Phó Đề Đốc
Hoàng Cơ Minh
Phan Lạc Tiếp
Khi tôi ra trường đầu thập niên 60, tổng số sĩ quan trong Hải Quân chưa đến
300 người. Quân số tất cả Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Đoàn Viên của Hải Quân vào
khoảng 4000 người mà thôi. Do đó hầu như chúng tôi biết tên, biết tuổi và
tính t́nh của tất cả những vị sĩ quan đàn anh. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm
1975, quân số của tất cả Hải Quân trên 40 ngàn, trong đó sĩ quan có đến mấy
ngàn. Riêng cấp tướng có 10 vị đang tại chức và 1 vị đă về hưu v́ đáo hạn
tuổi. Trong những sĩ quan cấp tướng này có thể chia ra làm 2 loại. Thứ nhất
là những vị sĩ quan xuất thân khoá 1 Nha Trang do Pháp huấn luyện trên Hạm
Đội Viễn Đông (Division Navale D Extreme Orient), với thâm niên quân vụ và
chức vụ, nên ưu tiên lên tướng trước với cấp bậc 2 sao, 3 sao. Thứ hai là
những vị tướng mới lên sau này, 1 sao, khi cuộc chiến ở giai đoạn cam go và
Hải Quân bành trướng mau lẹ, bao gồm những sĩ quan xuất thân khoá 1 trường
Sĩ Quan Hải Quân Brest, do Pháp huấn luyện; khóa 2, khoá 3, khoá 4 và khoá 5
Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Ông Hoàng cơ Minh xuất thân khoá 5, lên tướng,
là người độc nhất trong khoá ông được vinh dự này. Đa số những sĩ quan khoá
5 mang cấp bậc đại tá, có người c̣n đeo trung tá. Như lời Đại Tá Nguyễn văn
May cùng khoá với ông, nhận định rằng: "Trừ lon Trung Uư là chúng tôi cùng
lên chung, sau đó hầu như cấp bậc nào ông Minh cũng lên trước anh em bởi
những công trạng đặc biệt. Ông Minh quả là người xuất sắc, hơn người".
Trong thời gian thụ huấn, là Sinh Viên Chuẩn Uư, chúng tôi nh́n những Sĩ
Quan đàn anh đă ra trường bằng một tấm ḷng khao khát và ngưỡng mộ. Nói chi
đến vị Đại Uư Hạm Trưởng, ba vạch vàng trên vai và huy hiệu Hạm Trưởng gắn
trên nắp áo. Các vị ấy cao xa quá, tài giỏi quá. Xung quanh các vị ấy là cả
một vùng sương mù của huyền thoại. Ông này khó tính, ch́ sóng. Ông kia cặp
cầu xuôi sóng mà êm như để. Ông khác tuy rất thâm niên nhưng không thích làm
việc trên bờ, chỉ thích đi tàu... Lúc ấy Đại Uư Hoàng cơ Minh đang là Hạm
Trưởng trục lôi hạm Bạch Đằng II, HQ 116. Chiến hạm tuy nhỏ nhưng mới tinh,
trên ống khói có gắn một huy hiệu vẽ một mỹ nhân ngư cầm cái chổi (để quét
ḿn). Bên trên huy hiệu này là một chữ ƯU bằng đồng thau sáng loáng, chứng
tỏ trong kỳ thanh tra thường niên vừa qua, chiến hạm đă đạt được điểm tối đa
trên mọi lănh vực: thi hành tốt các công tác đă được chỉ định; bảo tŕ toàn
hảo tất cả các loại máy móc trên tàu; và tinh thần phục vụ của nhân viên rất
cao.
Khi bước chân xuống thực tập trên trục lôi hạm này, chúng tôi thấy khác hẳn
những chiến hạm khác. V́ hầu như nơi đâu trên tàu nếu không được sơn phết
sáng trưng, đều được đánh đồng bóng lộn. Không có những chỗ hoen rỉ, vàng úa
bọng sét.V́ chiến hạm này vỏ bằng gỗ, không rỉ sét, nhưng dễ vỡ. Vận chuyển
phải thật khéo léo, tránh va chạm như loại tàu vỏ sắt. Kim loại dùng trên
tàu này một phần là sắt, thép đă được khử từ, mà đa số cơ phận làm bằng đồng
thau. Lư do đồng thau không bị hút bởi từ lực, tránh nguy hiểm cho chiến hạm
đi gần loại ḿn từ tính. Ngay trên sân chính là một mặt trống khổng lồ để
phá ḿn âm thanh. Bên cạnh đó là cả một cuộn giây cable đường kính có đến
gần 10 phân, nằm ch́nh ́nh trong trục quay. Đối với chúng tôi, những sinh
viên chưa ra trường, quang cảnh ấy là cả những ǵ choáng ngợp, khó khăn. Tôi
và mấy người bạn cùng khóa đứng nghiêm túc trên đài chỉ huy, quan sát và ghi
chép mọi diễn tiến tại đây, chiêm ngưỡng vị Hạm Trưởng, Đại Uư Hoàng cơ Minh
đứng điều khiển con tàu.
C̣i nhiệm sở vận chuyển kéo lên. Thuỷ thủ đoàn quần xanh đậm, áo xanh xám
nhạt, mặc áo phao màu đỏ, mau chóng chạy vào nhiệm sở. Lệnh Hạm Trưởng ban
ra sắc, gọn, được nhắc lại và thi hành rất chính xác. Khi con tàu đă ở trên
hải lộ, ngoan ngoăn hướng mũi ra cửa biển, Hạm Trưởng đứng một lúc, hướng
mắt ra khơi. Ông trở lại ghế dành riêng cho Hạm Trưởng, thong thả châm một
điếu Bastos, hít một hơi dài, thở khói mù mịt, rồi ra lệnh: "Giải tán nhiệm
sở vận chuyển." Gió thổi bay giây hiệu kỳ chiến hạm lật phật. Một hồi c̣i
dài ré lên. Nhưng tiếp theo ngay là hồi c̣i nhiệm sở của phiên hải hành. Vị
sĩ quan trưởng phiên dơ tay chào Hạm Trưởng, biểu lộ sự sẵn sàng là sĩ quan
đương phiên, đứng ngay cạnh la bàn điện, ra lệnh cho pḥng lái. Đó là h́nh
ảnh đầu tiên tôi có với niên trưởng Hoàng Cơ Minh.
Sau này, khi đă ra trường, công tác và trách nhiệm đ̣i hỏi, đa số anh em
cùng khoá chúng tôi là những ngươi đi tàu tốt. Nhiều người đă là Hạm Trưởng
những chiến hạm lớn nhất của Hải Quân: khu trục hạm, tuần dương hạm. Trong
trận hải chiến lịch sử chống quân Trung Cộng tại Hoàng Sa, ngày 19 tháng 1
năm 1974, hai trong bốn vị Hạm Trưởng tham dự trận đánh là Sĩ Quan khoá 11.
