ĐT. 714-541-9859, 714-423-0577                      THONG THIEN HOC

Google

Trang Chính

English

Việt Nam


Hoa Kỳ

Sinh Hoạt Cộng Đồng


Thế Giới
Diễn Đàn

Văn Học

B́nh Luận

Kinh Tế
Câu Chuyện ThờiSự

Chuyện Lạ 4Phương

Khoa Học

Sức Khỏe

Ẩm Thực

Nhân Vật

Người / Ngợm

Vui Cười


Biếm Thi

Linh Tinh

Rao Vặt

Nhạc Hoàng Vân

VNCH Foundation

Ca Dao Việt Nam

Thơ Hà Huyền Chi

Hà Phương Hoài

Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

OVERSEAS
FREE VIETNAMESE
COMMUNITIES

Giới thiệu tập san  Viễn Tượng Việt Nam, chủ nhiệm Trần Thanh Hiệp
Tóm lược nội dung VIỄN TƯỢNG VIỆT NAM  SỐ 4

 

 

(Viễn Tượng Việt Nam, số 4, 150 trang khổ A4, tranh b́a của Nguyễn Thành Nhân đă phát hành)

 

Số này có một nội dung rất dồi dào. Nhiều cây viết ở trong nước đă đóng góp : đó thực là niềm vui cho bạn đọc. Chứng tỏ có một sự giao lưu liên tục mà ‘Viễn Tượng Việt Nam’ là một bằng chứng cụ thể.

Đinh Vinh Phúc, tóm lược, không phê b́nh.

 

BAN BIÊN TẬP, Ba mươi năm để t́m hiểu bài học của quá khứ (tr.1)

Cuộc phân tranh Nam Bắc ở thế kỷ XVII cũng như cuộc chiến tranh quốc cộng ở thế kỷ XX, đều là những cuộc xung đột mà qui mô và cường độ ảnh hưởng sâu đậm vào đời sống trong xă hội.

Cách đây 400 năm họ Trịnh và họ Nguyễn tranh thắng trong 45 năm với 7 lần giao tranh đẫm máu, rốt cuộc chỉ để rơi vào nguyên trạng một thế giằng co. Ngày nay người ta tự hỏi nếu vua Lê chúa Trịnh biết hợp tác trong khuôn khổ một chế độ hành pháp hai đầu - vua như tổng thống, chúa như thủ tướng - và Nam Bắc biết sống chung một thể chế liên bang - hai nhà mà một - th́ không chừng nước Việt Nam đă không phải đau nhục trong một trăm năm Pháp thuộc và đă không phải ngụp lặn thêm trong hơn nửa thế kỷ chiến tranh nữa.

Chính quyền miền Bắc đă trắng trợn xé nát Hiệp định Paris 1973, đă xua quân vào Nam mượn cớ là thống nhất đất nước mà kỳ thực là thiết lập  nền chuyên chính, phi pháp và phi nhân chưa từng thấy trong quốc sử, để rồi từ 1980 hối hả t́m đường sống bằng «dân chủ, văn ḿnh».

Khoảng cách 30 năm vẫn chưa đủ cho người cộng sản  suy ngẫm bài học về cuộc tương tranh Trịnh Nguyễn và bài học chiến thắng của họ Nguyễn. Tây Sơn bị tiêu diệt, nhưng thực dân sẽ tới, gây thảm họa cho cả dân tộc. Bao giời chính quyền Hà Nội mới hết cơn mê chiến thắng để nghĩ  đến hiểm họa chư hầu và tụt hậu trước mắt đang đe dọa dân tộc ?

----------------------------------------------------------------------------

TUỆ SỸ, Thuyền ngược bến không (tr.2-3)

Truyện người lớn về chiến tranh đâu đó, việc mấy anh lớn từng ẳm bồng tôi biến đi đâu mất, làm tôi  suy nghĩ. Khi ư thức được quá khứ th́ quá khứ đă trở thành hoài niệm  nhưng không sao mờ được, ví nó dính với hiện tại. Những người trang lứa cũng lần lượt ra đi, tuy chung quanh ḿnh, lớp học, sân trường, cuộc sống tiếp tục cạnh tranh vất vả.Nhưng vẫn c̣n lại một cơi thi ca riêng biệt dành cho những tâm hồn nhạy cảm.Và những câu thơ hiếm hoi cho đời bận rộn.

Chung quanh tôi, một số người vượt suối vô rừng, để lại thành phố những khúc hát Người ra đi, đi trên noi cao`. Một số khác cũng ra đi, nhưng để lại những tiếng khóc : Ngày mai đi nhận xác chồng. Say đi để thấy ḿnh không là ḿnh.

Rồi từng mấy chục năm qua, giữa một thế hệ đang lớn, thỉnh thoảng tôi cũng t́m lại được một vài câu thơ, để cho hoài niệm sống lại, với thời ḿnh đă sống, đă suy nghĩ, ưu phiền. Bốn câu thơ dưới đây :

Chiều về trên một nhánh sông

Bên tôi con nước đỏ ḷng quanh co

Nước loang dưới đáy trời dỏ

Buồn tôi thanh thót trên ḷ nhân sinh

(Một Nhánh Sông, Dư Tập, Thủy Mộ Quan)

Những câu thơ đó có gây ấn tượng nào không đối với bạn trẻ yêu thơ ? C̣n đối với người đă sống trong chiến tranh, th́ câu thơ là chút hơi thở tàn sinh, là nhúm cỏ nhởn nhơ trên cánh đồng khô cháy. Với hoà b́nh trở lại, hận thù theo nguyên tắc trở  thành t́nh yêu, đúng theo biện chứng, Máu của người đem lại t́nh thương. Nhưng trong thực tế, chính là thời của một thế hệ cầm bút bị khước từ.

Nh́n đoàn thiếu nhi giữa thành phố Nha Trang hô vang khẩu hiệu cách mạng, đả đảo văn hóa phản động, tôi biết ḿnh đang bị chối bỏ, từ nay tôi trở thành phần ăn bám, cặn bă xă hội, trong khi đó, lại một lần nữa, những người cũ của tôi lại lần lượt ra đi. Huyền thoại dân tộc thời mở nước đột nhiên quay trở lại. Những người con một thời lên rừng nay theo Mẹ quay về đô thị. Người khắc sợ hăi vội t́m ra biển theo Cha. Duyên tan nàng bắt con về núi. Những đứa theo cha khổ đến giờ  Thủy Mộ Quan). Số phận như vậy đă đành, nhưng c̣n những anh em côi cút, không cha không mẹ th́ sao ? Họ có thề t́m dấu  tích Trường Sơn : Quê người trên đỉnh Trường Sơn. Cho ta gở một nỗi hờn thiên thu (Thơ Tuệ Sỹ).

Riêng phần tôi, là kiếp cô độc. Bạn cũ chung quanh vẫn gần như những ngày nào của một thời buồn vui, nhưng ngày nay ngại ngùng tiếp xúc với tôi, mà thực tôi đâu có được phép nói năng ǵ đâu. C̣n  bao bạn khác, những cố nhân của tôi, mỗi người một phong cách, ở mọi phương trời, tôi đâu biết họ đương nghĩ ǵ. Không kể những người nằm trong dưới ḷng biển, cộng thêm với người chết trên rừng, những oan hồn c̣n ám ảnh tâm tư của người c̣n sống. Từ Văn tế thập loại chúng sinh ơn của Nguyễn Du đến Thuỷ Mộ Quan tâm trạng con người đều tương tự. Chung quanh không một người than khóc. Chỉ có trùng dương theo hộ tang.

Tuy nhiên đất nước đang hồi sinh. Những người ra đi lần luột kéo nhau vê, tuy hờn giận vẫn c̣n là vết thương nhức nhối. Văn chương bây giờ vẫn là một lựa chọn, như thả chiếc thuyền con ngưộc sóng. Tôi mong được như lời Viên Linh nói :

(Thủy mộ quan)

Sinh ở đâu mà giạt bốn phương

Trăm con cười nói tiếng trăm gịng

Ngày mai nếu trở về quê cũ

Hy vọng ta c̣n tiếng khóc chung.

--------------------------------------------------------------------------------------------------

BÙI MINH QUỐC, Về Nhân Dân Quên Ḿnh  (tr.4)

Lời nguyện ấy từ trong ḷng ra tiếng hát, trong mấy cuộc trường chinh. Nhưng sao đắc thắng, ta đành ngậm miệng đáng cay ? Không không ! Ta lộn trái lũ người đầu lưỡi !

Từng chữ, tứng chữ,  như mũi nhọn đào huyệt giấy chôn vùi lũ phản dân !

Ôi những cái lưỡi độc giết người, bây giờ uốn uốn, liếm liếm, liếm sao được bàn tay nhẩy máu !

 

XUÂN ĐÀI, Người con trai ấy (tr.4-5)

Trong những đêm yên tĩnh như đêm nay

Em thường nói với tôi về người con trai ấy

Ngưởi con trai có đôi tay mềm mại,

Đă sưởi cho em suốt mấy mùa băng giá.

