1 – Chính
khứá Lư Quí Chung lần hồi chuyển hướng.
Ngay từ những trang đầu
của hồi kư, Lư Quí Chung (LQC) không chối (mà c̣n khoe) y là một thanh
niên trốn quân dịch, ra đời trong gia đ́nh trung lưu tại
Mỹ Tho, sinh viên Quốc gia Hành chánh bỏ học, t́m các sinh sống trong
nghề báo từ 1960, lúc đầu phụ trách săn tin thể thao. Trong thế giới tứ
chiến giang hồ này, Chung trôi nổi từ báo B́nh Minh, Điện Tín
qua Tiếng Nóí Dân tộc, Tin Sáng... Nghề viết lách lần hồi đưa y
một cách bất ngờ vào chính trường hổn loạn của Miền Nam
thập niên 70. Khi Nguyển Cao Kỳ nắm chức vụ Chủ tịch Ủy ban Hành Pháp,
bộ trưởng Thanh niên Vơ Long Triều tuyển dụng Chung làm
phó giám đốc Nha Thể thao và sau đó, giám đốc Nha Tác động Tâm Lư. Người
giới thiệu gởi gấm Chung là đại tá Lê Quang Hiền, một thành viên trong
Uỷ ban hổn hợp bốn bên Tân Sơn Nhứt từng móc nối với phiá
Hànội và anh ruột của “liệt sĩ CS” Lê Quang Lộc.
Chung kể lại nơi trang
78- 79: Trước khi nhận lời, tôi có hỏi ư kiến cha tôi (Lư Quí Phát).
Không quay lại nh́n tôi, tiếp tục đọc báo, ông nói: “Có thằng điên
mới mời mày làm giám đốc! “ Với ông, đó là một chuyện khó tin, v́
trong con mắt của ông, tôi c̣n là một thanh niên hư hỏng.
Nhờ Vơ Long Triều can
thiệp với đại tá Nguyễn Đ́nh Vinh, đổng lư Bộ Quốc pḥng, Chung được
hoăn dịch một khoá. Chung viết: “Vơ Long Triều là thầy dùi, một trong
những đầu mối tập hợp quân cho tướng Kỳ. Người tài trợ cho
các ứng cử viên dân biểu được ông Triều tập hợp là tướng Kỳ chứ không ai
khác. Rất có thể ông Kỳ đă lấy tiền từ quỷ đen, caisse noire, dành cho
Thủ tướng để chi. Trong số người được ông Triều đưa vào danh sách ứng cử
có tôi..Ông Triều lúc đó vừa là người đứng đầu một tập hợp chính trị có
tên là Phong trào Phục Hưng Miền
Nam,
PTPHMN. Với sự hổ trợ tích cực phiá sau của thủ tướng Kỳ, ông Triều và
những người bạn thân thiết của ông như Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận, Hoàng
Ngọc Tuệ, Đổ Ngọc Yến, Trần Văn Ngô c̣n thành lập một phong trào hoạt
động xă hội có tên là Phong trào phát triển Quận 8. Phong trào này nhằm
hô hào chính quyền và dân chúng góp tay biến các khu ổ chuột thành những
khu dân cư khang trang”(trang 80-83).
Nhờ sự sắp xếp nói trên,
LQC, 26 tuổi, một trong bảy ứng cử viên chỉ định của PTPHMN, được lọt
năm 1966 vào Quốc hội lập hiến ( gồm có 117 dân biểu) của một chế độ
mà y gọi là “bát nháo, tham nhũng, mất định hướng, mỗi lúc một
suy tàn.” Chung thú nhận : “Tôi bước vào sân khấu chính trị không do
chính tôi chủ động mà do định mệnh (sic) chọn lựa”. Rỏ ràng chuột sa hủ
nếp! Cũng nhờ khéo chạy chọt, Chung được bầu trưởng khối
Dân tộc đối lập vớùi Nguyễn Văn Thiệu, gồm có các dân biểu
PTPHMN, Phật giáo và độc lập. Chung củng cố chức vị với vai tṛ chủ tịch
Ủûy ban điều tra vụ ám sát dân biểu Trần Văn Văn và chủ tịch Ủy ban cứu
xét các vụ án chính trị dưới chế độ Diệm. Vài tháng sau, Chung thoát
ṿng kềm tỏa của Vơ long Triều và tách ra khỏi PTPHMN. Từ Quốc hội lập
pháp kỳ 1 (Hạ nghị viện 1967-1971) - v́ thấy phe Nguyên Cao Kỳ hết ăn
khách -, Chung chuyển dịch vào giửa, được công khai hoá với những bài xă
luận trên báo Tiếng Nói Dân Tộc (do y làm chủ nhiệm) nói
về những “người Việt đứng giữa”. Áp phích tranh cử của Chung mang
khẩu hiệu xu thời “Một Miền
Nam Trung lập trong một Đông
Dương trung lập.”
