạnh lùng, thản
nhiên, cam chịu, không có vẻ ǵ là quỵ lụy, phân bua mà kỳ diệu thay người đọc
c̣n bắt gặp được cái nồng, ấm, dịu dàng, thương yêu giữa hai người bạn.
Tôi chưa bao giờ được nh́n thấy dung nhan ông, nhưng cảm giác về ông th́ thật
là gần gụi. Trong khi đó nơi tôi đang sống, đang lăn lộn với đời có những
người tôi biết mặt, quen tên, thỉnh thoảng có bắt tay mà tôi thấy h́nh như xa
hàng vạn dặm. Càng ngày tôi càng đọc được nhiều tài liệu nói về những nhà văn
đích thực của miền Bắc. Bốn chục năm trước là những Phan Khôi, Trần Dần, Hoàng
Cầm, Phùng Quán, Văn Cao, Lê Đạt... và bây giờ là những Nguyễn Huy Thiệp, Bảo
Ninh, Lưu Quang Vũ, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Trần Văn Thủy... Tất nhiên
tôi đang nói tới những người cầm bút ngoài miền Bắc, nên không thể liệt kê
những tên tuổi như Doăn Quốc Sĩ vốn là nhà văn của miền Nam, mặc dầu Doăn Quốc
Sĩ là người miền Bắc. Chao ôi! cái chữ Bắc, Nam này mỗi lần nghe thấy là một
lần tôi phải nh́n trước ngó sau. Thiệt ra Nam và Bắc nếu có, chỉ nằm trong tấm
ḷng của mỗi con người.
Những tài liệu đă đọc khiến cho tôi cảm thấy tôi phải làm việc nhiều hơn nữa,
bởi v́ những nhà văn, nhà thơ đích thực trong nước hầu như đă làm được nhiều
việc đáng kể, đă mô tả gần đủ xă hội họ đang sống. Để làm được điều này, trong
gần nửa thế kỷ qua có nhiều nhà văn trước khi ngă xuống đă bị sỉ nhục, bị đầy
ải, bị trấn áp, đè nén... Trong khi ở ngoài này dường như nhà văn chúng ta chỉ
mới chạm được tới vành ngoài của sự thật. Chúng ta có quá nhiều điều để viết
mà h́nh như chúng ta chưa... muốn viết. Nếu như sự thật có hai mặt, th́ mặt
bên trong dường như đă được vẽ lại gần đầy đủ, trong khi mặt ngoài ở phía
chúng ta th́ chỉ mới có đựoc vài nét phác họa sơ khởi.
Tin Phùng Quán mất đến với tôi thật ngỡ ngàng. Những cơn mưa băo bất thường
của California tưởng như kéo dài bất tận. Tôi mang số Xuân Văn Học ra đọc lại
bài viết của ông. Chữ và nghĩa c̣n rành rành, giấy c̣n thơm mùi mực. Tôi gọi
điện thoại cho Kỳ Hùng, một người có duyên với ông hơn tôi, vừa mới gặp ông
không đầy một tháng. Té ra anh đă biết trước tôi vài tiếng đồng hồ. Anh hứa
cho tôi mượn tấm h́nh anh chụp Phùng Quán cách ngày ông mất không đầy một
tháng. Anh lội mưa mang hai tấm h́nh tới tôi. Một tấm ảnh Phùng Quán đang đọc
thơ, tấm c̣n lại đang hút điếu cầy. Trong ảnh Phùng Quán già hơn tuổi thật
nhiều. Ông thua Hoàng Cầm, Văn Cao cả chục tuổi, thế mà trong ảnh ông có vẻ
già hơn Văn Cao, hom hem hơn Hoàng Cầm.
Kỳ Hùng cho tôi biết khi anh gặp Phùng Quán th́ cái bụng của ông đă to chướng
lên. Với những người bị bệnh xơ gan cổ chướng như Phùng Quán, mà bụng bắt đầu
to là bắt đầu có chuyện. Thế nhưng ông trấn áp những cơn tàn phá thể xác bằng
một vẻ thản nhiên như không có ǵ. Ông vẫn cười nói tự nhiên, vẫn rượu, bia,
thuốc lào, thuốc lá. Vẫn thức khuya, chong đôi mắt nh́n thấu bóng đêm, ngắm
bóng ḿnh trên vách. Tất nhiên ông hiểu bệnh trạng ông hơn ai hết, nên ông an
nhiên chờ. Ông đă sống đời một người lính bảo vệ tổ quốc. Ông đă sống đời một
nhà thơ, viết những bài thơ hệt như bản tuyên ngôn của những người cầm bút
chống lại bạo quyền. Ông đă sống đời một nhà văn, dùng ng̣i bút ḿnh chấm vào
Sự Thật, và chấp nhận bất cứ một hậu quả nào. Sống tới ba con người trong một
thể xác như thế, mà kéo dài sự góp mặt với đời sống, dưới một chế độ cai trị
lạnh lùng, khắc nghiệt của miền Bắc được hơn 60 năm, th́ quả là một kỷ lục.
Mà lạ một điều, những con người phải đối phó với nhiều nghịch cảnh như ông th́
lại hay sống dai. Cho tới nay những ngôi sao Nhân Văn c̣n nhiều. Trần Dần,
Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, Hữu Loan, Trần Lê Văn, Văn Cao... vẫn c̣n là những
chứng nhân cho một giai đoạn khốc liệt của lịch sử Việt Nam cận đại. Phùng
Quán là tay xung kích trẻ tuổi nhất của toàn nhóm Nhân Văn. Ông vội về làm
chi, trong khi các nhà văn lớn tuổi hơn ông, ngoài 70, thân thể chỉ c̣n da với
xương, nhưng đứng thật thẳng trên đôi chân, và cái cổ tuy có gầy g̣, khẳng
khiu nhưng không bao giờ chịu gục xuống.