Đă qua những vùng quê mặn ṃi muối mặn

Những cánh rừng chi chít suối sông.

Và những năm tháng xa biền biệt.

Mối t́nh đầu của em tan vỡ

Mối t́nh củ của tôi bắt đầu

Tôi yêu kỷ niệm trong sạch day dứt ấy.

Tất cả sẽ qua đi, tất cả lại bắt đầu.

Xin bù cho em mối tinh tan vở

Nhưng ai bù cho mẹ đứa con trai độc nhất,

Một sớm ra đi măi măi không về ?

 

TRẦN KHUÊ, Chùm thơ trong tù (tr.6)

Cảm thương cho cảnh nhà tù, vật vờ trong tự do. Đập đá Côn Lôn, nằm xà lim câp cố Sai G̣n, tất cả là là chuyện nhỏ.

Những người ngoài xă hội lừa dối nhau dữ dộ.Vu cáo người vô tội gián điệp, cái lưỡi không xương cứ uốn măi. Đổi Nam Quan thành đất ngoại. Nhưng ta mở toà Lịch sử, thời gian ngồi ghế chánh ṭa. Tên độc tài chạy thoát ?

--------------------------------------------------------------------------------------------------

VŨ THƯ HIÊN, Một mảnh sao băng (tr.7-9)

Tôi được các bạn trong nước bao trước cho biết là Đặng Phúc Lai  sẽ qua Pháp  để chữa bệnh, nhưng tôi được gặp anh trong một ngẫu nhiên thú vị, nhân cuộc gặp gỡ tưởng niệm Trần Độ ở Paris. Tôi ôm Lai, trong ṿng tay tôi là một thân xác nhẹ bỗng. Sau đó đưọc nghe Lai làm thuyết tŕnh. Cả hội trường im phăng phắc. Và ngỡ ngàng nghe các danh từ rất trừu tượng, tuy anh nói vể một Trẩn Độ, sản phảm của một thời tao loạn hối hả với những lựa chọn ngẫu nhiên, nhưng trung thành với lư tưỏng tự do, và vưột qua đuợc những bản năng xấu và những ư thức bị nhối nhét trong bao nhiêu năm. Con  người theo anh phải có cái Tâm trong sáng để ung dung hành động không ngó trước ngó sau, sống không phải chỉ được tồn tại.

Hóa ra Lai là một cây viết sắc sảo, với những tiểu luận chẳng bao giờ được in. Một cựu tù nhân có thâm niên hơn một giáp. Anh chuyên về Phật học, về Thiền và Vô Niệm, mà  anh lại có cách viết hơi lạ, với những đoạn xuống ḍng riêng của anh, nhưng anh làm sáng tỏ được  những khái niệm siêu h́nh, đôi khi pha chút hài huớc.

Lai và tôi là bạn đồng tuế, chúng tôi đều bước vào «đầu 7», nói theo từ ngữ trong nước, và cả hai không nghĩ đến cái chết, dồn sức nói chuyện về t́nh h́nh đất nước, về dân chủ, độc tài, về hai khái niệm Mẫn và Tuệ, hai thành tố của Nhân. Anh nói hàng giờ về chữ Tâm như là một sức mạnh sẽ cứu rỗi nhân loại, cho đến khi cuống họng của anh phát ra hơi gió thay cho tiếng nói. C̣n về cuộc sống của anh, lư do anh bị tù, th́ đâu có thành truyện. Người ta đi tù cũng như bao người khác v́ những lư do mà nhân loại b́nh thường không bao giờ b́nh hiểu được, dưới thời của chuyên chính vô sản, giáo dục những công dân hư hỏng bằng trại giam. Mà cách đào tạo này đă không bẻ găy cũng không hoán cải được Đặng Phúc Lai, chỉ để lại cho anh một lớp da bọc xương và cách nói văng tục, một loại ngôn ngữ giúp anh  truyền đạt được những tư tưởng cao siêu của anh cho lớp trí thức trẻ trong nước !

Anh có thể là một tác giả lớn, nhưng anh chỉ để lại những tiểu luận về Tri, Thức, kinh Thú Lăng Nghiêm, về Vương Dương Minh và Osho. Tóm lại anh đă viết nhiều hơn là chúng ta biết. Ta chỉ nghe biết anh đă trao tận tay cho bạn bè những bản chụp. Hy vọng rồi sẽ có ai sưu tầm những bải rải rắc đó, để chúng ta có dịp suy nghẫm  những kinh nghiệm suy tư của anh. Tuy nhiên ta biết được cách lư luận của anh là không thiên về chính trị. Anh cắt nghĩa : Ai cũng có cái Thân phải phụng dưỡng, nhưng sự phụng dưỡng không phải là mệnh lệnh tuyệt đối. Chính lúc thân h́nh tàn lục trong ngục tù là lúc cái Tâm trong họ vùng dậy giúp họ thoát khỏi sự giam cầm của cái Thân. Làm cho cái Tâm được lộ h́nh, chính là mục tiêu tối hậu của nhân loại. Theo anh với hiện tượng thông tin, internet, chính trị không c̣n là những tính toán «thâm cung bí sử», những trao đổi của hậu trường mafia, mà là nền chính trị trong chính cuộc sống, không phân biệt làm và không làm chính trị.

Tôi không rơ vào những lúc đó Lai có có biết anh không c̣n sống lâu nữa hay không.Thời gian c̣n lại cho anh phải tính bằng tháng hay bằng ngày, điều mọi người muốn giấu anh. Nhưng anh sao không hiễu được, thế nhưng anh luôn lạc quan, luôn giữ ḷng tin vào con ngựi và tiếp tục lư luận, phê phán không nể nang mà vẫn giữ t́nh nghĩa, và tiếp tục tham gia vào công việc chung. Anh đă cho ư kiến về tờ Viễn Tượng là câu truyện xa xôi đối với con người sắp từ bỏ thế gian này. Một truyện hầu như không tin được.

Ở tuổi tôi bạn bè cứ thưa dần. Những người bạn b́nh thường, những người bạn từng nổi tiếng, nhưng số phận hẩm hưu, họ bị sự quên lăng đe dọa. Đó là cả một giai đoạn đáng xấu hổ của dân tộc. Nhưng trong bầu trời đen tối, Đặng Phúc Lai như một mảnh sao vụt qua. Không rơ đă có lúc nào anh đă nh́n bằu trời để phát lên một nguyện vọng trước khi anh chính anh sẽ trở thành mănh sao băng.Chắc chắn là điều anh đă nói với tôi : Lạy Trời, tôi ước chế độ độc tài cộng sản này sớm kết thức, để cho con cháu chúng ta được sống như mọi người. Không cần vẻ vang vinh dự vinh quang ǵ hết, mẹ kiếp, chỉ cần được sống như mọi người thôi là tốt lắm rồi. (Paris tháng 2.2003)

--------------------------------------------------------------------------------------------------

TINH TIẾN, Làm hay không làm chính trị (tr. 10-15)

Tinh Tiến, một bút hiệu của Đặng Phúc Lai. Xem bài của Vũ Thư Hiên. Ông đă bị chế độ giam giữ không xét xử 1980 đến 1992, tức gần 13 năm. Tháng 7 năm 2002 ông mới được phép sang Pháp chữa bệnh ung thư. Ông mất vào mùng hai Tết Quư Mùi (2-2-2003). Trong thời gian ngắn ngủi ở Pháp, ông đă đă tham dự vào các buổi họp của nhóm chủ trương chúng tôi. Xin giới thiệu vơí quư bạn  bài bài dưới đây vẫn giữ tính chất thời sư.

Sang Pháp chịu khó học hành, chớ có dại dính vào chuyện chính trị, chính em mà khổ cả đời đấy.Đó là lời đặn ḍ  của một người bạn tôi dành cho đứa con trai sắp đi du học.Chính tôi cũng được bạn bè khuyên răn : Tây Tạng là chuyện phức tạp, động vào là chết như chơi ! Người trong nước là như vậy. Tuyệt đại đa số đă trở thành những con cáy sợ chết run chết dễ, khi động đến chính trị, mặc dù với kinh tế thị trường nỗi sô đó mất dần lư do tồn tại. C̣n người ở hải ngoại th́ sao? Có bao nhiêu người chịu đóng góp công và của cho cuộc tranh đấu dân chủ trong cả chục vạn người về thăm quê hương? Ngưởi ta có khi c̣n khuyên các vị sư xa lánh chính trị.

Như vậy cần minh định thế nào là làm chính tri, thế náo là không làm chính trị.

Chính trị trước hết là những quy tắc pháp lư, liền hệ đến chính thể mà ta gọi là Nhà Nước hay chính quyền. Thứ đến là một nghề cho một số người muốn nắm quyền thống trị, biến chính trường trở thành các cuộc ẩu đả, cuộc tranh chấp của mưu ma chước quỷ. Giới hạn quyền thống trị và môi trường chính trị đến đâu và bằng cách nào, chính là ư nghĩa của tinh thần dân chủ.