V́ khuynh hướng của y không có mấy que gia nhập, LQC tự gán cho ḿnh
danh hiệu “người Việt cô đơn”, không đứng về phiá chế độ Sàig̣n,
cũng chưa (công khai) nghiêng theo kháng chiến. Mặt khác, Chung nói dối
khi tuyên bố “không biết ǵ về cộng sản” và không bị
“phiá bên kia” móc nối. Thật vậy, y giao du thân mật với trùm gián điệp
Phạm Xuân Aån, sinh viên phản chiến Huỳnh Tấn Mẫm, tuyển tên cán bộ đỏ
Triệu Công Minh làm tổng thơ kư trong Tiếng Nói Dân Tộc, trọng
dụng Hùynh Bá Thành tức họa sĩ Ớt (trung tá CS chỉ huy Công an tại đô
thành Sàigon sau tháng tư 1975) và chứa dấu trong nhà sinh viên Nguyễn
Hữu Thái (bị Toà án quốc gia truy nả về tội mưu sát Viện trưởng Nguyễn
Văn Bông theo lời kể lại của bà goá phụ N.V. Bông trong quyển hồi kư
Mây Muà Thu).
Trong cuộc bầu cử Hạ
Nghị Viện nhiệm kỳ hai vào tháng 8.1971, LQC tuyên bố trên đài truyền
h́nh sẽ từ nhiệm nếu đắc cử và nếu sau đó, Nguyễn Văn Thiệu cũng đắc cử
tổng thống trong một cuộc bầu cử độc diễn, để phản đối cuộc bầu cử thiếu
dân chủ của Thiệu. Chung trúng cử dân biểu ngày 29.6.1971, Thiệu đắc cử
tổng thống ngày 3.10.1971. V́ lở hứa với cử tri, Chung phải giữ lời. Báo
Tiếng Nói Dân Tộc bị rút giấy phép. Chung phải thuê manchette tờ
Bút Thần sau khi tờ Điện Tín (do Chung làm chủ bút) bị đưa
ra Toà. Chung như cua găy càng, lâm cảnh thất nghiệp, v́ tính toán hố.
Chung nh́n nhận “lập trường đứng giữa là ngây ngô chính trị”
(HKKT, trang 146). Trong canh x́ phé sắp tàn, Chung xoay t́m một lá bài
khác. Lá bài Dương Văn Minh, có vẻ ăn khách hơn.
2 – Gia nhập nhóm Dương
Văn Minh.
Lư Quí Chung gặp Dương
Văn Minh lần đầu tiên vào tháng 6.1967 khi liên danh ứng cử Tổng thống
Trần Văn Hương-Mai Thọ Truyền yêu cầu y qua Bangkok, nơi Minh bị Nguyễn
Khánh lưu đày, để xin Minh lên tiếng ủng hộ liên danh này. Lúc đó, Uûy
ban lănh đạo quốc gia chống lại ư định hồi hương của Minh. Chung và Tôn
Thất Thiện phụ trách báo chí cho liên danh Hương-Truyền. Rốt cuộc, liên
danh Thiệu-Kỳ về nhứt với 35% phiếu trong tổng số 10 liên danh ứng cử.
Năm 1971, Chung làm
phát ngôn viên báo chí cho liên danh ứng cử Tổng thống Dương Văn Minh-
Hồ Văn Minh (chủ trương thoả hiệp với cộng sản) . Hai liên danh đối thủ
(khuynh hướng chống cộng) là Thiệu-Hương và Kỳ- (Trương Vĩnh) Lễ. Luật
bầu cử ngày 3.6.1971 của Quốc Hội thân chính quyền - do phụ tá Nguyễn
Văn Ngân giật dây- buộc mỗi liên danh phải được 40 dân
biểu, nghị sĩ hoặc 100 nghị viên Hội đồng t́nh kư tên giới thiệu.
Gần hết hạn nộp đơn, Kỳ
thu được 101 chử kư của các nghị viên nhưng vẫn bị Tối Cao Pháp Viện bác
ngày 6-8 v́ trong số 101 này có đến 39 chử kư nằm trong danh sách ủng hộ
Thiệu. Trong danh sách niêm yết lần thứ nhứt, bới thế, chỉ có hai liên
danh Thiệu và Minh. Ngày 20.8.1971, ông Minh bất thần tuyên bố rút tên
với lư do Thiệu đă bố trí guồng máy gian lận bầu cử. Theo Chung, tướng
Minh có trao tài liệu xác thực cho Đại sứ Bunker. Trong
quyển “Vietnam:A
History”, Stanley
Karnow ghi rằng Minh từ chối số bạc đút lót một triệu đô-la của Bunker
để ra tranh cử. Minh cũng đă xác nhận điểm này với phóng viên Ben
Bradley của tờ Washington Post, trước mặt Chung và qua sự phiên
dịch của Phạm Xuân Aån. Chung cho rằng Nguyễn Tiến Hưng xuyên tạc khi
Hưng quả quyết trong quyển sách Hồ Sơ Dinh Độc Lập rằng Dương Văn
Minh có bỏ túí số tiền vưà nói.
Trong buổi họp báo đầøu
tiên ra mắt kư giả quốc tế, đă xuất hiện đầy đủ ê-kíp thầy dùi của Dương
Văn Minh gồm có Vũ Văn Mẫu, Lư Chánh Trung, Hồ Văn Minh, Trần Ngọc
Liễng, Hồng Sơn Đông, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Nguyễn Hữu Chung và
Lư Quí Chung.