Ông vội về làm chi, đường trần vẫn c̣n nhiều điều cần nói. Vẫn theo bài viết
của Văn Xương: Ông đă phát thệ ba điều, ông làm được cả ba điều. Nhà văn Việt
Nam như thế là nhất, bởi v́ ba điều đó thuộc về danh dự của người cầm bút. Thế
là ông không c̣n nợ đời, mà chỉ với một bài thơ Lời mẹ dặn không mà
thôi, đời cũng đă nợ ông nhiều lắm. Sao không sống thêm ít năm, xem chừng ra
bánh xe lịch sử đang quay, đời sắp trả nợ ông th́ ông lại cho đời một cơ hội
quỵt. Ông đâu có giầu có ǵ, nhưng xem chừng vẫn hào phóng như tay lính trẻ
trinh sát ngày nào. Đám tang ông diễn ra tại Hà Nội, mặc dù ông viết thơ cho
một người bạn văn ở ngoài này là ông muốn được chôn trong mùi thơm của thông
Ngự B́nh. Theo một nguồn tin tôi đọc được, đám tang ông có 500 người đưa tiễn,
một nguồn tin khác cho biết có tới 2000 người. Số người đi đưa như thế nhiều
hay ít đối với một nhà văn, nhà thơ có ơn với đời? Tôi không nghĩ Phùng Quán
coi điều này là quan trọng. Điều quan trọng với ông chính là ông đă Sống và
Chết như thế nào? Và đó cũng là điều những người quan tâm đến văn học trong
thời cận đại phải biết: Ông đă sống như một “Nhà văn – Nhà thơ”, và ông đă
chết như một “Con Người”.
Trong đám tang ông, người đọc điếu văn hẳn là Hoàng Cầm, chứ c̣n ai vào đây
nữa, bởi v́ gần đây khi Hoàng Cầm suy sụp, chính Phùng Quán là một trong những
người muốn vực Hoàng Cầm dậy. Phùng Quán đă làm một bài thơ để đẩy lui những
mầm suy tàn trong con người Hoàng Cầm, để ươm lại mạch thơ cho bạn và cho
chính ông. Ông cũng vẫn là một tiên tri cho cái chết của ông: đằng sau quan
tài của ông, không phải chỉ có thân nhân và bằng hữu. C̣n có cả những người
ông không biết mặt quen tên. Ấy là không kể tới những người xa cách ngàn
trùng, muốn về đưa tiễn ông đến nơi an nghỉ cuối cùng nhưng hoàn cảnh chính
trị không cho phép. Tôi tin chắc đằng sau quan tài ông, có một chút nhỏ phần
hồn của núi sông, của Đảo Côn Sơn, suối Linh Nham, sông Hương, núi Ngự, hay
của những cái hồ mà ông câu trộm cá trong những năm khốn đốn nhất trong cuộc
đời. Tôi xin chép lại đây bài thơ của Phùng Quán tặng Hoàng Cầm để chấm dứt
bài viết sự ra đi của ông. Để hiểu rằng tại sao người đọc điếu văn trước mộ
Phùng Quán phải là Hoàng Cầm, và bên cạnh đó phải là những ngôi sao đă tạo nên
ṿm trời Nhân Văn ngày nào.
Thơ Phùng Quán tặng thi sĩ Hoàng Cầm
Tôi tin núi tàn!
Tôi tin sông lấp!
Nhưng tôi không thể nào tin:
Một nhà thơ như anh lại ngă ḷng suy sụp
Tôi tin, nhà thơ anh đă viết:
Cách đây 30 năm
Những vần thơ lẫm liệt!
Tiểu đội anh, những ai c̣n và ai mất?
Không ai c̣n ai mất,
Chỉ chết cả mà thôi!
Người sau kẻ trước lao vào giặc,
Giữ vững ngàn thu một giống ṇi.
Thế gian có một ngàn con sông,
Và một ngàn nhà thơ lớn.
Nhưng chỉ có một gịng,
May được thơ xưng tụng,
Nhờ đó mà vang vọng,
Nhờ thơ mà vinh danh,
Đó là con sông Đuống,
Con sông của quê anh,
Mà anh xót xa như bàn tay anh ngón rụng.
Tôi có một niềm tin,
Chắc như đanh đóng cột.
Ngày mai anh nhắm mắt,
Đi sau linh cữu anh,
Ngoài bạn hữu gia đ́nh,
Có cả con sông Đuống.
Sông Đuống sẽ mặc đại tang,
Khóc bên bồi bên lở,
Sóng cuộn bờ nức nở,
Ngàn đời chịu tang anh.
Tôi tin núi tàn!
Tôi tin sông lấp!
Nhưng tôi không thể nào tin
Một nhà thơ như anh
Lại ngă ḷng suy sụp.
Việc Phùng Quán tin vào con sông Đuống sẽ khóc Hoàng Cầm bên lở bên bồi c̣n có
thể hồ nghi, nhưng tôi tin khi nào c̣n những bà mẹ yêu thơ, dặn ḍ, dậy dỗ con
cái th́ ngày đó vẫn c̣n có người nhớ tới Phùng Quán, người đă làm bài thơ
Lời mẹ dặn, và đem tặng những vần thơ này cho đời.
(Viết ngay khi nghe tin Phùng Quán mất ở Hà Nội)