Trừ thiểu số chủ động làm chính trị, tuyêt đại đa số, dù làm nghề ǵ, cũng quanh năm phải tuân thủ chính quyên, tôn vinh chính trị, kính sợ Nhà Nước. Đó là thái độ làm chính trị theo bị động, mà người ta thường gọi là không làm chính trị.Loại người bị động vô ư thức  này lấy cuộc mưu sinh làm mối quan tâm duy nhất, không bận tâm đến việc chế độ xấu hay tốt.Thời nào cũng vậy, người ta tự nhủ. Nhưng cũng có loại bị động ư thức, những con người dị ứng với mùi hối thối của chế độ, buồn nồn ấm ứng, như ở Việt Nam hiện nay. Họ là thành phần bất đồng chính kiến, ta gọi là người dân chủ.

Với loại người nào đi nữa, mọi sự lệ thuộc phẩm chất dân chủ của chính thể và quyền tự do của người dân.Trong cụ thể, cà hai điểm đó tuỳ thuộc rất nhiều vào những người chủ động ư thức và người bị động ư thức.

Hiện trạng của Việt Nam ra sao ? Lớp chủ động ư thức trước hết là là loại  người đam mê cái nghề ngồi lên đầu  lên cổ thiên hạ, coi nhân dân dân tộc như những con vật. Lớp thứ hai, chiếm tỷ lệ áp đảo,  phần lớn xuất thân từ nông dân, ngày nay an cư lạc nghiệp trong các khu nhà tập thể,với những tiện nghi thông dụng. Họ tiêu hóa dễ dàng các tài liệu học tập của ban tư tưởng trung ương, nuốt ngon các nghị quyết của Bộ Chính Trị. Cách ăn uống đó đă thành bản năng thứ hai, thêm  vào thói quen sùng bái lănh tụ, trung thành tôi tớ của nông dân. Qua hai thập niên, lớp có ư thức ngày một giỏi giang hơn, nghĩa là sa đoạ hơn. Họ không bị giáo điều ràng buộc, tự tư bản hóa, khám phá ra đời sống huy hoàng gấp tỷ lần cha anh họ thời bao cấp.Họ sửa soạn hoà hợp hoà giải ; một giải pháp lợi cho họ và cho cả phe dân chủ, trong khi chờ đợi các quyền căn bản của xă hội được công bố, và cả trường hợp họ phải bỏ chính quyền.

Cho rằng cộng sản rất ngoan cố là một ảo tưởng, được phổ biến trong dân chúng. Phải ngoan cố mới tin là cộng sản hoàn toàn chủ động cả, c̣n mạnh mẽ lắm,  mưu mẹo lắm. Có biết đâu là chính v́ bản chất gian ác mà người cộng sản nhận ra con đường hiệp thương là lối thoát danh dự và an toàn nhất cho họ. Để đối phó với họ là lớp người bị động ư thức tức là loại người Dân chủ, mà các đặc điểm th́ nổi bật: tổ chức rời rạc, nhiểu chính kiến sai khác, nhiều khẩu hiệu dễ dăi, quá tự tin.

Chúng tôi thuộc lớp này, muốn mạnh dạn đưa ra vài ba ư kiến gọi là phần đóng gop.

Hăy bắt đầu bằng bằng một số đồng thuận và giữ vững lập trường đó.Thứ đến là phải cương quyết không nhượng bộ trong các ḍi hỏi về quyền tự do căn bản như tự do báo chí, tự do lập đảng. Và sau cùng là phải t́m mọi phương cách để nghiền nát cái tâm lư sợ chính quyền của đại đa số quần chúng và cả đại đa số những người đang nắm chính quyền, phải ra sức nâng cao  đân trí về mặt chính trị, bằng cách phổ thông các tài liệu văn hoá chính trị, và  phải khai thác mọi kênh quốc tế  để t́m sự ủng hộ cho cuộc tranh đấu dân chủ trong mọi lănh vực kinh tế, chính trị, thương mại, tài chính.

Về điểm sau cùng này, không nên v́ tinh thần tự lập mà quên thực tế, như trường hợp Dương Thu Hương được thả tự do nhờ áp lực quốc tế. Không nên hiểu đây là tâm lư  ỷ nại ngoại bang, mà nh́n cái lợi chung cho nền hoà b́nh thế giới, chỉ có thể được bảm đảm bằng các chính thể dân chủ. Không có mức nào là tối đa hết trong sự hỗ trợ quốc tế vê nhân quyền. Ta hăy khai thác vần đề biên giới, vụ án Nam Cao, vụ tang lễ cụ Trần Độ cũng như hăy tŕnh bày cho người trong nước và dư luận thế giới  một lư thuyết chính trị bao quát, ít nhiều chặt chẽ, thay v́ hô xuông mây khẩu hiệu  dân chủ, tự do, hay lặp lại các kiểu mẫu phương tây.

Lư thuyết chính trị cần được  xuyên xuất một chỉ đỏ triết học nào đó, liên hệ về vị trí của con người trong xă hội. Thực vậy, dù cộng sản hay quốc gia, độc tài hay dân chủ, chúng bta đều là những con quư của Thượng Đế. Chúng  ta ra đời với cái thân thích sướng, sợ khổ, cái thân chỉ đạo trực tiếp trên trường mưu sinh, gián tiếp trên mặt tinh thần, như sự nhân thức về thị phi, chính tà. Càng có nhiều tiện nghi  trong các siêu thị,  càng thêm các đe dọa cho sự sinh tồn của nhân loại. Tư duy phương tây đang chao đảo, hoang mang trên nền móng duy lư, đó là  bài học cho ta. Ta không nên quá  bận tâm cập nhật hoá  kiền thức và tin tức qua báo chí, internet,  mà quên nhu cầu đầu tư vào tư duy và nhận thức, trước cái đà thống trị của nên văn minh phưong Tây dưới danh nghĩa toàn cầu hoá. Người dân chủ đừng vội loá mắt trước các lôi ích trước mắt.Nâng cao mức sống của toàn dân không phải là mục tiêu cuối cùng và lư tưởng cuối cùng của nền văn minh thiên niên kỷ này. Con người với cái thân cần đưộc phụng dưỡng, nhưng con người dân chủ khi về già đâu có con tranh đấu cho cái thân của họ, và những chiền sĩ trong tù giữ được tinh thần vào lúc cái thân của họ tàn lụi. Tất cả là nhờ cái Tâm trong họ, thúc dục họ. Cái Tâm đó chính là Thượng Đế, cả hai là Một, hiện hữu trong mọi người, hữu thần hay vô thần. Hăy cho cái Tâm đó được lộ h́nh.

Với người Dân chủ hôm nay, cần phải nhận về bản thân và về địch, dút bỏ các ảo tuởng, và hành động trong trận pháp  fair play thay v́ ăn miếng trả miếng. Tin vào thái độ chính trị  công khai  trong thời đại thông tin đại chúng, thay v́ dựa vào các mưu mẹo và hậu trường của con buôn. Không làm gi c̣n vấn đề làm chính trị hay không làm chính trị.

Chính con người tạo thành bộ máy chính trị và cũng chính con người nằm dưới bộ máy ấy. Giáo dục đối vơi con người v́ thế là  vấn đề căn bản, nhưng không phải chỉ là cung cấp kiến thức kinh tế, tin học, vật lư. Là v́ nếu cái Tâm có sức hường dẫn mói quen hệ giữa chính quyên và nhân dân, th́ không thề t́m nó  ở bên ngoài. Con người không thể sống chỉ bằng bánh ḿin. Con người con có nội tâm. Chính trị từ ngàn xưa vẫn duy tŕ chính sách vô tâm, nhưng không phải là lư do để ta thôi tiếp tục trưởng dưỡng cái Tâm. Trái lại ngày nay xă hội có đủ điều kiện để cái Tâm giữ chỗ đứng của ḿnh trước cái Thân, cả trên hai trên lănh vực khoa học và hàng động.

Chúng tôi quá lạc quan, quá manh sắc thái tôn giáo ? Các bạn nghĩ thế náo cũng đươc về cá nhân của chúng tôi. Nhưng các bạn hăy cố suy nghĩ  về chính cái tâm của ḿnh đi, thấy cái hay ở bên trong, để nh́n ra một thiên đường vị tha.Thực hiện cái Tâm trong hành động sẽ giúp việc xác định hai khái niệm làm hay không làm chính trị. 

--------------------------------------------------------------------------------------------------

NGUYỄN ĐAN QUẾ, Lộ tŕnh 9 điểm nhằm dân chủ hóa Việt Nam (tr.16-17)

Phỏng vần của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) ngày 26 tháng tư năm 2005

VOA : Xin ông cho biết về t́nh h́nh nhân quyền ở Việt Nam hiện nay ra sao ?