Quyết định rút lui của
Minh gây bối rối cho Nguyễn Văn Thiệu nên, để tránh t́nh
trạng độc diễn, « quân sư » Nguyễn Văn Ngân vận động tră lại 39 chử kư
trên đây cho Kỳ và xin Tối Cao Pháp Viện, bằng một phán
quyết “ảo thuật” ngày 21.8.1971, chấp nhận cho liên danh Kỳ-Lễ được
niêm yết trên danh sách lần thứ hai với liên danh
Thiệu-Hương. Ngày 28.8, Kỳ cũng tuyên bố rút lui và đề nghị cả Thiệu
lẫn Kỳ đều từ chức để cho chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn Huyền tạm điều
khiển chính phủ và tổ chức cuộc bầu cử tổng thống khác trong ṿng ba
tháng. Thiệu bác bỏ. Ngày 1 tháng 9, Tối cao Pháp viện chấp thuận cho
Kỳ-Lễ rút tên (HKKT, trang 218). Trong hồi kư Buddha’s Child,
trang 318, Kỳ khoe Bunker đă dụ dổ y: “Nếu ông cần tiền, chúng tôi có
thể giúp hai triệu đô . Chúng tôi sẽ chuyển qua trung gian của tướng
(Nguyễn Ngọc) Loan.” Như thế, Kỳ đă tự đánh giá cao hơn Minh , một
triệu!
Liên danh
Thiệu-Hương – không c̣n đối thủ - đắc cử ngày 3.10.1971 với 94,3% số
phiếu bầu. Một chiến thắng không vinh quang! Trong giai đọan đàm phán
tại Paris, nhiều tổ chức phản chiến không ngưng xuống đường . Nhiều h́nh
thức đấu tranh được áp dụng.
Dương Văn Minh phớt
lờ trước cách đánh giá thấp và khinh miệt của dư luận Mỹ đối với ông.
Trong hồi kư Ending The Vietnam War, Kissinger đề cao Thiệu nhưng
mạt sát Minh như sau: “Minh là con người yếu mềm nhứt trong các bộ
mặt chính trị. Nếu Hànội chấp nhận ông – điều này cũng không rỏ ràng –
th́ chỉ v́ ông là người dễ dàng lật đổ nhất.”
Với tư cách đại diện báo chí
cho liên danh Dương Văn Minh, Chung đến chùa Aán Quang, Saigon, gặp
Thượng toạ Trí Quang, qua sự giới thiệu của dân biểu Huế Trần Ngọc
Giao. Để chắc ăn, Chung gia nhập vào Lực lượng Hoà Giải Dân tộc của Vũ
Văn Mẫu, con gà cồ của Aán Quang. Vũ Đ́nh Cường và Bùi
Tường Huân cũng nằm trong tổ chức này. ...Khi Chung ngơ lời xin Trí
Quang ủng hộ D V Minh, Trí Quang nhận định: “Bây giờ cần một người
cầm cờ, ông ấy (DVMinh) có thể làm được chuyện đó trong lúc này..Tướng
Minh không phải là người làm chính trị có bản lĩnh”. Sau đó, Trí
Quang gởi Chung đến gặp Tăng thống Thích Tịnh Khiết tại chuà Bảo Quốc,
Huế, và Thích Huyền Quang tại chùa Từ Đàm.
Theo Chung, nhóm
mệnh danh Dương Văn Minh chỉ chánh thức h́nh thành vào đầu 1970, một năm
sau khi tướng Minh ở Bangkok về Saigon. Mỗi tuần vào ngày thứ tư, họ gặp
nhau tại Dinh Hoa Lan, trên tầng lầu của dăy nhà cạnh ngôi nhà chính, ở
số 3 đường Trần Quư Cáp, nay là Vơ Văn Tần, Saigon. Nhóm gồm có 4 thành
phần: a) cảm t́nh viên như Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Hữu Phi (người bạn
tennis), Mai Hữu Xuân, Vơ Văn Hải (cựu chánh văn pḥng của TT Diệm), Tôn
Thất Thiện, Bùi Chánh Thời.. b) ôn hoà: Vũ Văn Mẫu, Hồ Văn Minh, Nguyễn
Hữu Chung, Lư Quí Chung.. c) khuynh tả: Trần Ngọc Liễng, Lư Chánh Trung,
Ngô Công Đức (sau đào thoát quaThuỵ Điển), Dương Văn Ba.. c) cực
tả:Nguyễn Ngọc Lan, Hồ Ngọc Nhuận..Trong nhà, tướng Minh cho “tị nạn
chính trị” một số người bị chính phủ truy lùng như db Phan Xuân Huy, db
Dương Văn Ba, Nguyễn Văn Cước (hoạt động công đoàn).. Nơi trang
270-271, HKKT, Lư Quí Chung ghi: “Xét về gốc tích thành phần của
nhóm ông Minh lộ ra sau 1975, chúng ta sẽ không ngạc nhiên về sự chuyển
dịch lập trường của nhóm từ “ở giữa” sang tả, rồi hướng
đến sự sẳn sàng liên kết với MTDPMN và Hànội”. Gần phân nửa thành viên
trong nhóm có quan hệ với MTGPMN như các ông Cước, H N Nhuận, Lư Chánh
Trung, linh mục N N Lan, T N Liểng.. Với Linh mục Lan, thẩm phán Triệu
Quốc Mạnh, nhà văn Thế Nguyên, Nguyễn Văn Cước.., Ls Liễng thành lập
Tổ chức đ̣i thi hành Hiệp định
Paris..”
Người Mỹ duy nhất mà
tướng Minh tiếp là cựu trung tướng Charles Timmes, một
nhân viên CIA (được William Colby thuê để thay thế Lou Conein, cố vấn
nhóm tướng đảo chính TT Diệm năm 1963) .Để gây cảm t́nh (và đồng thời ḍ
la tin tức, nhân tiện theo dơi hành động), Timmes thường đến tặng Minh
vài chậu hoa lan hiếm có hay cá quư mỗi khi có dịp xuất ngoại. Timmes
cũng luôn lui tới với Kỳ, không ngoài mục tiêu kiểm soát hành tung.