Tôi cũng từng là Hạm Trưởng, chỉ huy một con tàu nhỏ, nhưng h́nh ảnh Hạm
Trưởng Hoàng cơ Minh, vẫn là một mẫu mực đẹp đẽ trong kư ức của tôi.
* * *
Từ năm 1965, cuộc chiến Việt Nam trở nên mănh liệt, Quân Lực Mỹ ồ ạt đổ vào
Việt Nam. Bên cạnh đó, một số quốc gia đồng minh của VNCH cũng tham gia cuộc
chiến, với nhiều sắc thái. Phi Luật Tân gửi Đoàn Y Tế Dân Sự Vụ. Các quốc
gia trong vùng gửi bộ binh tham chiến là Úc Đại Lợi, Thái lan, Đại Hàn. Dân
chúng Thủ Đô hẳn không quên tên 2 Sư Đoàn Mănh Hổ và Thanh Long và ṿng đai
bảo vệ Sài G̣n là Xa Lộ Đại Hàn, với những sinh hoạt Dân Sự Vụ rất được báo
chí nhắc đến của 2 Sư Đoàn kiểu mẫu và thiện chiến này. Bên cạnh đó c̣n có
các Dương Vận Hạm mang quốc kỳ Đại Hàn hoạt động trên lănh hải Việt Nam,
thường đậu ở Bến Bạch Đằng. Các chiến hạm này hiện diện tới những phút cuối
cùng của cuộc chiến. Nhiều người dân Thủ Đô vào cuối tháng 4 năm 1975, đă
rời khỏi nước trên những chiến hạm này. Trong thời gian quân đội Đại Hàn
tham chiến ở Việt Nam, HQ Thiếu Tá Hoàng cơ Minh đảm nhiệm vai tṛ Tùy Viên
Quân Lực của toà Đại Sứ Việt Nam Cộng Hoà tại Đại Hàn. Đó là trách vụ của
một sỹ quan cao cấp, nhưng Thiếu Tá Hoàng cơ Minh đă hoàn tất công tác rất
vẹn toàn. Những ư kiến, những sắp xếp và những tài liệu hướng dẫn do ông
soạn thảo để tránh những hiểu lầm giữa hai dân tộc Việt Nam và Đại Hàn, chắc
chắn đă ảnh hưởng đến sinh hoạt của các Sư Đoàn và những chiến hạm nói trên.
Trong thời gian này tôi được biệt phái qua Nha Hoả Xa để lái tàu dân sự. Ở
đây trên 2 năm, nh́n bạn bè trong khoá lên lon vùn vụt, bỗng động ḷng trắc
ẩn, tôi xin trở về Hải Quân.
Lâu lắm mới mặc lại bộ quần áo nhà binh hồ thẳng nếp cứng quèo, đeo lon cứ
thấy ngượng như đeo lon giả. Vừa bước vào sân trại Bạch Đằng, đụng ngay
Trung Tá Hoàng Cơ Minh ở hàng hiên cao ốc. Ông gọi lớn và hỏi: "Cậu biến đi
đâu mấy năm nay". Ông kéo tôi vào văn pḥng ông: Văn Pḥng Tham Mưu Phó
Chiến Tranh Chính Trị ở góc từng trệt toà nhà chính. Tôi tŕnh bày hoàn cảnh
của tôi. Ông bảo: "Thôi ở đây làm việc với tôi." Chưa biết sẽ phụ trách công
tác ǵ, nên tôi ngần ngại. Ông bảo: "Để tôi dàn xếp, miễn là cậu thích làm
việc với tôi. Coi như xong, về nhà nghỉ thêm vài ngày nữa đi." Mấy ngày sau
trở lại, ông Minh nói: "Tôi thua. Đại Tá Ánh xin Tư Lệnh để cậu xuống Cần
Thơ làm việc với ông ấy rồi." Qua một vài nhiệm sở, mấy năm sau khi tôi trở
về Sài G̣n làm Trưởng Pḥng Tâm Lư Chiến Bộ Tư Lệnh Hải Quân, th́ ông Minh
đă là một tên tuổi gắn liền với những chiến công ở các vùng lửa đạn.
* * *
Từ năm 1970, Mỹ chuyển giao cấp tốc chiến hạm, chiến đỉnh và những căn cứ
tiếp vận cho Hải Quân Việt Nam. Trong thời gian chưa đầy 3 năm, bắt đầu từ
năm 1970, Hải Quân Việt Nam phải tuyển mộ và huấn luyện gần 30 ngàn Sĩ Quan
và Đoàn Viên. Những sĩ quan đàn anh của tôi lên lon vùn vụt mà hầu như không
kịp với chức vụ và nhu cầu. Trước đó hai tiếng Tư lệnh là một danh xưng độc
nhất đầy tôn kính, chỉ để gọi vị Tư Lệnh Hải Quân mà thôi. Bây giờ, từ năm
1970, ngoài vị Tư Lệnh Hải Quân tại Sài G̣n, c̣n có nhiều vị Tư Lệnh khác:
Tư Lệnh Vùng Duyên Hải, Tư Lệnh Vùng Sông Ng̣i, Tư Lệnh Lực Lượng. Đồng bằng
sông Cửu Long, vựa lúa của Miền Nam, ngoài những Giang Đoàn Xung Phong ra,
bây giờ có thêm trên 1000 chiến đỉnh đủ loại ngang dọc trên khắp các vùng
sông nước. Đó là những chiến đỉnh thuộc 3 Lực Lượng Đặc Nhiệm: Lực Lượng
Trung Ương, Lực Lượng Tuần Thám và Lực Lượng Thuỷ Bộ. Đây cũng là nét rất
đặc thù của Hải Quân Việt Nam. V́ trên thế giới không có một một quốc gia
nào có một lực lượng hải quân trong sông to lớn và đa hiệu như thế. Niên
trưởng Hoàng cơ Minh bây giờ là Đại Tá, Tư Lệnh Lực Lượng Thuỷ Bộ. Đó là một
lực lượng gồm khoảng 300 chiến đỉnh. Lực Lượng này được coi là dũng mănh
nhất, một mũi nhọn sắc bén nhất trong sông ng̣i của Hải Quân Việt Nam. Các
chiến đỉnh của Lực Lượng này vỏ dày, hoả lực hùng hậu. Đặc biệt loại chiến
đỉnh Tango, nóc bằng, trực thăng có thể đáp xuống dễ dàng, có mặt ở khắp
nơi, kể cả những vùng mà từ lâu nay được coi là an toàn khu của địch. Từ
Chương Thiện, Cà Mau, Sóc Trăng đến Rạch Sỏi, Sẻo Rô, kinh Đồng Tiến, kinh
Cổ C̣ hóc hiểm śnh lầy, những "hàng không mẫu hạm tư hon" này đều có mặt,
tạo ra những phản ứng thần tốc, khốc liệt, kinh hoàng khiến đối phương không
kịp trở tay. V́ ngoài hoả lực cơ hữu của các chiến đỉnh và bộ quân tùng
đỉnh, khi cần, quân tiếp viện sẽ được trực thăng ào ạt chở tới, đáp trên sàn
tàu, mở đường, phản công và tản thương rất hữu hiệu. Nên mỗi khi thấy chiến
đỉnh của Thuỷ Bộ xuất hiện, địch chỉ c̣n có hai cách: nằm im, ẩn ḿnh; hoặc
chẳng đặng đừng th́ liều lĩnh khai pháo rồi "chém vè" (chạy) để gục chết nát
thây mà thôi. V́ thế những vị chỉ huy trưởng bên Bộ Binh đều muốn có những
chiến đỉnh của Lực Lượng Thuỷ Bộ hoạt động trong vùng trách nhiệm của ḿnh.