NĐQ : Tôi khẳng định với quư vị rằng nhân quyền đi xuống trong những năm gần đây. Các nhà hoạt động đối lập đều bị bỏ tù, các tôn giáo bị lũng đoạn. Quyền tự do sinh sống, đi lại, tín ngưỡng  của các dân tộc thiểu số bị vi phạm nặng nề.

VOA : Người ta có quyền xử dụng mạng lưới thông tin hay không ?

BĐQ : Việt Nam hiện nay không có tự do phát biểu công khai trên báo chí và trên Internet. Báo chí (500 tờ) và đài truyền h́nh (hàng chục đài) đều do Nhà nước điều hành. Thông tin chỉ có một chiều. Ai chỉ trích chính phủ sẽ bị đe dọa, mất việc, khai trừ, và có thể bị tống giam. Các tài liệu đấu tranh chỉ có thể chuyển tay nhau.

VOA : Có bằng chứng nào cho phép nói là có sự tuân thủ các quy định qưốc tế về quyền dân sự và chính trị  ở Việt Nam hay không ?

NĐQ : Chúng tôi không thấy bằng chứng nào hết. Chỉ thấy một loạt các vi phạm như người dân không có quyền bầu cử trực tiếp, hiến pháp nh́n nhận quyền lănh đạo của đảng CS, nghị quyết 31/CP cho phép giam tù mà không cần xét xử, người được thả tù không được phục quyền công dân và bị theo dơi gắt gao !

VOA : Xin ông nói về cái tội làm giám điệp và số nạn nhân bị cao buộc.

NĐQ : Một chút dấu vết liên lạc với ngoại quốc là đủ cho chính quyền kết án người đối lập là làm gián điệp. Nếu không là tội lạm dụng các quyền dân chủ, đó chính là trường hợp tôi phải chịu. C̣n bao nhiều người khác bị cáo buộc th́ dư luận không biết chính xác được.

VOA : Xin ông cho biết nội dung của con đường tranh đấu của ông.

NĐQ : Chúng tôi đă đưa ra một lộ tŕnh gồm 9 điểm nhằm dân chủ hoá Việt Nam.

Chấm dứt việc nhiễu sóng các đài VOA, RFA.

Tôn trọng quyền tự do báo chí.

Tha hết các tù nhân chính trị và tôn giáo.

Tôn trọng quyển tự do tôn giáo theo đúng các nguyên tắc của LHQ.

Hủy bỏ điều 4 trong Hiến Pháp và nghị quyết 31/ CP.

Bộ Chính  trị đảng CSVN phải tôn trọng nhân quyền, dân quyền và tài nguyên quốc gia

Tách đảng CS ra khỏi chính quyền ở tất cả các cấp.

Giao cho Quốc Hội soạn thảo lại luật bầu cừ theo các quy tắc dân chủ.

Chính phủ và chính quyền, độc lập với đảng CS, sẽ tổ chức bầu cử sau đó, với giám sát quốc tế.

VOA : Áp lực các nước phưong Tây và các tổ chức độc lập cho đến nay  có  tác động tới cuộc tranh đấu ở Việt Nam hay không ?

NĐQ : Chúng tôi nghĩ là tất cả các áp lực, đi cùng với việc mở cửa kinh tế, đều đang đóng góp tịch cực vào cuộc tranh đấu dân chủ của dân tộc. Nhân dịp chúng tôi xin  cám ơn chính phủ, quốc hội  và các cơ quan truyền thông đại chúng của Hoa Kỳ, cũng như các tổ chức  nhân quyền quốc tế, cũng như  hàng triệu người Việt định cư ở nước ngoài đă đóng góp vào cuộc đấu tranh. Nhờ đó mà tôi được thả tự do.

--------------------------------------------------------------------------------------------------

ĐOÀN VIẾT HOẠT, Con đường dân chủ hóa Việt Nam (tr.18-21)

Tôi xin cám ơn ban tổ chức và quư vị có mặt hôm nay (Đại học John Hopkin Hoa Kỳ). Ứơc ǵ chúng  ta cũng có thế gặp nhau như thế này ở ngay Hà Noi hay Saigon thay v́ chỉ ở Hoa Thịnh Đốn !

Kể từ 1990  bao người đă vận động tổ chức các cuộc hội thảo, nhưng tât cả đều bị quản thúc, hay bị bỏ tù. Bản thân tôi cũng cũng  đă chung một số phận. Nhưng nếu tất cà chúng ta tiếp tục vận động th́ ở Việt Nam sẽ có những buổi sinh hoạt tự do, và chúng ta có thể tin là ngày đó sẽ đến trong thời gian không xa nữa.

Tin như vậy v́ xă hội dân sự cởi mở là xu thế của thời đại. Cuộc bỏ phiếu vừa qua ở Irak, bầu khí tự do ở Indonexia và ở Ukhaina, chúng tỏ là mối liên hệ quyền lợi quốc gia và quyền lợi quốc tế gắn liên với nhau. Đó củng là lư do của buổi trao đổi về Việt Nam cách nơi đây cả nửa quả địa cầu. Chúng ta đồng ư với bà nghị sĩ Loretta Sanchez trong đề nghị tổ chức cuộc đối thoại với bà Tôn Nữ Thị Ninh ở tại Việt Nam cũng như chúng ta đă làm ở Mỹ.

Chúng ta nh́n nhận là Việt Nam đă có những tiến bộ về phát triển, chính là nhờ người Việt được tự do hơn. Việt Nam sẽ tiến nhanh hơn nữa nếu nhân dân được hưởng tự do hơn. Chính quyền tại Việt Nam chỉ mới nới lỏng sự kiểm thoát trước áp lực quốc tế, giới hạn quyền tự do vào quyền xin phép những ǵ được phép xin. Người dân, trên giấy tờ, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Ư nghĩa đích thực của cụm từ được phổ biến rộng răi là  tất cả các quyền đều được  đặt duới quyền quyết định của Đảng CS, tức là theo nguyên tắc  pháp quyền, cai trị bằng pháp luật. Nguyên tắc này được ghi trong hiến pháp : mọi quyền căn bản phải được thực thi   theo quy định của pháp luật. Thí dụ quyển tự do tôn giáo phải  dựa theo Pháp lệnh tôn giáo. Nghị định 31/CP cho phép chính quyền cấp xa  tự tiện   quản chế hành chính bất cứ ai, theo một thủ tục hoàn toàn đi ngược lại Điều 72  trong Hiến Pháp đă  nh́n nhận vai tṛ của Toà án trong việc kết tội một người công dân. Tổng Bí Thư đảng CS, trái lại không được Hiến Pháp nh́n nhận, nhưng  sự im lặng này lại mang ư nghĩa ngược đời là chức vụ Tổng Bí Thư  đứng  trên Hiến Pháp, đứng ngoài mọi ràng buộc của các đạo luật ! Cũng thể nói là Điều 4 nh́n nhận vai tṛ tối cao của đảng CS mà không đặt vấn đề trách nhiện của nó, và cho phép các cơ quan lănh đạo của Đảng thực thi quyền độc tài.

Như vậy pháp quyền thực là một chính thể độc tài có pháp luật, hoàn toàn  đi ngược với ư niệm pháp trị  mà đặc điểm là đ̣i hỏi chính quyền cũng như người dân  tôn trọng hiếm pháp. Không cá nhân hay đảng phái nào có quyền đứng trên  hay đứng ngoài pháp luật. Pháp trị là điều kiện cho nền dân chủ.

Từ 20 năm qua, các quốc gia dân chủ đă gia tăng con số từ 30% đến 60%. Dân chủ hóa là một thành tựu ngoạn mục đi song song với kinh tế thị trường : đặc biệt sự thành lập Phong Trào Dân Chủ thế giới tại Ân độ năm 1999 và đại hội Cộng Đồng các nước Dân Chủ được tổ chức lần đầu tiên tại Balan năm 2009. Xu thế dân chủ không chỉ là một khuynh hướng chính trị, nó c̣n là một bộ phận cho chương tŕnh phát triển. Dân chủ, theo Amartya Sen, giải Nobel, là nhân tố chứ không phải là hậu quả của phát triển.

Ngày nay không cần hỏi tại sao ta phải cần dân chủ, mà làm sao để thiết lập và củng cố nền dân chủ, tinh thần dân chủ, trong mối tương quan vơi kinh tế, giáo dục, văn ḥa. Mối  liên hệ giữa phát triển và dân chủ được nhiều học giả lưu ư, dựa vào giai cấp trung lưu, tŕnh độ giáo dục, mức sống của người dân. Nhưng sự việc không đơn thuần như vậy. Trong một số quốc gia th́ thấy bản thân phát triển kinh tế không đương nhiên đem lại dân chủ. Phải có kế hoạch phát triển toàn diện mới thay đổi được hệ thống giá trị và thái độ của người dân hợp với đ̣i hỏi dân chủ. Phần trí thức yêu tú có thể đóng vai tṛ quan trọng trong chiến dịch chuyển tiếp. Ta không thề chờ cho đời sống ở Việt Nam cao hơn mới mới nói tới dân chủ. Dân chủ là một giá trị phổ cập ai cũng có quyền hưởng. Người Việt Nam đáng được sống trong một xả hội sung túc và dân chủ sau nửa thế kỷ đấu tranh cho độc lập và tự do. Đi vào cụ thể, tôi đề nghị một kế hoạch  nhằm tự do hoá các lănh vực lănh vực hoạt động của người dân và dân chủ hóa chính quyền. Kế hoạch dự trù tạo điều kiện cho sự tham gia của mọi thành phần  trong nước và ngoài nước, trong mọi lănh vực, từ thương mại, văn hóa đến công việc từ thiện, có sức tăng cường sức mạnh của quần chúng và giảl thiểu sự kiểm soát của chính quyền.