Chính Timmes đă sắp đặt với Frank Snepp sự ra đi của TT Thiệu và Trần
Thiện Khiêm tối 29.4.1975.
Điểm đáng lưu ư:
Chung xác nhận, suốt sáu năm cọng tác với D V Minh, Chung “không thấy
giữa Minh và toà đại sứ Pháp có một quan hệ nào trừ những ngày cuối
tháng 4.1975.” (HKKT , trang 266)
3 – Thời khắc lịch sử ô
nhục: đầu hàng.
Hiệp định Paris
được kư ngày 27.1.1973. Nhân danh “thành phần thứ ba”, LQC tổ chức với
Lực lượng Hoà giải Dân tộc của Vũ Văn Mẫu và Nhóm Đ̣i
Thi Hành Hiệp Dịnh Paris của Trần Ngọc Liễng một buổi Hội thảo tại
chùa Aán Quang, có báo giới và truyền h́nh nước ngoài tham dự, để
ủng hộ Hiêp định này và đ̣i TT Thiệu từ chức. Tiếp theo là những
cuộc xuống đường rầm rộ và những chiến dịch vận động quần chúng ở Huế,
Đà Nẳng..v..v..Năm 1974, Tướng Minh chính thức đến viếng Trí Quang và
tiếp Trí Quang tại Dinh Hoa Lan, CBS thu h́nh và hai bên có ra thông
cáo. Chính quyền Thiệu suy sụp mau chóng v́ Mỹ rút quân và cúp viện trợ,
kinh tế lẫn quân sự.
Sáng mùng một Tết
Aát Măo, D V Minh đích thân đến thăm các dân biểu và nghị sĩ đối lập tổ
chức “đêm không ngủ” và tuyệt thực tại tiền đ́nh Hạ viện. Phước Long
thất thủ. Tướng Nguyễn Khắc B́nh, tổng giám đốc cảnh sát- công an, cho
bắt giam một số đối lập: Hà Huy Hà, Tô Nguyệt Đ́nh, Quốc Phượng, Sơn
Nam, Nguyễn Ngọc Lan, Châu Tâm Luân ... Hồ Ngọc Nhuận nghi Hùynh Bá
Thành (không bị bắt) là tay trong của Trung ương T́nh báo nên đề nghị
với tướng Minh không cho vào Dinh Hoa Lan nữa. Sau 30.4.1975, vài bài
báo cho rằng chính Huỳnh Bá Thành đă trực tiếp khuyên tướng Minh đầu
hàng.
Vào tháng 3.1975, sự
tháo chạy khỏi Kontum, Pleiku về hướng Nha Trang quả thật kinh hoàng.
Ngày 20.3.1975, TT Thiệu ra lệnh cho Ngô Quang Trưởng tử
thủ ở Huế nhưng trước đó hai ngày, Huế đă bắt đầu di tản. Có tin đồn
việc rút khỏi Cao Nguyên và Quảng Trị là do sự thỏa thuận ngầm giữa Mỹ
và Bắc Việt. Ngày 30.3.1975, đến phiên Đà nẳng rớt vào tay địch. Đầu
tháng 4.1975, nhóm D V Minh họp báo tại Đường Sơn Quán (do Mai Hữu Xuân
làm chủ), gần xa lộ Đại Hàn, tuyên bố với giới thông tin ngoại quốc
quyết định của tướng Minh thay thế Thiệu..
L Q Chung kể lại:
Ngày 17.4.1975, đại sứ Pháp Jean Marie Mérillon cùng cố vấn Pierre
Brochard đến Dinh Hoa Lan hội kiến với ông Minh, trước sự hiện diện của
Chung. Họ hưá ủng hộ giải pháp D V Minh. Cũng trong lúc đó, Nguyễn Cao
Kỳ thăm ḍ ư kiến của hai tướng Cao Văn Viên (tổng tham mưu trưởng) và
Trần Thiện Khiêm (thủ tướng về hưu được 6 tháng) để đảo chính Thiệu.
Trùm CIA Thomas Polgar ra lệnh cho tướng Timmes chận đứng ư đồ. Sự kiện
này được Hoàng Đức Nhă xác nhận sau 1975 với Larry Berman, tác giả của
No Peace, No Honor. Đại sứ Graham Martin cùng đi với tướng Timmes
đến gặp Kỳ tại nhà để khuyên Kỳ kiên nhẫn. Từ lâu, Kỳ không có cảm t́nh
với lớp tướng già như Minh, Đôn…, Khánh...Thật ra, chính giới Mỹ cũng
không ưa ǵ Kỳ. William Bundy, thứ trưởng ngoại giao thời Lyndon
Johnson, phê b́nh: “Kỳ là cái đáy thùng, sự chọn lựa cuối cùng và tệ
hại nhất của một quân đội tuyệt vọng!”. Stanley Karnow, trong
Vietnam- A history, mô tả Kỳ “giống như một tay thổi kèn saxo
trong một hộp đêm hạng hai.” Nhà văn Frances Fitzgerald, tác giả
của Fire on the Lake, cho rằng Kỳ là “một kẻ lừa bịp,..một tướng lănh
làm mất tin tưởng, không có khả năng nắm quyền bính.”