Trong những cuộc hành quân sôi động, với một trực thăng biệt phái, ông Minh
hầu như hiện diện khắp nơi thuộc Vùng 4 Chiến Thuật. Những "đứa con" của
ông, hễ có đụng là đă thấy tiếng ông trên máy. Và khi khẩn cấp, ngặt nghèo,
không gọi, đă thấy ông bay trên đầu theo dơi, chỉ thị, hỗ trợ và tiếp cứu.
Hăy theo dơi một đoạn bút kư của anh Nguyễn đ́nh Sài, cựu sĩ quan trong Lực
Lượng Thuỷ Bộ, diễn tả lại một trong những cảnh bi hùng từng xẩy ra trên bao
nhiêu khúc sông oan nghiệt trong cuộc chiến ở đồng bằng sông Cửu Long:
"...Tôi đang chỉ thị cho hai chiếc Alpha đến kéo chiếc Monitor bị đạn ra th́
bỗng thảm hoạ sẩy ra trước mắt. Thuỷ thủ LVN trên chiếc Tango Bạch Hổ vừa
trong ụ súng khẩu đại liên 20mm bước ra ngoài, có lẽ không khí trong thành
sắt quá hầm. Một tiếng "phụt" vang lên, thây anh ngă vật xuống sàn, cái đầu
văng đâu mất tiêu. Trái B41 không biết từ đâu bay tới hớt gọn cái đầu của
anh, rồi lướt qua sàn platform, nổ tung giữa sông... Tôi dùng máy báo cáo
với "Thẩm Quyền" đang bay trực thăng ở hướng tây, miệt Kiên Hưng. Qua tiếng
nói, tôi nhận ra giọng nói của "Thẩm Quyền", chính là Đại Tá Hoàng cơ
Minh... Ông bảo đợi đó, đă có tiếp vận và tải thương đang trên đường đến.
Thế là ông bay đi... Khoảng hơn giờ sau th́ có tiếng máy tàu vọng đến từ hạ
gịng. Một đoàn giang đỉnh 5 chiếc gồm 3 Alpha và 2 Monitor im lặng vô tuyến
chạy vào, đến gần mới sang tần số hành quân để liên lạc. Qua ánh đèn pin
chiếu xuống sàn tàu hắt lên, tôi giật ḿnh kinh ngạc, nhận ra người đầu tiên
nhảy sang tàu tôi chính là Đại Tá Hoàng cơ Minh, Tư Lệnh Lực Lượng Thuỷ Bộ.
Ông Minh bước đến xác thuỷ thủ N., lật tấm mền ra, cố ôm cái xác cụt đầu
lên, cằm ông bạnh ra như muốn ḱm chế nỗi thương tâm người thuộc cấp và ḷng
oán hận kẻ thù. Mọi người lặng đi trong nỗi xúc động tột cùng. Suốt cả đời
tôi không bao giờ quên cảnh tượng bi hùng trong giờ phút ấy..." Đọc đoạn búy
kư này tôi rùng ḿnh kinh sợ, hai tay nổi gai. Nhưng trong Hải Quân, ai đă
dấn thân vào những "vùng tử địa" như U Minh Thượng, U Minh Hạ dưới quyền chỉ
huy của tướng Minh, đều có những kỷ niệm lạnh ḿnh lo sợ, lẫn sững sờ mừng
vui khi thấy vị Tư Lệnh của ḿnh bất ngờ xuất hiện như thế. Những cảnh huống
ấy mỗi lúc mỗi nhiều, chồng lớp và biến thể, thêm bớt thành những huyền
thoại bao phủ h́nh ảnh của niên trưởng Hoàng cơ Minh.
* * *
Nói đến những con kinh quan trọng trong đồng bằng sông Cửu Long, phải nói
đến kinh Phụng Hiệp, dài 140 cây số, nối liền ba tỉnh An Xuyên, Ba Xuyên và
Cần Thơ. Đặc biệt Ngă Bảy Phụng Hiệp là cửa ngơ, nơi hội tụ và phân chia của
ghe thuyền tới những vùng đất mầu mỡ quan trọng của châu thổ Cửu Long, như
trái tim chuyển máu đi nuôi toàn thân thể: từ Phụng Hiệp đi Cái Côn đổ ra
sông Hậu Giang; từ Phụng Hiệp xuôi kinh Búng Tàu đi Năm Căn, Vĩnh Thuận, Cà
mau; từ Phụng Hiệp theo kinh Lái Hiếu qua Trà Bang, Long Mỹ đi Chương Thiện,
Rạch Giá... Bốn ngả c̣n lại nối liền kinh rạch trong phạm vi tỉnh, huyện như
Xẻo Môn, Sóc Trăng. V́ sự quan trọng này mà máu xương của người lính hai bên
trận tuyến đă liên tiếp gặp gỡ, đổ ra để giành giựt sự kiểm soát thuỷ lộ
huyết mạch này, như nhận định của Phó Đề Đốc Đinh mạnh Hùng, Phụ Tá Tư Lệnh
Hành Quân Sông: "Kinh Phụng Hiệp thuộc hệ thống thuỷ lộ đi từ Hậu Giang,
tỉnh Phong Dinh đến Cà Mâu, tỉnh An Xuyên. Quận Phụng Hiệp, Phong Dinh, nơi
gặp gỡ của nhiều con kinh, ranh giới của hai tỉnh Ba Xuyên và Chương Thiện.
Đây là thuỷ lộ huyết mạch chuyển vận lúa gạo và hàng hoá giữa các tỉnh miền
Hậu Giang với miền Đông, nên rất quan trọng cho nền kinh tế quốc gia".
Khi làm Tư Lệnh Lực Lượng Thuỷ Bộ, ông Minh đă có mặt trên những khúc thuỷ
tŕnh sắt máu này, như những người lính tiền phong tiến vào vùng lửa đạn.
Theo lời kể của anh Lư anh Kiệt, Tham Mưu Phó Hành Quân , kiêm Trưởng Pḥng
3 của Lực Lượng này trong các năm 1973-75, như sau: "Dọc theo kinh Phụng
Hiệp, từ Cần Thơ đi Sóc Trăng dài hun hút, năm 1974, gần 50 đồn bót bị Cộng
Quân san bằng. Tư Lệnh Quân Đoàn 4 ra lệnh: bằng mọi giá phải xây dựng lại.