Phải bắt đầu bằng  kinh tế thị trường (giai đoạn một)  để sang tới giai đoạn hai, nhằm dân chủ hoá các hoạt động kinh tế (cạnh tranh, tư nhân)  và văn hóa (giáo dục, thông tin) của quần chúng, và từ đó gây áp lực cho công việc dân chủ hóa chính quyền (giai đoạn ba).Trong cả ba giai đoạn, tự do thương mại và tự do cạnh tranh là những thách thức to lớn, chỉ có thể đối phó được  khi người dân đuợc pháp luật công minh bảo đảm.

Tôi vui mừng về sự ra đời của các trường đại học tư thục (chớ không phải chỉ dân lập). Cần phải đi xa hơn nữa, phải chấp nhận tự do tư tưỏng và tự trị đại học, cho phép giới trẻ tự do tiếp cận với nền giáo dục tiến bộ theo kịp các tiêu chuẩn quốc tế. Giới trí thức, giới nghệ sĩ cần được giải phóng khỏi mọi h́nh thức trói buộc và kiểm soát, để họ có thể chóng đạt tới tŕnh độ các đồng nghiệp trong vùng Đông Nam Á. Trong khi chờ đợi, họ đương đóng vai tṛ chủ động, chính quyền có muốn hay không cũng chịu vậy. Họ không ngừng đ̣i hỏi dân chủ hóa mọi hoạt động. Đă đến lúc chính quyền phải chấp nhận một lộ tŕnh phát triển mang tầm vóc thời đại.

Một nước Việt Nam của thời đại toàn cầu hóa đang ra đời. Một Việt Nam đang hồi sinh đầy sức sống, nhưng cần sự hộ trợ của chúng ta, và cùng nhau vưột qua mọi trở lực, với ḷng tin tưởng và chủ động đi vào cuộc hành tŕnh tươi sáng trước mắt.

 ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

NGUYỄN VĂN TRẦN, Dân chủ cộng đồng và khả năng đóng góp xây dựng Việt Nam ngày mai. (tr.22-26)

Từ ngữ cộng đồng trước tiên hàm chỉ  cộng đồng quốc gia . Ngày nay là chỉ các tập hợp sắc tộc sinh sống ở ngoài quốc gia quê quán. Đó chính là hoàn cảnh của chúng ta, có hai Việt Nam, quốc nội và hải ngoại, và như vậy việc xây dựng cộng đồng Việt Nam hải ngoại  rât quan trọng, bởi nó  cho ta những kinh nghiệm thiết thực để xây dựng  đất nước sau này. Từ hải ngoại người ta tự hỏi Việt Nam  hậu cộng sản có thể thành nước dân chủ hay không, và dân chủ  có thực sự đáp ứng  nhu cầu của người dân cho đến nay chỉ biết  chế độ quân chủ và độc tài.

Từ 1946, Việt Nam  có tất cả 6 bản tiếng Hiến Pháp, trong đó miền Nam có hai bản : 1956 và 1967.

Bản Hiến Pháp 1946 chỉ có giá trị một tài liệu văn khố không được ban hành áp dụng. Các bản Hiến Pháp sau đó của miền Bắc chỉ lả công cụ đàn áp của độc tài. Hai bản Hiến Pháp của miền Nam dưới chính thể Đệ I và Đệ II cộng ḥa, tuy chưa thực sự hoàn chỉnh, nhưng giữ được nền tảng của một chế độ dân chủ.

Như Việt Nam chưa có một chế độ dân chủ, nhưng không có nghĩa là người dân không hưởng được quyền công dân. Nhà vua chỉ ngăn cấm những việc có phưong hại đến kỷ cương xă hội, mà không quy định những điều mà ngày nay chúng ta gọi là quyền.

Măi đến thế kỷ 19, tiếng Quyền mới du nhập vào Việt Nam qua ngơ Nhật Bản, và trở lên quen thuộc với các từ dân quyền, nhân quyền. Tuy nhiên dưới thời quân chủ, ngướ dân không hoàn toàn bị đặt dưới sự khống chế của lớp lănh đạo. Mọi người từ thiên tử (thiên mạng) đến thứ dân  (dân bổn) đều có nhiệm vụ phải chu toàn. Nếu nhà vua không làm tṛn nhiệm vụ th́ trời sẽ theo ư dân mà thu hồi cái mạng đă cho.

Về cơ cấu, nếu ngôi vua được trao truyền theo lối thế tập, các chức vụ và phẩm tước khác  là do tài đức và công nghiệp mà có. Việc mở trường dạy học hoàn toàn tự do, người học giỏi làm quan và dược xă hội trọng vọng.Ai củng có thể tham gia vào chánh sự, tuỳ tài năng mỗi người. Chế độ quân chủ khuyến khích việc pháp biểu chánh kiến. Chu Văn An xin vua chém đầu bảy kẻ nịnh thần, và vẫn được kính trọng.Minh Mạng tôn trọng ư kiến của cấp dưới.

Việt Nam có hai bộ luật : luật Hậu lê và luật nhà Nguyễn vẫn được xử dụng cho tới 1975, cả hai có nhiều điểm tiến bộ hơn các luật pháp bên Tây ngày nay. Thí dụ án tử h́nh trưóc khi thi hành phải được nhà vua duyệt xét. Người dân có cơ hội tŕnh bày nỗi oan ức của ḿnh, và có quyền tự do đi học, dự thi và tham chánh.

Nhà nước quân chủ thiết lập trên cơ sở pháp lư. Luật pháp có trước quốc gia ở nước ta cũng như ở Tây phương thời trung cổ,  tuy quyền dân củ chưa được thể chế hóa, nên người dân chưa biết hành xử  quyền của ḿnh như ngày nay.

Trước năm 1975, người Việt hải ngoại chỉ mới có lối 150 ngàn, sống phần lớn ở Pháp. Sau biến cố năm đó, là phong trào vượt biên vĩ đại. Ngày nay cộng đồng người Việt ước tính phải tới 3 triệu người : 1 triệu 300 ngàn bên Hoa Kỳ, 250 ngàn bên Uc, 180 ngàn bên Canada, 180 ngàn bên Pháp, các nước khác (Bỉ, Hoà Lan, Ư, Đức, Thuỵ Sĩ, Anh, Áo) từ 5 ngàn đến 50 ngàn. Trường hợp người Việt sống ở các nước Đông Âu, từ khi tường Bá Linh phá vỡ, là một sự kiện mới, về căn bản chưa phải là một cộng đồng. Lớp người tị nạn chính trị, xum họp chung quanh mỗi gia đ́nh, vừa giải quyết đời sống vật chất, vừa tranh đấu cho có ngày trở về quê nhà. Cuộc sống vừa tạm ổn th́ những đoàn thể mang màu sắc chính trị bắt đầu xuất hiện. Chính trị như kết hợp các cựu quân nhân t́m cách tổ chức những ổ kháng chiến. Nhưng nhất là vận động dư luận quốc tế làm áp lực trên chính quyền CS trong lănh vực nhân quyền. Đó là một đặc điểm Việt Nam so với các cộng đồng sắc dân khác.

Thế hệ II  thực sự đă trưỏng thành, thế hệ III đang manh nha : cả hai ư thức đến khía cạnh văn hóa nhằm khôi phục và phát huy nền văn hóa dân tộc đă bị mai một duới chế độ công sản, điều mà họ chưa ư thức v́ đă đồn sức vào việc việc chống cộng. Trong viễn  tượng đó Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ,  vớí màu sắc văn hóa tranh đấ, đang nỗ lực thực hiện hoài băo chung cho cộng đồng, và t́m cách giao lưu về nuớc.

Tranh đấu văn hóa chính trị ngày nay không thể không đề cập tới viễn tượng dân chủ cho Việt Nam, không thể không học hỏi kinh nghiệm quư báu các nước Tây phương, để giúp ta thấu hiểu ba ư niệm căn bản là quyền bất khả nhượng, chủ quyền và dân chủ. Quyền an ninh thân thể, quyền tự do tinh thần, quyền chống lại áp bức của Nhà nước : đó là những quyền tự nhiên của con người, mà Nhà nước thể tước đoạt được.Chủ quyền quốc gia thuộc toàn dân và sau cùng dân chủ là sự cai trị bởi dân và v́ dân. Dân chủ không thề được định nghĩa bởi nguồn gốc quyên lực, nhằm thực hiện an ninh trong xă hội và bào vệ những quyền căn bản. Dân chủ đích thực phải dựa trên ư niệm pháp trị, đặt chính quyền dưới pháp luật. Ư niệm này không dính dáng trực tiếp với ư niệm dân chủ tập trung hay dân chủ đa nguyên.