Ngày 23.4.1975, để
chận trước đảo chính, Thiệu từ chức, theo đề nghị của Hoàng Đức Nhă bằng
một công điện mật mă gời từ Singapore. Thiêu đọc một bài diễn văn nảy
lửa trên truyền h́nh, tố cáo Mỹ bội hưá và vô nhân đạo. Thiệu trao quyền
cho phó tổng thống Trần Văn Hương, như Hiến pháp quy định. Hai đại sứ
Martin (Hoa kỳ) và Mérillon (Pháp) thuyết phục Hương nhường quyền cho
Minh. Ngày 25.4.1975, Martin giúp vợ chồng TT Thiệu và Trần Thiện Khiêm
bí mật rời Sàig̣n đi Đài Loan. Graham Martin ĺ hơn Thiệu, không bỏ
chạy, dù có chỉ thị rút ra nhanh của Washington.
Ngày 26.4.1975,
lưỡng viện Quốc hội (với 136 dân biểu, nghị sĩ trong tổng số 219) nhóm
để nghe các tướng Trần Văn Đôn, Cao Văn Viên, Nguyễn Khắc B́nh
và Nguyễn Văn Minh phúc tŕnh về t́nh h́nh an ninh. Với
mục đích trấn an khối dân cử “gia nô”, nắm đa số, Lư Quí Chung – với tư
cách đại diện của D V Minh - đề nghị biểu quyết a) Sẽ không có sự trả
thù v́ ủng hộ Thiệu hoặc chống đối lập b) Chính quyền mới
sẽ cấp hộ chiếu (visas) ra đi chính thức cho những ai muốn rời VN. Kết
quả: Lúc 20 giờ 54 tối, vói số phiếu 147/151, dưới sự điều khiển của chủ
tịch Trần Văn Lắm, Quốc hội thuận truất phế Hương và trao quyền cho Minh
bằng một quyết nghị do Ls Trần Văn Tuyên giúp thảo ra.
Tại sao đến ngày
28.4.1975 mới cử hành lễ tấn phong D V Minh và ngày 30.4.1975 mới tŕnh
diện tân nội các ? Chung tiết lộ: chính “thầy bói nghiệp
dư” Hồ Văn Minh, ứng cử viên phó tổng thống trong liên danh D V Minh
năm 1971 –đă đề nghị hai ngày “tốt” này. Dương Văn Minh chọn Ls Nguyễn
Văn Huyền, trí thức công giáo, nguyên chủ tịch Thượng viện, làm phó tổng
thống, và nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, phật giáo, từng cạo đầu để
phản đối TT Diệm, làm thủ tướng. Thành phần Nội các gồm có
Hồ Văn Minh (phó thủ tướng), Nguyễn Văn Trường (Giáo dục), Bùi
Tường Huân (Quốc pḥng), Lư Quí Chung (Thông tin)…...Vào giờ chót, Hồ
Ngọc Nhuận tránh mặt , không nhận Bộ nào và cũng không đồng ư cho ông
Minh lănh chức Tổng thống.
Trong 48 giờ ngắn
ngủi tại chức, LQC, thưà lệnh tân tổng thống, vận động Pháp công nhận
Chính phủ D V Minh. Mọi việc không đi đến đâu. Chung lên Đài
truyền h́nh , với Huỳnh Tấn Mẫm kè bên cạnh, kêu gọi đồng bào ở lại,
trong cảnh hỗn loạn tột cùng. Sau ngày Ban Mê Thuột thất thủ, D V Minh
đă không chấp nhận kế hoạch của Kỳ lập vùng kháng chiến ở Miền Tây, lấy
Cần Thơ làm thủ đô. Minh miễn cưỡng dự lễ bàn giao với
Trần Văn Hương ngày 28.4.1975 lúc 16 giờ 45 v́ Minh từ chối “trở thành
người kế tục TT Thiệu theo Hiến pháp của Đệ nhị Cộng hoà
mà ông hoàn toàn phủ nhận giá trị “. Quyền Tổng thống Hương bắt tay ông
Minh: “Nhiệm vụ của Đại tướng rất nặng nề!”. Không có sự bàn giao
giữa hai thủ tướng Vũ Văn Mẫu và Nguyễn Bá Cẩn v́ Minh
cho đây là điều vô ích. Hơn nữa, lúc đó, Cẩn đă đào thoát
khỏi VN (HKKT,trang 383).
Chung ghi: Từ
khi Quốc hội biểu quyết cử Minh thay thế Hương, lực lượng không quân ở
Tân Sơn Nhứt đă đóng cổng, chối từ nhận lệnh điều động của TT Minh. Khi
ông Minh và đoàn tùy tùng vừa từ Dinh Độc lập trở về Dinh Hoa Lan th́
các loại súng ở Dinh Độc Lập và Hải quân ở bến Bạch Đằng bắn lên như
điên nhưng chẳng biết bắn vào mục tiêu cụ thể nào. Mọi người đều chui
xuống bàn.