Trong cuộc hành quân này vai tṛ của Hải Quân rất là nặng nề: Dùng đường
thuỷ mở lại đầu cầu. Chở Bộ Binh tái chiếm. Yểm trợ Bộ Binh xây dựng lại đồn
bót. Đặc biệt chú trọng đến công tác Tâm Lư Chiến, Dân Sự Vụ, giúp dân xây
dựng lại cửa nhà. Như thế trong vùng "xôi đậu" này, dưới nước thuỷ lôi nhiều
như dừa khô; Trên bờ địch lẩn trong dân như trấu. Vậy mà trên chiếc xe Jeep
chạy dọc theo bờ kinh dài hun hút, tướng Minh vẫn ra lệnh cắm hiệu kỳ 1 sao
phấp phới. Khi di chuyển dưới nước, khai diễn cuộc hành quân, ông ngồi trên
mui chiếc Fom, đi đầu đoàn chiến đỉnh, ngôi sao bạc vẫn lấp lánh trên vai
áo. Ḿnh đi theo ông, thấy ông như thế, chẳng lẽ ngồi trong ḷng tàu, đành
cũng phải đứng quanh quẩn sau ông. Một tràng đại liên, một quả B40 phụt ra
là tất cả Bộ Tham Mưu Lực Lượng bay hết. Không giải thích được. Có lẽ ông
Minh tin mạnh mẽ vào cung mệnh của ḿnh trong lá số tử vi. Và có lẽ địch
cũng không thể ngờ trên một chiến đỉnh nhỏ bé ấy lại có một ông tướng ngồi
trên mui tàu, dẫn đầu cuộc hành quân."
Nói về ăn uống, có nhiều người vẫn cho rằng Hải Quân sang trọng, ăn uống
kiểu cách, thừa mứa. Điều ấy có lẽ khá đúng trong thời gian đầu dưới quy chế
của Hải Quân Pháp mà thôi. Sau này, nhất là trong giai đoạn cam go của cuộc
chiến, mọi quân nhân, bất cứ cấp bậc, và quân binh chủng nào, cuộc sống đều
rất kiệm ước, khó khăn. Phó Đề Đốc Đặng cao Thăng, xuất thân từ trường sĩ
quan danh tiếng của Pháp, trường Brest, cho hay: "Lương lậu chúng tôi chỉ đủ
ăn. Hàng ngày chúng tôi dùng cơm trong Câu Lạc Bộ, kể cả tướng Nguyễn khoa
Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn. Tôi đôi khi ăn cơm gánh (tà lọt) mua về từ chợ Cần
Thơ."
Tướng Hoàng Cơ Minh chẳng những không ra ngoài thông lệ ấy, mà ông c̣n giản
dị hơn nhiều. Anh Lư anh Kiệt cho hay: "Hàng ngày ông Minh ăn trong Câu Lạc
Bộ như những sĩ quan khác. Nếu bất ngờ có khách, ông sai mổ ngay một con
heo... (hộp). Thuốc th́ như lính, rặt Bastos xanh, khét lẹt. Khi bay thị sát
chiến trường hay thăm viếng các đơn vị trực thuộc, ông và đoàn tuỳ tùng, mỗi
người đem theo một ổ bánh ḿ dài, hay mấy bị cơm sấy và một bi-đông nước.
"Tránh làm phiền những đơn vị", ông luôn nhắc nhở các sĩ quan như thế. Lúc
rảnh rỗi ông nghiền ngẫm bộ Tam Quốc Chí. Trong khi tụi tao th́ nghiện Cô
Gái Đồ Long. Ông bảo: Nhà binh phải thuộc Tam Quốc Chí. Hay lắm, áp dụng vào
thực tế vẫn hữu ích vô cùng..."
Nhân câu chuyện này cũng khiến tôi nhớ đến bữa tiệc được tổ chức tại Bộ Tư
Lệnh Thuỷ Bộ vào năm 1973, khoản đăi Tư Lệnh Hải Quân và phái đoàn thanh
tra. Bữa tiệc diễn ra đúng nghi lễ. Các sĩ quan chủ cũng như khách mặc tiểu
lễ trắng, lon vàng mới óng ánh, giây biểu chương và huy chương cuống rực rỡ.
6 người một bàn. Các bàn kê sát nhau thành một hàng dài, trải khăn bàn trắng
tinh. Tư Lệnh Hải Quân ngồi ở đầu bàn, chỗ ngồi danh dự nhất. Đối diện với
Tư Lệnh, cuối dăy bàn là vị trí của vị sĩ quan ít thâm niên nhất, và đương
nhiên là Sĩ Quan Ẩm Thực. Trước khi vào tiệc, Sĩ Quan Ẩm Thực đứng lên,
trịnh trọng đọc thực đơn, đúng theo truyền thống Hải Quân trong những bữa
tiệc quan trọng. Nhưng thực đơn hôm ấy chỉ là mấy món ăn đơn giản như một
bữa cơm thường trong Câu Lạc Bộ gồm thịt kho, dưa giá. Món canh là một con
vịt hầm rất kỹ trong một nồi lớn, đầy nước đang xôi, bốc khói nghi ngút. Bên
cạnh đó là một đĩa rau sống khổng lồ, để nhúng vào nồi nước hầm vịt. Vị Sĩ
Quan Ẩm Thực h́nh như đă được học tập, chỉ thị chu đáo, nên đă tŕnh bày khá
tỷ mỉ và duyên dáng về món ăn "quan trọng" này. Đó cũng là món chính, món
cuối cùng. V́ sau món đó là đồ tráng miệng bằng chuối. (Có nghĩa là bữa ăn
chỉ có thế thôi, không c̣ ǵ thêm nữa đâu). Tôi có tham dự bữa ăn này, v́
lúc ấy tôi là Trưởng Pḥng Tâm Lư Chiến, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, tháp tùng Đô
Đốc Tư Lệnh trong phái đoàn thanh tra. Nghe đọc thực đơn chúng tôi không dám
cười. Mọi người không ai dám cười, v́ bữa ăn này c̣n là một nghi lễ, được
đánh giá, cho điểm như một sinh hoạt của đơn vị. Sau tôi có hỏi một sĩ quan:
Sao lại đơn sơ quá vậy? Vị sĩ quan này cho biết: "Tư Lệnh chúng tôi không
đồng ư để các sĩ quan phải đóng nhiều tiền đăi khách. Thuỷ Bộ hành quân liên
miên, không có một ngân quỹ nào để khoản đăi phái đoàn." Việc này, mới đây
(tháng 12, 2002), tôi có nhắc lại với anh Lư anh Kiệt. Anh Kiệt nói: "Ông
Minh lúc đầu c̣n chỉ thị tụi tao sẽ thu tiền ăn các người tham dự, trừ Đô
Đốc Tư Lệnh Hải Quân mà thôi. Thấy kỳ quá, chính tụi tao bỏ tiền ra đăi
khách, ông Minh không biết. Không ai dám cho ông biết sự thật đó cả. Cũng v́
thế bữa tiệc cũng không dám bày vẽ ǵ thêm". Vẫn lời anh Lư anh Kiệt: "Cũng
không biết thế nào mà nói. Ông can trường, giản dị và liêm khiết như tao
biết đă đành. Nhưng có những điều tao nghĩ không ra. Như hồi 1974, đoàn
convoi do giang đoàn của Quyên (Thiếu Tá Nguyễn ngọc Quyên) khoá ḿnh hộ
tống, gặp tụi Việt Cộng tấn công tàn bạo quá ở khúc sông khúc khuỷu Cổ C̣.