Đối với người cộng sản, chỉ có hai thứ dân chủ : tư sản và xă hội chủ nghĩa, cả hai đi sát với hai nền kinh khác biệt : kinh tế tư sản, kinh tế tập trung. Nguời CS tập trung quyền lực để bào đảm sự thống nhất tư tuởng, tổ chức, và chính sách đàn áp. Họ nói tới dân chủ nhưng không tôn trọng nguyên tắc chủ quyền quốc gia. Nguời dân b́nh thường ngoài đảng CS không có quyền tham gia chánh sự và quyền phát biều ư kiến độc lập. Tóm lại dân chủ của CS chỉ là mỹ từ, không phải là dân chủ pháp trị.

Bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ (1776) và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1789) đều khẳng định quyền người dân làm chủ đất nước và vận mạng của ḿnh,  hai quyền bất khả huỷ diệt. C̣n ở  nước Đức từ 1949 nền dân chủ dựa trên Nhà nước pháp trị, tôn trọng những quyến căn bản của con người và dành cho các liên bang  quyền phát triển những đặc thù của ḿnh.

Thời hậu CS ở Việt Nam phải là chế độ dân chủ tự do, chấm dưt t́nh trạng xáo trộn tàn dư của độc tài, và động viên nhân lực để tái thiết và đẩy mạnh sức tiến của dân tộc ngang hàng với các nước trong khu vực.

Trong nỗ lực đó, cộng đồng Việt Nam hải ngoại có có chỗ đóng góp của ḿnh. Nhưng phải bắt đâu vào việc áp dụng tinh thần dân chủ vào những hoạt động của cộng đoàn. Nghĩa là phải biết có người bên cạnh và biết tôn trọng những nguyên tắc căn bổn đă chấp nhận.

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------NGHIÊM-XUÂN  PHONG TUẤN, Các nước Khổng Mạnh ngày nay (tr.27-32)

Trong Đại Hội Thế Vận năm qua, Trung Quốc chỉ thua nước Mỹ là nước từ trưóc đến nay vô địch trong cuộc thi đua này. Đó là một dấu hiệu. Ta có thể tin rằng chỉ năm mươi năm nữa Trung Quốxc sẽ đuổi kịp và rất có thể vượt  Mỹ  về kinh tế và cũng như về quân sự.

Số Thu Nhập Quốc Gia GNP đặt Trung Quốc vào quốc gia thứ 6. Ngoại thương Trung Quốc  đứng vào quốc gia thứ 3. Nhưng theo Tổng Sản Trong Nước GDP,  ít nữa dưới con mắt của CIA, Trung Quốc đứng thứ nh́ trên thế giới, ngay sau Mỹ. Để đo lường khả năng bành truớng của một nước, ta phải trừ đi trừ đi sản phâm cần thiết để nuôi dân nước đó. Trong tuyệt đối, với hơn tỷ dân, Trung Quốc sẽ có sức mạnh hàng đầu thế giới, nhưng sản  phẩm c̣n lại để nuôi dưỡng tham vọng bành trướng là điều cần được tham xét.

Mặt  khác, cái làm ta chú ư là những chương tŕnh xây dựng vĩ đại ở Trung Quốc. Không kể các xa lộ và các nhà chọc trời, c̣n có những chưong tŕnh mở mang ở Tứ Xuyên và vùng Tây Vực, nhằm tăng cường phát triển ở phía Tây, vừa để làm cân bằng với miền biển, vừa để hướng về một miển có nhiều hứa hẹn trong tương lai, nhờ vào đất đai và nguyên liệu tự nhiên. Trong lănh vực khoa học, Trung Quốc sẽ đào tạo đủ nhân tài. Và một khi đă vượt khỏi cái mặc cảm bị coi rẻ, Trung Quốc sẽ sinh ra những nhà tư tưởng chủ trương bác ái,  nối lại với Mặc Tử,  sẽ trở nên một nước dân chủ hoàn toàn, và không có cần đi xâm chiếm ai. Nhưng đó là câu chuyện về lâu về dài, trong thế kỷ nữa. Thời gian Trung Quốc vượt Hoa Kỳ  là 50 năm nữa, và trước khi tinh thần dân chủ được phổ cập, nhân loại sẽ lâm vào một t́nh trạng nguy hiểm.

Hiện nay Mỹ là cường quốc mạnh nhất thế giới về cả mọi mặt. Nhưng chính trong xă hội Mỹ vẫn có những người chống lại xă hội ḿnh, phần nhiều là loại người tự xưng là cấp tiến, mà thực là theo Robespierre, Saint Just, Pol Pot. Tuy nhiên sự chống đối cũng là một hiện tượng tự nhiên. Mặc dầu cách mạng Mỹ thế kỷ thứ 18 là cuộc cách mạng duy nhất đă thành công, nhờ vào sự lănh đạo của những người đă hấp thụ được đạo đức như Washington, Franklin, Jefferson. Nhưng vấn đề nô lệ phải chờ đến năm 1960 mới giải quyết xong. Điều quan trọng là một xă hội cường thịnh như xă hội Mỹ cho đến nay có khả năng chấp nhận mọi chống đối. Nhưng khi nước Mỹ bị  Trung Quốc đe dọa dư luận Mỹ sẽ thay đổi thái độ, xă hội Mỹ sẽ không c̣n tự do dân chủ như ngày nay.

Trong viễn tượng cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam ở vào t́nh trạng nguy hiểm. Hành động thô bạo của Trung Quốc đối với dân ta càng ngày càng rơ rệt. Vụ tàn sát ở Biển Đông có thể c̣n tái diễn. Nó có nghĩa là người ta bât b́nh với cố gắng của chính quyền Việt Nam t́m cách liên kết với Mỹ. Đứng  trước đe dọa, ta phải có lực lượng quân sự  tối thiểu, ta cần có một hải quân mạnh mẽ.Về kinh tế, phải dựng lên những nguồn lợi mới chung quan ven sông Cửu Long, để Trung không có lư dùng con sông làm vũ khí hại ta. Việt nam vừa phát hiện ra cà phê, nhưng cần phải đề đồng bào thượng hưởng cái quyền dành cho chủ đất. Đà lạt là nơi có thể khai thác phát triển nghề trồng hoa như Hoà Lan hay Thái Lan. Nước ta có hai ngàn cây số biển,  hăy xem người Nhật khai thác ǵ với biển của họ mà rút bài học. Bờ biền c̣n thu hút khách du lịch, với điều kiện là phương tiện giao thông thuận lợi. Nhưng trưóc vấn đề chủ chốt là nhân lực, tức là đầu tư vào dịch vụ.

Trên bàn cờ chiến lược, uy tính  của Mỹ có tầm ảnh hưởng đến nước ta. Ngày mai, chính sách dân chủ hóa nước Irak mà thành công,  nước Mỹ sẽ có thêm uy tín  để bảo vệ eo biển  Đài Loan. Để Đài Loan lọt vào Hoa Lục không khác ǵ ngày xưa Tề để Tần chiếm Hán mà không cứu. Một nước Việt Nal giàu mạnh có lợi cho Hoa kỳ. Việt Nam có tài nguyên, có nhân lực, là một thị trường có thể thu hút người Mỹ. Họ có thể ào ạt đến nước ta xây dựng  nhiếu xí nghiêp. Về phía ta, trao đổi với người Mỹ để học hỏi cách quản trị, và mua được những sản phẩm tốt nhất. Hiện nay v́ các vi phạm nhân quyền mà mối quan hệ với Mỹ gặp trở ngại. Hăy xem chính sách của Mỹ ở Irak là hiểu Hoa Kỳ tin tưỏng vào trào lưu dân chủ,  và dĩ nhiên mong muốn  mở cửa cho Việt Nam. Nếu nước ta có một chính  thể dân chủ, sự bang giao với Mỹ đă tiến một bước xa, ta đă có thề điều đ́nh một viện trợ to lớn cho phép ta phát triển.

Chung quanh Việt nam, có những nước chia sẻ với ta nền văn minh khổng mạnh. Dựa  trên nhiều điểm chung trong tư tưởng, ta có thể dựng lên một vùng bang giao mật thiết với  nhau, với điều kiện là ta có xă hội nhân quyền như họ. Hăy nhớ lại chữ nhân của Khổng, gồm các đức khác, như Nghĩa, Lễ, Nhân ái, mà chủ đích là cách cư xử người với người. Khổng không chủ trương khái niệm cứu cánh như đạo Thiên Chúa, và v́ thế giữ thái độ vô vi. Đạo đức để tu cho chính ḿnh, khác với cách sống đạo của người Tây phương là dấn thân vào xă hội, làm việc từ thiện. Đó là chọn lựa của mỗi ngưởi. Nhưng sự tôn trọng con người, một giá trị của Tây phương, cũng như khoa học, là điều ta cần học lấy. Cũng như ta cần giữ chữ Nghĩa  trong mối quan hệ xă hội. Chữ Lể cũng cần thiết, nói chi đến chữ Trí, là một nét nổi bật, v́ người lănh đạo phải có trí. Nhưng không hiểu sao người Việt Nam thiếu chữ Tín. Bao nhiêu người ngoại quốc đến Việt Nam đă bị lừa gạt, trong khi đó người Hoa đối xử ngược lại.