Chung kể thêm,
nơi trang 386: Tối 28.4.1975, Đô đốc Chung Tấn Cang, tư lệnh Hải quân,
vào Dinh Hoa Lan gặp ông Minh, có lẽ nói về quyết định ra đi. Sau đó, có
tin ông Minh chấp nhận cho con rể là Đại tá Đài đưa con gái và hai cháu
ngoại của ông lên tàu di tản với Đô đốc Cang. Bà Minh ở lại. Vào lúc
này, có thể ông Minh đă biết không có hy vọng thương thuyết với quân
giải phóng. Trong quyển sách Cruel Avril, Olivier Todd cho biết:
cùng đi với Chung Tấn Cang vào gặp Minh, có hai sứ giả của cựu thủ tướng
Trần Văn Hữu, thời Bảo Đại, là Lê Quốc Tuư và Mai Văn Hạnh (năm 1984,
hai người này liên hệ với vụ CS xử tử Trần Văn Bá). Họ
đề nghị ông Minh mời Hữu về làm thủ tướng v́ “Hànội và Chính phủ Cách
mạng lâm thời tán đồng vai tṛ của ông Hữu.” Cũng trong ngày 28.4.1975,
từ Paris về đến Bangkok, cựu dân biểu Ngô Công Đức điện đàm với ông Minh
cho biết không có cách nào kết thúc chiến tranh bằng chính trị.
Sáng 29.4.1975,
Sàigon hoảng lọan hoàn toàn. Tướng Nguyễn Khắc B́nh đă bỏ chạy, chỉ c̣n
phó tổng giám đốc cảnh sát Phạm Kim Quy. Quy cho biết y
chỉ có thể điều động được một sư đoàn cảnh sát dă chiến và sẽ cố gắng
thi hành chỉ thị của tổng thống (Minh) giữ trật tự trong
đô thành. Lư Quí Chung đề nghị nên tuyên bố ”Sàig̣n bỏ ngơ” và “để quân
giải phóng kiểm soát, bảo vệ an ninh.” Ông Minh giao cho db Hồ
Văn Minh soạn thảo bản tuyên bố. Chiều tối, tướng Vĩnh Lộc, tổng
tham mưu trưởng, cùng chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (từ lâu theo MTGPMN)
đến thuyết tŕnh với ông Minh rằng t́nh thế tuyệt vọng.
Chung liền đề nghị với ông Minh nên vào Dinh Độc lập ngủ đêm nay. Minh
phản đối v́ ông đă từng tuyên bố trước đó với bạn bèù, nếu thành Tổng
thống, ông không bao giờ xữ dụng Dinh Độc lập, “Ḿnh sẽ vào đó đánh
quân vợt mà thôi!” Rốt cuộc, vào lối 9 giờ tối, ông Minh và
gia đ́nh đồng ư vào Dinh Độc lập v́ nơi đây có hầm chống pháo kích kiên
cố. Cùng đi, có hai cặp vợ chồng LQC và Nguyễn Hữu Chung.
Tám giờ sáng ngày
30.4.1975, TT Minh tuyên bố với Nội các: V́ Chính phủ không có khả năng
giữ an ninh nên ông quyết định trao quyền cho Chính phủ Cách mạng Lâm
thời Miền Nam. Pḥng họp yên lặng, không ai phản đối. Lối 15 phút sau,
kỹ thuật viên đài truyền thanh đến Dinh để thu âm bài tuyên bố giao
quyền, lần thứ ba mới thu hoàn chỉnh. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh dành đích
thân mang băng ghi âm đến Đài “cho chắc ăn.” Y cũng cho biết sẽ
thảo ra và cho phát thanh – với tư cách quyền Tổng tham mưu
trưởng- một nhật lênh chỉ thị cho quân đội buông súng. Tướng Vĩnh Lộc.
sáng hôm đóù, đă chạy khỏi Sàigon bằng tàu hải quân với
tướng Trần Văn Trung. Nguyễn Cao Kỳ và Ngô Quang Trưởng cũng đă rời
Sàig̣n trên một chiếc trực thăng riêng. (HKKT, trang 400).
Trong lúc chờ đợi
quân cách mạng xuất hiện, tướng Minh cho nhân viên Nội các biết họ có
quyền chọn ra đi hay ở lại. Ông thông báo luôn cả số bến và số cổng để
lên tàu VN Thương Tín c̣n đậu ở cảng Sàig̣n. Chỉ có Nguyễn Hữu Chung
điện thọai cho hay y quyết định ra đi cùng gia đ́nh. Bùi Tường Huân kẹt
lại giờ chót.
Khoảng 11 giờ 30 sáng,
chiếc xe tăng CS đầu tiên lọai T-54 tiến trên đại lộ Thống Nhứt về phiá
Dinh Độc lập, ủi sập cổng, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở
đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên ṇng, một
khẩu lệnh vang dội: “Mọi người đi ra khỏi pḥng ngay!” D V
Minh là người bước ra đầu tiên, thiếu tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên
cạnh, phiá sau là Vũ Văn Mẫu, Lư Quí Chung… ..Nhiều bộ đội ở đầu kia đại
sảnh hét to: “Mọi người giơ hai tay lên!”. Minh, Mẫu và tuỳ tùng
nhất lọat tuân lệnh. Gần bên bộ đội vơ trang, lố nhố những gương mặt
quen thuộc: Nguyễn Vạn Hồng (Cung Văn), Nguyễn Hữu Thái, Hùynh Bá Thành,
Huỳnh Văn Ṭng, Huỳnh Tấn Mẫm..Tất cả mang thường phục.
Chúng la: Ḿnh
thắng rồi! Ḿnh
thắng rồi ! Viên
đại úy chỉ huy xe tăng kư hiệu 843 (về sau, đuợc biết tên là Bùi Quang
Thận) nói với tướng Minh: Anh chỉ cho tôi đường đi hạ cờ ngụy. Minh quay
qua Chung: “Toa dẫn người này đi.” Chung dùng thang máy đưa viên
sĩ quan lên sân thượng của Dinh, kéo cờ vàng ba sọc đỏ xuống, thay bằng
cờ MTGPMN.