Quyên kêu cứu tao, là Tham Mưu Phó Hành Quân kiêm Trưởng Pḥng 3, tao tŕnh
lên ông, ông thuận, rồi tao xỉ một đơn vị thuộc Lực Lượng Thuỷ Bộ đang hành
quân gần đó cấp tốc đến tiếp cứu, giải vây. Đoàn giang vận mấy chục chiếc,
chở hàng ngàn tấn gạo, cá mắm, khi bị tấn công, chạy tản mát tứ tán, được
tụi tao gom lại đầy đủ. Đoàn convoi tiếp tục lên đường về Sài G̣n, không rơi
một hạt thóc. Ít tháng sau, nhân Sinh Nhật Một Năm của Lực Lượng, chủ đoàn
convoi t́m đến Bộ Tư Lệnh Thuỷ Bộ, với tinh thần hậu phương yểm trợ tiền
tuyến, xin ủng hộ Lực Lượng một triệu đồng để Lực Lượng làm lễ liên hoan.
Tao mừng, và tŕnh lên ông Minh. Ông không cho nhận, c̣n xạc tao một trận.
Thật không biết sao mà nói." Từ những can trường, dũng mănh và hành xử đặc
biệt ấy, ông Minh đă thăng hoa, đeo sao ở Lực Lượng Thuỷ Bộ, qua mặt rất
đông những vị đàn anh. Từ đó lớp hào quang và huyền thoại quanh ông hầu như
mỗi lúc mỗi thêm dày đặc. Có những phỏng đoán, đồn đại: ông Minh sẽ nắm chức
vụ này, chức nọ nay mai. Sau đó là lúc đất nước đến hồi nghiêng ngửa, vào
tháng 3 năm 1975, tướng Minh được chỉ định ra Miền Trung làm Tư Lệnh Vùng 2
Duyên Hải. Một vùng duyên hải dài nhất trong 5 vùng, chạy dài từ Quy Nhơn
đến Phan Thiết, gồm những duyên đoàn 21 đóng tại Tam Quan, Hải Đội 2 Duyên
Pḥng đóng tại Quy Nhơn (căn cứ cũ của Duyên Đoàn 22 đă giải tán), Duyên
Đoàn 23 tại Sông Cầu, duyên đoàn 25 tại Ḥn Khói, duyên đoàn 26 tại B́nh Ba,
duyên đoàn 27 tại Ninh Chữ và duyên đoàn 28 tại Phan Thiết. Bộ Tư Lệnh Vùng
2 Duyên Hải đóng tại Cam Ranh, chỉ huy tất cả 6 duyên đoàn, và mấy chục
Duyên Tốc Đỉnh của Hải Đội Duyên Pḥng, những cơ sở tiếp vận sửa chữa, các
đài kiểm báo trong vùng và những chiến hạm của Hạm Đội biệt phái. Ngày 31
tháng 3, Quy Nhơn địa đầu cực Bắc của vùng 2 Duyên Hải ở trong t́nh trạng
nguy ngập. Ngoài những đơn vị cơ hữu trực thuộc, trên mặt biển ngoài khơi
Quy Nhơn có những chiến hạm sau đây từ Sài G̣n biệt phái hiện diện, đặt dưới
quyền điều động của tướng Hoàng cơ Minh: HQ 2, HQ 3. HQ 7, HQ 400, HQ 403,
HQ 406, HQ 505 và một số những chiến hạm nhỏ. Tướng Minh hiện diện trên Tuần
Dương Hạm Trần nhật Duật, HQ 3, do HQ Trung Tá Nguyễn kim Triệu làm Hạm
Trưởng, tướng kỳ 1 sao trắng trên nền xanh, phấp phới trên kỳ đài. Sáng ngày
31 tháng 3, lệnh từ Sài G̣n, chỉ thị cho Hải Quân vào băi biển Quy Nhơn bốc
Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Hai hải vận hạm HQ 403 và HQ 400, dưới sự đôn đốc của HQ
Trung Tá Lê thuần Phong, Chỉ Huy Trưởng Hải Đội Chuyển Vận, ủi băi Quy Nhơn,
trước trường Sư Phạm để đón quân của Sư Đoàn 22 đang có mặt trên băi. Nhưng
tàu vừa hướng mũi vào băi ủi, bị hoả lực của địch bắn ra quá mạnh. B40 nổ
tung phía trước. Chiến hạm phải lùi ra, trong nhiệm sở tác chiến, đồng thời
thả thang giây và lưới hai bên hông chiến hạm để anh em Bộ Binh leo lên tàu.
Do đó quân từ trên bờ của Sư Đoàn 22 Bộ Binh phải liều chết bơi ra tàu. Cuộc
vớt người diễn ra trên vùng biển Quy Nhơn suốt ngày đêm rất khó nhọc, bi
thương, nhưng không đến nỗi ngập máu như ở Đà Nẵng. Biển êm. Tàu chỉ lùi ra
ở độ xa vừa phải, ngoài tầm đạn địch, dùng hoả lực cơ hữu của chiến hạm phản
pháo và bắn cản địch đang tiến tới ở trên bờ, phía sau anh em Sư Đoàn 22 Bộ
Binh. Trong số những quân nhân bơi ra biển và được chiến hạm Hải Quân vớt,
có cả Thiếu Tướng Phan đ́nh Niệm, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Lên được chiến
hạm HQ 400, tướng Niệm ở trong t́nh trạng suy nhược nặng nề cả thể chất lẫn
tinh thần. Ông được săn sóc đặc biệt, v́ HQ 400 vốn là một bệnh viện hạm.
Tất nhiên mọi quân nhân của SưĐoàn này lên được chiến hạm, ai cũng sũng
nước, đói khát nằm lăn ra sàn tàu, không c̣n hàng ngũ ǵ nữa. Thiếu Tướng
Phạm văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn 2, chỉ định Tướng Minh thay thế tướng Niệm,
kiêm nhiệm Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh và Tư Lệnh chiến trường B́nh Định.