Từ ngàn xưa, Việt Nam là một bang văn minh, che chở cho trung quốc về phiá nam trong khi phía tây và phía bắc bị các rợ luôn luôn đe dọa. Khi Mông Cổ xâm chiêm Trung Quốc, quan quân nhà Tống sang Việt Nam, được đón tiếp nồng hậu. Sau đó bị quân Măn Thanh tấn công, quan quân nhà Minh lại chạy sang nước ta, được chúa Nguyển cho đất đai.  Nói chung người Hoa sang làm ăn dể dăi, số đông trở thành người Việt. Vậy không có lư ǵ người lănh đạo Trung Quốc, từ xưa tới nay coi nước ta là một địch thù.

Chọn đường lối ngoại giao thích hợp,  xây dựng nền kinh tế vững mạnh, khai thác trí tuệ, đó là những múc tiêu hàng đầu cho tương lai Việt Nam.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

VƯƠNG VĂN ĐÔNG, Chế độ cộng sản Việt Nam và đối lập 30 năm sau (tr.33-38)

Lịch sử đă chứng minh không một chế độ chính trị nào có thể tồn tại măi với thời gian. Sự thay đổi có thể thể hiện  dưới nhiều h́nh thức, mà nguyên nhân của thay đổi là đời sống văn hoá phát triển và xă hội nhân sự gây áp lực. Chề độ độ chuyên chính hiện hành ở Việt Nam chóng chầy cũng bị chi phối bởi quy luật chung.Nhưng ta chưa biết sự biến đổi sẽ xảy ra vào thời điểm nào và trong bối cảnh nào. Tuy nhiên chính sách đổi mới chính là khởi điểm của quá tŕnh biết chất của của chế độ, ngày nay chỉ c̣n giữ mục tiêu duy nhất là  giũ chính quyền lâu dài cho tầng lớp quan liêu mới. Ta có thể dự đoán chế độ sẽ biến chất theo ba kịch bản : dưới sức mạnh  của quần chúng, dưới áp lực của kinh tế thị trường, dưới sức ép của  biến động nội bộ. Tương lai lệ thuộc vào sự tương quan  giữa chế độ và đối lập, và sự xuất hiện các xáo trộn không thể tránh được trong buổi giao thừa. Dù theo kịch bản nào, đối lập cần đồng thuận  về những biện pháp, rút ra từ kinh nghiệm chuyển biến ở Liên Xô,ở Irak, để có thể cùng nhau đối phó trong tiến tŕnh dân chủ hóa.

Từ 30 năm nay, ở hải ngoại đă có rất nhiều tổ chức, hội đoàn tranh đấu chính trị. Một số tướng lănh và chính trị gia nghĩ tới cách lật đổ chế độ CS bằng vũ trang, và ư tưởng đó đă một thời đáp ứng được tâm lư của cộng dồng di tản, Nhưng luận điệu tiêu cực, không nêu lên được đường lối thực tiễn, không kết hợp được các nhóm, lại c̣n bị phân hóa, vào lúc con đường tiến tới dân chủ vẫn cón dài và gặp nhiều khó khăn, và người CS tiếp tục củng cố quyền lực của họ, và t́m cách đi vào môi trường cộng đồng hải ngoại. Cả một thế hệ đă thất bại. Không ai tin rằng những nhân vật thời trước lại trở thành những chiến sĩ của tự do. T́nh trạng chia rẽ quá lớn không thề làm bảo đạm  cho sự chung lưng đấu cật cần thiết trong tương lai. Và cứ giới hạn hoạt động vào lư thuyết th́ làm sao tránh được hiện tưởng tan loăn và mất tín nhiệm của quần chúng? 

Chủ trương khánh chiến chống cộng của Mặt Trận có một thời rất sôi nổi, rồi dần dần bị  lănh quên. Nói thực ra mấy ai muốn bỏ cuộc sống an ổn để dấn thân vào cuộc phưu lưu ở Việt Nam. Phải t́m con đường tranh đấu chính trị, với một tổ chức mới, đảng Việt Tân, với sự tham gia của nhiều dân di tản. Liệu tổ chức này có tránh được con đường cũ hay không. Ta có quyền hy vọng. Chủ trương ḥa giải hoà hợp dân tộc của nhóm Thông Luận, đại diện cho  khuynh hướng thứ hai ỏ hải ngoại. Ḥa giải là chấm dứt một t́nh trạng đă qua, ḥa hợp là cùng nhau hướng về tương lai. Đó là những mong ước rất chính đáng, nhưng chỉ có hiệu lực nếu chế độ đương nắm chính quyền ở vào vị thế phải chấp nhận. Nếu không chỉ là những mong ước vô vọng.Và cũng có thề là thái độ thụ động v́ sự đồng thuận trong hoàn cảnh nào cũng phải dựa vào một số nguyên tắc chung mà  cả hai bên đều chấp nhận, nhưng đó là điều ta chưa rơ.

Khuynh hướng thứ ba xuất phát ra từ những người đi lao động  và du học sinh ở Liên Xô và ở Đông Đức. Họ đă viết nhiều về lập trường chính trị, thể hiện tư duy của trí thức. Nhờ vào kinh nghiệm sống, họ đă đóng góp những nhận nthức thiết thực về t́nh h́nh trong nước. Khuynh hướng thứ bốn là thành phần trí thức trẻ ở nhiều quốc gia định cư. Họ xuất bản nhiều tờ báo nghị luận, xậy dựng mạnh lưới điện thư, phổ biến tin tức, vận động sữ hỗ trợ quốc tế bênh vực tù nhân chính trị và tôn giáo. Đó quả là thành hính của xă hội dân sự hải ngoại, nhưng chưa được chuyển thành hành động hướng về việc xây dựng lực lượng quần chúng. Nh́n tổng quát như vậy để nhận định là thiện chí th́ nhiều, nhưng đă hao phí vỉ những chọn lựa không đúng hay không dứt khoát.

Giữa năm 1989, ta thấy xuất hiện ra Hội những người kháng chiến cũ với Nguyễn Hộ, Trần Văn Trà. Về phiá đảng viên, có Hoàng Minh Chính, Phan Đ́nh Diệu, Trần Văn Bách, tất cà đều chống giáo điều, có khi đ̣i đa nguyên đa đảng. Một loạt cán bộ cấp cao vết những  bài xă luận yêu cầu Đảng đổi mới tư duy. Họ chỉ trích hơn là làm đối lập, dù đối lập ôn ḥa, v́ họ là người của chế độ, không lôi cuốn được quần chúng hưởng ứng.Tuy nhiên thái độ chỉ trích đă đưa lại cho họ nhiều mất mát. Một số trí thức và cán bộ quân đội, nhận thức ra t́nh trạng thái hóa của đảng CS, đă lấy thái độ tích cực chống đối. Họ thừa hiểu sức mạnh phong trào quần chúng, nhưng không sao khai thác đưộc, chỉ hoạt động trong thành phố, và không nối liên lạc được với giới trẻ.

Ngoài hàng ngũ CS, th́ gương mặt tiêu biểu nhất là BS Nguyễn Đan Quế và Nguyễn Đ́nh Huy. Thành phần trí thức trẻ, văn nghệ sĩ  dưới nhiều h́nh thức khác nhau cũng nhập cuộc đ̣i hỏi dân chủ. Một số nhà lănh đạo tôn đă nên tiếng. Các vị này chỉ đ̣i hỏi tự do tôn giáo, nhưng chính sách kiểm soát đối với Phật Giáo, Ḥa Hảo, Cao Đài, có thề làm các cộng đoàn tôn giáo thành ng̣i nổ đưa đến các cuộc xuống đường, là một hiện tượng đả xảy ờ Thái B́nh  tuy không phải v́ lư do tôn giáo, nhưng đáng tiếc  là lớp trí thức và cán bộ  đă không nắm được cơ hội.

Nói chung, các cá nhân đối lập chỉ đ̣i Đảng sửa chữa các sai lầm trong việc quản lư quốc gia, mà không nhằm vận động quần chúng đ̣i hỏi công b́nh hay hủy bỏ chế độ, khác hẳn với Gandhi chủ trương  ônn ḥa nhưng biết kêu gọi đến sự ủng hộ của dân chúng.