Trở lại pḥng họp,
bên cánh phải Dinh, Chung nghe một người bộ đội (có lẽ
chính trị viên; tên được biết về sau là Bùi Văn Tùng) hất
hàm bảo ông Minh: Anh hăy viết ngay một tuyên cáo đầu hàng. Tướng Minh
tră lời rằng sáng này, ông đă có một tuyên bố trao quyền rồi. Viên chỉ
huy nói: “Anh chẳng có ǵ để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu
hàng! “
Dương Văn Minh , Vũ
Văn Mẫu và LQC được đưa đến Đài phát thanh trong hai xe jeeps để thu
băng. Bản tuyên bố đầu hàng do Bùi Văn Tùng soạn thảo. Sau khi đọc vào
lúc 13 giờ 30, Minh và Mẫu được đưa trởû lại Dinh Độc Lập. Từ ngày
30.4.1975 cho đến 2.5.1975, các ông Minh, Mẫu, Nguyễn Văn Huyền. và một
số nghị sĩ, dân biểu vẫn c̣n được phép ở trong Dinh để gặp Trần Văn Trà,
Cao Đăng Chiếm, Mai Chí Thọ.., đại diện Ủûy ban Quân quản, xong họ tự do
ra về.
4- Sau ngày 30.4.1975
LQC bị bịnh ung thư
nặng nên phải ngưng một thời gian khá dài mới viết được phần hai của
quyển hồi kư. Phần đầu gồm có 24 chương liên hệ đến 13 năm hoạt náo
chính trị của y tại Miền Nam VN. Cuối tháng chạp 2002, sức
khoẻ phục hồi phần nào, Chung viết thêm hai chương chót, dài 62 trang,
về cuộc sống……… lăng lóc 30 năm trong địa ngục cộng sản. Chung qua đời
đầu năm 2005. Chương “Sau ngày 30.4.1975”, 34 trang, tuy ngắn
nhưng phản chiếu khá đủ những nổi thất vọng của y về “thiên đường” xă
hội chủ nghĩa.
V́ giỏi chạy chọt nên Chung
nhận được chiều 12.6.1975 thơ của Cao Đăng Chiếm , Phó chủ tịch Uûy ban
Quân quản Saigon, hoăn cho y “học tập tập trung”. Nhóm dân biểu
phản chiến Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Phan Xuân Huy, Đinh Xuân Dũng,
Nguyễn Phúc Liên Bảo..cũng hưởng được ân huệ này: phần thưởng của sự
phản bội! Tuy nhiên, Chung cũng phải trả một giá rất đắc:
toàn thể tài sản bị tịch thâu, cha Chung bị liệt nửa thân ḿnh v́ uất ức
mất hết của cải; gia d́nh Chung ly tán, 6 em gái và một em trai bỏ nước
ra đi; Chung phải gở bán từng cánh cửa trong nhà để
mua thực phẩm. Hai “công tử cưng” của Chung phải đi mài bản kẻm
trong một nhà in và làm bồi bàn khách sạn.
Năm 1975, bốn tháng
sau ngày “giải phóng”, Vơ Văn Kiệt, bí thơ thành ủy TP-HCM, cho phép Ngô
Công Đức, chủ nhiệm, tái xuất bản tờ Tin Sáng, có Dương Văn Ba,
Nguyễn Hữu An, Nguyễn Văn Binh, Hồ Ngọc Nhuận..cọng tác. LQC đảm trách
vai tṛ phó biên tập. Mục tiêu của Kiệt là tập trung nhóm
dân biểu phản động này lại vào chung một giỏ để tiện việc kiểm soát,
đồng thời ra chỉ thị cho họ ŕnh rập lẫn nhau để dâng công
và viết lách tuyên truyền cho Đảng. LQC cho biết: Ngay từ lúc đầu, có
những “mâu thuẩn nội bộ” về vấn đề quản lư, tiền bạc; “ các gắn bó với
nhau từ thời cũ lại không suông sẻ”. Tin Sáng tuyên bố “hoàn
thành nhiệm vụ” (sic) sau 5 năm. Từ đó. để độ nhựt, ‘nguyên tổng
trưởng Thông tin, nguyên dân biểu đối lập ngụy quyền LQC” –
tước danh thời vàng son mà Chung thường nhắc để tự an ủi – đành cam phận
đi nhặt tin ...bóng đá, bán cho các báo. Cho đến ngày qua đời, LQC phụng
sự tất cả là bảy tờ tạp chí và nhựt báo CS. Chung than thở chán nản : “Tôi
là một quả chanh đă hết nước rồi!” (HKKT, trang 434)
Lối năm 1988, bất chấp
mọi đàm tiếu, LQC viết một bức thơ cho Vơ Văn Kiệt, lúc đó Phó chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng, bày tỏ nguyện vọng “ngày nào đó trở thàng đảng viên
Đảng CSVN”. Kiệt không màng phúc đáp. Trong cảnh chim lồng cá chậu,
Chung ê chề nhận thức trước khi qua đời:” Sau 30 năm, tôi vẫn phải
gánh trên lưng ḿnh cái lư lịch “viên chức cao cấp chế độ cũ” như một
cục bướu..., tôi chưa bao giờ là một thành viên trọn vẹn của chế độ
mới. Tôi vẫn hiểu được rằng thật khó cho người cộng sản
tin dùng trọn vẹn một người không phải của ḿnh..Một trong những câu nói
đầu tiên sau thời gian cha tôi bị tắt tiếng là nói với tôi một cách giận
dữ: “ Tao không muốn gặp mầy nữa. Gia đ́nh mày như thế này, cha mày như
thế này, mà mày c̣n viết báo cho cộng sản. Tao từ mày.” (HKKT, trang
426). Sự trở mặt của LQC đối với phía quốc gia không được CS bồi
đáp đúng mức.