2 giờ sáng ngày 2 tháng 4, Tướng Minh nhận được lệnh từ Sài G̣n qua Bộ Tư
Lệnh Hải Quân và trên Đài Quân Đội thông báo: Tổng Thống Thiệu bổ nhiệm
tướng Minh làm Tổng Trấn Quy Nhơn. Tướng Minh có toàn quyền điều động tất cả
lực lượng tại địa phương để tái chiếm Quy Nhơn, gồm Sư Đoàn 22 BB, Biệt Động
Quân, Địa Phương Quân, Hải Quân. Trung Tá Nguyễn kim Triệu, Hạm Trưởng HQ 3,
nhớ lại, cho biết: "Để thi hành lệnh này, sáng sớm ngày 2 tháng 4, ông Minh
chỉ thị các chiến hạm hiện diện, túc trực ở sát bờ biển Quy Nhơn, sẵn sàng
nhận lệnh cuả ông từ trong bờ. Đích thân tướng Minh và Bộ Tham Mưu nhẹ, rời
HQ 3, xuống chiến đỉnh nhỏ vào Bộ Chỉ Huy Hải Đội 2 Duyên Pḥng, để trực
tiếp nắm vững t́nh h́nh trên bộ. Từ đây những liên lạc hàng dọc, cũng như
hàng ngang với các đơn vị bạn đă vắng ngắt. Nhất là trên các tần số liên lạc
với Sư Đoàn 22 Bộ Binh, không c̣n ai nghe nữa. Riêng về Tướng Phan đ́nh
Niệm, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BB, v́ sức khoẻ suy kiệt, được điều trị trên Bệnh
Viện Hạm HQ 400, đang ở ngoài khơi Vũng Tàu, trên đường về Sài G̣n. Trước
hoàn cảnh này, tướng Minh trở lại HQ 3, tường tŕnh về Sài G̣n. Tất cả các
chiến hạm biệt phái cho Vùng 2 Duyên Hải và các chiến đỉnh trực thuộc, theo
lệnh tướng Minh, xuôi Nam." Trên đường xuôi Nam, các chiến hạm nối đuôi
nhau, uy nghiêm, thứ tự như diễn hành thao dượt. Vẫn lá cờ xanh, một ngôi
sao trắng trên cánh phải của cột cờ, phấp phới tung bay. Biển êm như mặt
kính, chưa bao giờ lại êm như thế. Các chiến thuyền của các Duyên Đoàn, nhất
là các Duyên Tốc Đỉnh của Hải Đội Duyên Pḥng chở theo đầy người, quân nhân
và gia đ́nh, chạy dọc theo hai bên đoàn tàu. Những ghe dân túa ra như lá
tre. Tướng Minh ra lệnh cho các chiến đỉnh, chiến thuyền của đơn vị thận
trọng để tránh địch và những phần tử vô kỷ luật gây xáo trộn; và tuỳ khả
năng, các chiến đỉnh cố gắng cứu vớt hoặc trợ giúp mọi người. Nếu vớt được
quá đông người th́ ghé vào các chiến hạm lớn, san người lên đó. Bất cứ quân
nhân nào bước lên chiến hạm, chiến đỉnh, nếu có khí giới, đều phải giao nộp,
cất vào kho. Trở lại Bộ Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải tại Cam Ranh, ông Minh dùng
trực thăng thị sát mặt trận, theo dơi t́nh h́nh trong vùng trách nhiệm, và
ra lệnh cho các chiến hạm tận dụng hải pháo bắn ngăn chặn bước tiến của Bắc
quân, phá sập những cây cầu quan trọng. Cam Ranh xáo trộn. Ông trở lại HQ 3,
tiếp tục xuôi Nam. Ông ra lệnh phá huỷ Trung Tâm Phát Tuyến trên đảo Cam
Ranh. Chiều ngày 3 tháng 4, hải đoàn đi ngang Duyên Đoàn 27 ở Ninh Chữ,
tướng Minh rời HQ 3, sang Tuần dương Hạm HQ 2, do HQ Trung Tá Đinh mạnh
Hùng, khoá 11 (trùng tên với Phó Đề Đốc Đinh mạnh Hùng), làm Hạm Trưởng. Hạm
Trưởng Hùng và toán dàn chào đón đợi ở hạm kiều và hướng dẫn tướng Minh lên
Trung Tâm Chiến Báo (CIC) của chiến hạm. Tại đây tướng Minh lại tiếp tục
theo dơi trận liệt và chỉ huy mặt trận tại địa phương. Ngày 15 tháng 4,
tướng Minh đáp trực thăng vào phi trường Phan Rang, quê hương của Tổng Thống
Nguyễn văn Thiệu, họp cùng Trung Tướng Nguyễn vĩnh Nghi, Tư Lệnh Mặt Trận
Phan Rang; Chuẩn Tướng Nguyễn văn Nhựt (Sư Đoàn 2 Bộ Binh); Chuẩn Tướng Phạm
ngọc Sang, Tư Lệnh SĐ 6 KQ và một số sĩ quan khác, để cùng phối hợp hoạt
động tại mặt trận này. Trung Tá Đinh mạnh Hùng cho hay: "Mới xong phần giới
thiệu thành phần tham dự, th́ có tin phi trường đă bị địch bao vây, buổi họp
giải tán ngay. Tướng Minh cấp tốc được trực thăng bốc ra Soái Hạm HQ 3". Tối
16 tháng 4, t́nh h́nh Phan Rang trở nên sôi động. Tăng T54 của địch nằm ngay
băi biển Phan Rang, chĩa súng ra khơi. Dương vận Hạm HQ 503 do HQ Trung Tá
Nguyễn văn Lộc, khoá 11, vào gần bờ phản pháo. Khi HQ 503 quay ngang để tận
dụng hết khả năng hoả lực bắn vào bờ, Việt Cộng dùng đại bác 105 ly lấy được
của ḿnh bắn trực xạ ra chiến hạm. Một trái đại bác trúng đài chỉ huy, nổ
tung, Hạm Trưởng Lộc bị thương vào đầu, máu ra sối xả, nhưng ông vẫn b́nh
tĩnh ra lệnh cho tàu rút ra khơi. (Cho đến nay, gần 30 năm, mảnh đạn vẫn
trong đầu của Hạm Trưởng Lộc, v́ không thể giải phẫu, lấy mảnh đạn ra. Giải
phẫu là chết. Ông hiện ở trong t́nh trạng khi đau, khi tỉnh). HQ 3, HQ 505
và HQ 406 cũng đổi vị thế, lùi ra ngoài tầm bắn của địch. Ngày 17 tháng 4,
HQ 406 chở Cảnh Sát Dă Chiến, dự trù đổ bộ tăng cường cho Phan Rang, không
thành, được lệnh về Cát Lở. HQ 505 nằm ngoài khơi vịnh Phan Rang chờ lệnh.
HQ 3 được lệnh đưa phó Đề Đốc Hoàng cơ Minh trở lại Sài G̣n. HQ 3 đặt dưới
quyền điều động của Phó Đề Đốc Nguyễn hữu Chí, Phụ Tá Hành Quân Biển. Trong
khi đó, Trung Tướng Nguyễn vĩnh Nghi, Tư Lệnh mặt trận Phan Rang và Chuẩn
Tướng Phạm ngọc Sang, Tư Lệnh SĐ6KQ bị địch bắt. Tin này được loan báo trên
đài phát thanh Sài G̣n. Đài phát thanh Hà Nội cũng loan tin này với những
lời phát biểu ngắn của chính Trung Tướng Nguyễn vĩnh Nghi. Mặt trận Phan
Rang vỡ. Cứ điểm chống cự sống chết của Sài G̣n bây giờ là Xuân Lộc.
* * *
Từ mặt trận Vùng 2 Duyên Hải trở về, đóng tại Cát Lái, Phó Đề Đốc Hoàng cơ
Minh làm việc với Phó Đề Đốc Đinh mạnh Hùng, Phụ Tá Tư Lệnh Hải Quân, đặc
trách Hành Quân Sông. Trong hàng tướng lănh Hải Quân, dưới Phó Đô Đốc Chung
tấn Cang, 3 sao, Tư Lệnh Hải Quân, Phó Đề Đốc Đinh mạnh Hùng, 1 sao, là
người thâm niên nhất. (Hai vị tướng 2 sao khác là Đề Đốc Trần văn Chơn, cựu
Tư Lệnh Hải Quân, th́ đă về hưu; Đề Đốc Lâm ngươn Tánh, cựu Tư Lệnh Hải Quân
th́ được biệt phái sang Phủ Quốc Vụ Khanh, lo cho người tỵ nạn). Tướng Hùng
xuất thân khoá 2 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, từng lần lượt đảm nhiệm nhiều
chức vụ quan trọng. Ông cũng được tiếng là một vị sĩ quan cẩn trọng, lịch
duyệt, kín đáo, được thượng cấp tin cẩn và thuộc cấp kính trọng. Trong cuộc
nói chuyện với Đô Đốc Chung tấn Cang, chúng tôi có hỏi rằng: "Ai là người có
công nhất trong việc đem đoàn tàu ra khơi?" Đô Đốc Cang cho biết: "Hải Quân,
như một chiếc tàu, không ai làm việc được một ḿnh. Mọi thành công lớn, nhỏ,
đều là công sức của tập thể, của nhiều người. Nhưng riêng trong việc đem
đoàn tàu ra khơi, người có công nhất, ngày đêm lo cho đoàn tàu, là ông Hùng.
Phó Đề Đốc Đinh mạnh Hùng..." Trong khi đó, là một sĩ quan Hải Quân di tản
trên con tàu Thị Nại, HQ 502, một con tàu hỏng máy, chở theo trên 5000 người
lênh đênh, khốn khổ lết ra được ngoài khơi Côn Sơn, khi kêu cứu, liên lạc,
chúng tôi chỉ thấy tiếng nói của tướng Hoàng cơ Minh trên máy. Do đó chúng
tôi có nêu thắc mắc này với Tướng Đinh mạnh Hùng. Tướng Hùng trả lời đại ư:
"Ở trên HQ 3, Soái Hạm, trên hết là Đô Đôc Chung tấn Cang, c̣n có Phó Đề Đốc
Diệp quang Thuỷ, rồi sau đó c̣n có Phó Đề Đốc Nghiêm văn Phú và một số Đại
Tá. Trước khi đoàn tàu lên đường, chúng tôi có mời những vị tướng lănh, các
vị sĩ quan cao cấp ở những tàu khác sang họp. Sau, ai về tàu nấy với gia
đ́nh. C̣n lại trên tàu, tôi thỉnh ư, nhận lệnh từ Đô Đốc Cang, rồi cùng bàn
bạc mà thi hành. Đúng, các anh chỉ nghe thấy tiếng ông Minh trên máy. V́
trong chuyến hải hành đặc biệt này, để tránh ngộ nhận và rối loạn tần số,
ông Minh được Đô Đốc Cang chỉ định trách nhiệm về liên lạc chỉ huy từ Soái
Hạm, một tiếng nói chính thức và duy nhất. Ông Minh làm việc rất chuyên cần,
24/24, hầu như không biết mệt. Tiếng ông Minh rơ ràng, có hùng lực, được anh
em Hải Quân biết tới nhiều và kính trọng." Chúng tôi cũng đem ư kiến này hỏi
Trung Tá Nguyễn kim Triệu, Hạm Trưởng HQ 3, ông Triệu cho hay: "Trong pḥng
Chiến Báo (CIC), chỉ có ông Hùng và ông Minh luôn túc trực, theo dơi mọi
diễn tiến của Hạm Đội, nhận lệnh từ Đô Đốc Cang mà thi hành. Cả hai ông ấy
đều làm việc rất nhiều, mỗi người mỗi việc, rất là nghiêm túc. Ông Hùng th́
trông nom tổng quát. Ông Minh trực tiếp điều động. Tôi (Hạm Trưởng HQ 3),
nhận lệnh từ 2 vị này, lo cho con tàu của ḿnh mà thôi." * * * Bây giờ gần
30 năm giă từ quân ngũ. Tuỳ khả năng và hoàn cảnh, mỗi người phải bắt đầu
làm lại cuộc sống từ con số không. Chẳng c̣n ai to, ai nhỏ nữa. Những t́nh
cảm, kính trọng đối với nhau, tất nhiên không phải là những cấp bậc cao thấp
khi xưa, mà là tư cách của mỗi cá nhân c̣n đọng lại trong trí nhớ của nhau.
Tập thể nào cũng có những kẻ bất xứng, lợi dụng đục nước thả câu. Nhưng
trong gia đ́nh Hải Quân không thiếu những người đầy tư cách, trong đó có
niên trưởng Hoàng cơ Minh. Trong những kỷ niệm đáng nhớ với tướng Minh, tôi
đặc biệt nhớ hai sự việc này: Thứ nhất, khi Hạm Đội Việt Nam Cộng Hoà tới bờ
biển Phi Luật Tân, chính tiếng ông Minh trên máy, chuyển công điện cuối cùng
của Hải Quân, như sau:
Nhóm ngày giờ: 071010H/05/75. From: của HQ 3. To: Tất cả các chiến hạm. Để
chuyển giao các chiến hạm cho Hải Quân Hoa Kỳ/ Yêu cầu các nơi nhận chuẩn bị
thi hành khi có chỉ thị / Các chiến hạm tự tổ chức làm lễ hạ quốc kỳ Việt
Nam và trương quốc kỳ Hoa Kỳ / Tiểu đỉnh của Hoa Kỳ sẽ sơn và xoá tên chiến
hạm Việt Nam ở sau lại / Giờ giấc thi hành sẽ thông báo sau / Hết.