Sau vài hôm - cùng với Trần
Văn Hương, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền - bị Mai Chí Thọ và Tạ Bá Ṭng
nhồi sọ về đường lối cách mạng và chủ thuyết Mác Lê, ông DVMinh ngoan
ngoăn trở về đời sống dân giả và tuyên bố hănh diện được đi bầu. Năm
1982, ông Minh nhờ một bạn học cũ là bà Bùi Thị Mè (được
CS vinh danh “Bà mẹ chiến sĩ ”) năn nỉ với Vơ Văn Kiệt,
bí thơ thành ủy TP.HCM, cho phép xuất ngoại sang Pháp. Lúc đến
chào từ biệt, ông Minh cho Kiệt biết Toà Tổng lănh sự Pháp có ngỏ ư,
theo chỉ thị từ Paris, lo cho ông bà Minh mọi phương tiện,
kể cả vé máy bay nhưng ông Minh đă từ chối: “Mọi việc
đă có chính phủ tôi lo rồi!”. Mặt khác, ông Minh hứa khi sống ở nước
ngoài ông sẽ “không có một lời tuyên bố nào bất lợi cho nước
nhà.”(HKKT, trang 445). Ông bà DVMinh được mang theo hành lư
với số cân không hạn chế và không bị kiểm tra, theo lệnh của Kiệt. Năm
1984, với tư cách Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Kiệt đi dự Quốc khánh
của Cọng hoà Dân chủ Đức. Trên đường về, Kiệt ghé Paris thăm Phạm Ngọc
Thuần, Phạm Hoàng Hộ và Dương Văn Minh. Một trong những câu nói đầu tiên
của ông Minh khi gặp Kiệt tại nhà bác sĩ Danh là: « Anh đă biết đó,
tôi luôn giữ lời hưá khi rời khỏi Sàig̣n. Sang đây, tôi không tiếp xúc
báo chí và cũng không có một lời tuyên bố nào bất lợi cho ở nhà » Có
hai lần ông Minh chuẩn bị hồi hương nhưng không hiểu vi sao dời lại.
Cuối cùng, ông Minh qua Californie sống vơi người con gái và quá văng
tại đây.
Nơi trang 447 của
HKKT, LQC viết: Khi ông DVMinh và vợ đi khỏi Sàig̣n rồi, tôi có dịp gặp
Thượng tọa Trí Quang , ông nói: “Thật rất tiếc. Đáng lư ông
Minh nên ở lại đất nước bởi chính ông là người từng kêu gọi dân
chúng không nên bỏ quê hương ra đi. Nhiều người v́ nghe ông ở lại. Thế
mà bây giờ ông lại ra đi ...”
Tác giả bài này
được cựu đại tá Nguyễn Linh Chiêu, hiện sống ở Huntington Beach,
Californie, cho biết: Năm 1983, ông Chiêu có tổ chức một bửa cơm tại
Paris để gặp lại hai bạn củ Dương Văn Minh và Trần Văn Đôn. Trả lời câu
hỏi của ông Chiêu tại sao thủ tướng Vũ Văn Mẫu đ̣i trên Đài phát thanh
Sàigon sáng ngày 30.4.1975 Quân đội Mỹ phải rút khỏi VN trong 24 tiếng
đồng hồ ? Tướng Minh cho biết chính đại sứ Hoa kỳ Graham Martin đă yêu
cầu Tổng thống Minh có quyết định ấy để tạo lư do cho Mỹ
chuồn gấp.
Lư Quí Chung kết
thúc quyển Hồi Kư Không Tên với câu hỏi: Ông Dương Văn Minh là
người của Pháp, Mỹ hay Cộng sản? Và Chung liền tự trả lời: “Tôi
nghĩ ông Minh chỉ là người yêu nước”.
Ba thập niên sau
ngày Miền Nam bị bức tử, lịch sử có sẳn sàng xác nhận như thế hay
không?
LÂM LỄ TRINH
Ngày 18.5..2005
Thủy Hoa Trang, Californie
THƯ TỊCH:
1-
Vietnam: A History –
Stanley Karnow (Penguin Books,
1990)
2- No
Peace, No Honor, Nixon, Kissinger, a Betrayal in Vietnam-
Larry Berman (Touchstone 2002)
3-
Buddha’s Child-
Nguyễn Cao Kỳ (St Martin Press 2002)
4-
Cruel April, The Fall of Saigon –
Olivier Todd (W.W Norton & Co,
1990)
5-
Mây Mùa Thu- Jackie Bông Wright, Virginia, 7.12.2004
6- Hồ
sơ Dinh Độc lập – Nguyễn Tiến Hưng & Jerrold L Schecter, C & K
Promotions Inc. Los Angeles, 1986
7- Kư
Sự Nhân Vật – Hùynh Bá Thành (Hoạ sĩ Ớt), Nhà Xuất bản Trẻ, TPHCM,
2002