Từ công điện này, vào hồi 12 giờ ngày 7 tháng 5 năm 1975, trên Biển Đông,
các chiến hạm của VNCH đă cùng nhau làm lễ chào cờ lần cuối và hạ quốc kỳ
VNCH xuống. Những xúc động khôn cùng đă lưu lại trong bao nhiêu trái tim đau
khổ. Phút chốc cả đoàn tàu dũng mănh, nghiêm túc, đủ loại của Hải Quân Việt
Nam, giờ đă phấp phới quốc kỳ Mỹ, lần lượt cập cầu căn cứ Subic của Mỹ ở Phi
luật Tân. Đoàn người từ các chiến hạm lũ lượt mang hành lư sang con tàu buôn
Green Forrest. Một con tàu chở hàng khổng lồ. Những khoang trống, sâu hun
hút rộng thênh, bây giờ được bắc tạm những cầu thang gỗ để lên xuống. Đoàn
người như một thứ hàng hoá không c̣n giá trị, xô bồ, đầy bất chắc, xúc động,
rất dễ bùng lên thành những xáo trộn khó lường, khó xử, như mới chỉ vài tuần
trước đây đă từng xẩy ra trên chính con tàu này khi di chuyển người từ Đà
Nẵng vào Phú Quốc. Theo sự cho biết của Phó Đề Đốc Đặng cao Thăng th́: "Các
vị Tư Lệnh, phần lớn là cấp tướng, được Mỹ chở thẳng vào Guam bằng máy bay.
Riêng ông Minh, ông t́nh nguyện đi tàu biển cùng với anh em thuỷ thủ đoàn và
dân chúng. Cuộc đi khá dài, cực khổ, tế nhị. Sự hiện diện của ông Minh, theo
tôi, đă giữ tinh thần cho anh em rất nhiều." Kỷ niệm đáng nhớ thứ hai, vào
trung tuần tháng 5 năm 1975, trong khu lều vải Orote Point, Guam, với tư
cách cá nhân, tướng Minh đă t́m đến đây để sinh hoạt với anh em Hải Quân.
Trong bơ vơ và tràn đầy xúc động, nhiều anh em đă ngẹn ngào nêu những thắc
mắc, phẫn nộ liên hệ đến một vài tin đồn, những hành động bất xứng của người
này, người khác. Ông Minh, rất b́nh tĩnh giải đáp và khuyên can. Đặc biệt,
để kết luận, ông đă nói: "Việc anh nêu lên là thượng cấp không ai có ư kiến
ǵ hướng dẫn anh em. Điều này quả thực tôi cũng có nghĩ đến, nên hôm nay mới
t́m đến đây với anh em. Song đó chỉ là ư kiến cá nhân tôi, c̣n các vị khác,
theo như tôi biết, tất cả c̣n rất bàng hoàng. Mọi việc đă xẩy ra ngoài dự
trù của chúng ta. Dù ai có ư kiến ǵ lúc này chắc cũng không thể nào thi
hành được. Một ván cờ đă xoá. Mọi việc đă xong. Điều mà chúng ta phải làm
là, ngoài việc định cư trên đất mới, chúng ta phải sáng suốt t́m hiểu mọi
diễn tiến của thời cuộc, và đặc biệt giữ lấy mối căm thù mất nước ngày hôm
nay. Từ đó chúng ta sẽ đoàn kết lại mưu cầu một vận hội mới sau này.”
* * *
Để có một cái nh́n cụ thể, một nhận định đă trực tiếp ảnh hưởng đến binh
nghiệp của ông Minh, bài viết này đă được gửi lên vị cựu Tư Lệnh Hải Quân,
người đă phê điểm và đề nghị ông Minh lên tướng, Đề Đốc Trần văn Chơn đă đọc
rất kỹ và ghi chú: "Anh viết đúng lắm. Ông Minh là một người tài giỏi. Khi
làm Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân, ông Minh đă
chứng tỏ được ḷng hăng say, nhiều sáng kiến trong lănh vực tham mưu. Khi
được giao trách vụ Tư Lệnh Lực Lượng Thuỷ Bộ, hơn ai hết, ông Minh đă tỏ ra
can trường và rất là tháo vát. Lực Lượng của ông không chỉ đă góp công trong
việc khai thông kinh Phụng Hiệp, giữ huyết mạch kinh tế giữa Sài G̣n và vùng
châu thổ Cửu Long giang, mà Lực Lượng Thuỷ Bộ dưới quyền chỉ huy trực tiếp
của ông Minh đă quần nát vùng U Minh Thượng, U Minh Hạ, mật khu an toàn và
hậu cần căn bản của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại về nhiều mặt, ảnh
hưởng rất lâu dài. Ông Minh khoá 5, khi lên tướng mới 38 tuổi, trẻ nhất
trong hàng tướng lănh Hải Quân, vượt qua nhiều vị đàn anh, chính v́ ông Minh
đă có đủ Tài, Đức và ḷng Dũng Cảm. Trong danh sách, tôi đề nghị ông Minh
cùng một vài vị Đại Tá khác thâm niên hơn ông Minh. Tôi nghĩ rằng Tổng Thống
Thiệu đă chọn ông Minh chính nhờ ḷng dũng cảm hơn người của ông Minh. Nếu
vận hội b́nh thường, Miền Nam c̣n, tương lai của ông Minh, tôi nghĩ, sẽ vô
cùng sáng lạn. Sau này khi ông Minh lănh đạo Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất
Giải Phóng Việt Nam, th́ tôi c̣n ở tù. Việt Cộng tỏ ra rất căm tức và có hỏi
tôi rất nhiều về ông Minh. Tôi đă hết lời ca ngợi và nói rằng ông Minh là
một vị tướng tài của Hải Quân Miền Nam".
* * *
Từ 1975 về sau, trong một vận hội mới, Phó Đề Đốc Hoàng cơ Minh là một khuôn
mặt xuất hiện trước ánh sáng của thời cuộc, với bao nhiêu vinh quang và hệ
luỵ vui buồn. Ông sinh ngày 20 tháng 6 năm 1935, đă hy sinh dũng liệt cùng
những chiến hữu tại Nam Lào ngày 28 tháng 8 năm 1987, trên đường trở về mưu
cầu giải phóng quê hương. Người viết không phải là thành viên của tổ chức
này, không nắm vững vấn đề, nên không dám đề cập, nhận định về những hoạt
động sau này của ông. Là một quân nhân cấp nhỏ, có một thời mặc cùng mầu áo
với ông, được tin ông nằm xuống, tôi rất bàng hoàng, xúc động và hết ḷng
kính ngưỡng. Tôi thu góp một số dữ kiện liên hệ trong thời quân ngũ của ông,
ghi lại thành bài viết này, thay cho một nén hương tưởng niệm, nghiêng ḿnh
kính cẩn trước anh linh của một vị chỉ huy mẫu mực, một vị tướng can trường,
một tấm gương thanh liêm và trong sáng của Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà. Hy
vọng bài viết này thay cho lời phân ưu muộn màng gửi tới đại gia đ́nh Hoàng
Cơ và phu nhân Phó Đề Đốc Hoàng cơ Minh. Chúng tôi cũng xin chân thành đa tạ
quư vị Đô Đốc, quư niên trưởng và các chiến hữu Hải Quân đă tận t́nh hỗ trợ,
cung cấp những dữ kiện liên hệ, cũng như chỉ cho những sai sót để bài viết
này được hoàn tất.
Phan lạc Tiếp