Sau khi chiến thắng chế độ CS  xây dụng xă hội củ nghiă và trả thù tất cả mọi người thuộc chánh quyền cũ, làm  kinh tế suy sụp, dân nghèo đói.V́ vấn đề sống c̣n, chế độ đă thay đổi đường lối. Hiện nay Việt Nam dựa vào kinh nghiệm Trung Quốc mở mang kinh tế, đóng chính trị, đựa váo quân đội và công an. Đảng CS tranh chấp nôi bộ v́ quyền lợi hơn là về đường lối. Mâu thuẫn chính trị chỉ mặt ngoài. Quân đội và công an bị dao động và phân hóa.Chinh quyền trông vào thái độ thự động của quần chúng. Người dân có công ăn việc làm, sinh viên cố gắng học hành, nếu không lao đầu hưởng thụ khi có phương tiện. Giới trung lưu xuất thân từ chính quyền, đâu có muôn chơi vai tṛ đối lập.Chính quyền trước áp lực quốc tế nới lỏng đàn áp trong lănh vực tôn giáo. Có những nhượng bộ  kinh tế, nhưng không đổi mới chính trị.

Như vậy có sự chênh lêch hiển nhiên giữa chế độ và đối lập. Nếu đối lập chọn con đường ở lại ngoại quốc th́ hoạt động dù tích cực đến đâu cũng ch́ có tầm ảnh hưởng giới hạn. Đối lập không thể vắng mặt tại quốc nội. Ở nhiều nước các chế độ độc tài (Ba Lan)  quân phiệt (Đại Hàn) chỉ chấp nhận dân chủ sau khi sinh viên và người thợ nổi dậy.Trong khi chờ đợi đối lập hải ngoại  là tiếng nói cho người trong nước, ít nhiều cô lập chính quyển.Và với thế hệ trẻ, áp lực hải ngoại  có thể mạnh thêm. Nói vậy v́ những người đối lập  hàng đầu trong nước cũng như ở hải ngoại đều thuộc thế hệ già nua. Nhưng trẻ hay già vấn đề như nhau: phải có tổ chức, có lănh đạo uy tín, có cái nh́n thực tiễn. Nếu t́m được mẫu số chung, sẽ có một tổ chức đại diện cho cộng đoàn, và hổ trợ đắc lực người trong nước. Tiếng vang ở ngoại quốc chưa đủ như  ta thấy trương hợp bà Aung San Suu Kyi ở Miến Điện

Gần đây một số tướng lănh quy tụ chung tướng Vơ Nguyên Giáp yêu cầu xét xử nhóm Lê Đức Anh, Vũ Chinh, Nguyễn Chí Vịnh. Đó là khúc ngoạch chính trị hay sao ? Các biến chất chính trị thường liên quan đến những cuộc xung đột như vậy. Vấn  đề là đối lập có khả năng đưa họ và quần chúng vào một hành động  thoát ly, đầy nguy hiểm, dù là bất bạo động như đ́nh  công băi thị. Nếu không chỉ cón cách chấp nhận chính sách đổi mới đi từng bước, và đón nhận một h́nh thức hợp tác nào đó. Rất có thể  một số nhân sĩ đối lập trong nước có mặt trong Quốc Hội hay trong Mặt trận tổ quốc qua một cuôc bầu cử được dàn xếp. Đâu là thái độ ta phải có ? Sau cùng, t́nh trạng chia rẽ trong đảng CS có thề  chuyển chế độ  sang chế độ quân phiệt. Lúc đó đâu là vai tṛ của đối lập ? Mọi giả thiết phải được suy nghĩ, để đối lập có thời gian chuẩn bị. Không thể không nghĩ tới hoàn cảnh khó khăn của buổi giao thời, lức mà xă hội chưa ổn định. Trường hợp có những cuộc tuyển cử, bắt đầu bằng tuyền cử quốc hội lập hiến, đối lập sẽ trực tiếp đối phó với đảng CS. Và phải dự trù một chương tŕnh chính trị tổng quát cho chính phủ liên hiệp lâm thời.

Những vấn đế phải giải quyết : tạo điều kiện cho chính đảng hoạt động, thiết lập chế độ dân chủ, xây dựng quân đội, phát triển kinh tế, giải quyết vấn đề ruộng đất, vấn đề nhân sự.Để khỏi lúng túng, đối lập phải thiết lập các hồ sơ, dựa vào t́nh trạng trong nước,  dựa vào quần chúng.

Năm 1958,  thời chế độ Nhân vị xem ra cực thịnh, tôi đă có dịp bày tỏ với ông Ngô Đ́nh Nhu mối lo ngại của tôi trước cái đà có thể quay trỏ ngược lại, và nhu cầu cải tổ. Tôi không thành công thuyết phục ông cố vấn chính trị. Chế độ đi váo con đường đàn áp, với những hậu quả ta biết.

Hiện nay t́nh trạng chính trị không thỏa mản hơn thời 40 năm vế trước. Sự chênh lệch trong xă hội, quân đội một phần bất măn, chia rẽ nội bộ, nhũng điếu kiện có thể đưa đến hỗn loạn, vào lúc trung Quốc đương bành trướng...

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------                   

NGUYỄN THANH GIANG, 30 năm-vài cảm nhận. (tr.39-41)

 

Thấm thoắt mà đă 30 năm nước ta thống nhất. Ba mươi năm thấm thoát những cũng đằng đẵng. Vào năm sát trước 1975, một chuyên viên khoa học, ví ăn uống thiếu thốn, không lúc nào không bị cái đói dày ṿ. Anh em vừa nể vừa thương cán bộ đành ra vườn rau hái một ôm về luộc chấm với nước muối pha mỳ chính, ăn vă.

Thế rồi đùng một cái, bỗng nhiên Việt Nam thừa gạo và từ lâu đă trở thành nước xuất khẩu nhất nh́ thế giới. Loại người bậc trung như chúng tôi th́ không c̣n cái cảm giác thèm ăn nữa. Ra ngoại quốc tôi bỡ ngỡ thấy các cánh cửa bỗng tự nhiên từ từ mở  như thần thoại. C̣n máy tivi màu đen trắng có một thời cả xóm xem chung, bây giờ tivi màu hết. Cánh cửa tự động có mặt ngay trong tư thất. Lạ lắm chứ, nhờ vào chính sách mở cửa của chính phủ.Tuy nhiên mở cửa chập chờn, dấn thân vào kinh tế thị  trường nhưng cứ vướng víu cái đuôi   định hướng xă hội chủ  nghiă. Cái thời tiêu diệt tư bản, công thương nghiệp tư doanh miền Nam của ông Đỗ Mười nay thay bằng khẩu hiệu đảng viên cũng phải biết làm già, và đương mon men tư hữu cả nhà máy điện, công ty bư chính, trường đại học.

Chỉ có ruông đất th́ vẫn là của Nhà Nước, mà Nhà Nước này làm bằng xương bằng thịt, bụng to.Thí cho người nọng dân trăm ngh́n đồng, hay vài ngh́n đồng trên mỗi một mét vuông, rồi sau bán lại hàng triệu đồng.Bọn chủ đất này, bọn maphia buôn vũ khí, nghiễn nhiên trở thành những tư bản đỏ kếch xù. Nông dân bị tước ruộng đât, bị đuổi ra thôn làng. Trẻ em lang thang ở Thành phố Hồ Chí Minh bây giờ  đông gấp bao nhiêu lần Saigon khi xưa.Hà nội ngày nay có một nhà trẻ thượng đẳng, mỗi đứa trẻ trả 2 800 USD một tháng, ngang với số tiền nuôi một đứa trẻ gia đ́nh nông dân hơn mười năm trời.

Tư bản đỏ,  địa chủ CS ngày nay tàn bạo gấp trăm lần các nhà tư sản và địa bị đưa ra đấu tố. Cán bộ cao câp  vào bệnh viện chiếm hẳn mấy pḥng đầy đủ tiện nghi, kỹ sư, nhà giáo vào bệnh viện c̣n khổ hơn vào nhà tù các nước tư bản. Hai người bệnh nằm chọc chân vào nhau trên một cái giường. Bệnh viện không đủ hộ lư nên mỗi người bệnh phải có một vài ngưoời nhà đi  theo săn sóc, mà suốtngày khong được ngồi, được nằm, v́ không có chỗ, đêm trải chiếu ngủ ngay gầm giường người bệnh. Các trụ sở đảng, trụ sở chính quyền rất đàng hoàng, các quan chức cưỡi những trước ôyô sang trọng.Giáo viên tŕ trái lại hưởng đồng lương chết đói. Sách giáo khoa vừ lạc hậu vừ thay đổi xoành xoạch. Các quan chức phần lớnchỉ là «học giả», được đảng thổi phông lên, gắn cho họ đủ loại bằng cấp. Đảng muốn cho ai cái ǵ thi được cái nấy.Mấy ông bạn của lớp tôi ngy nào học kém, ngày nay có đủ hàm sau khi làm nghiên cứu sinh hữu nghị ở Liên Xô !  Bà Trương Mỹ Hoa, học chưa hết phổ thông, liên tục đảm nhiệm chức vụ quan trọng, và trong lư lịch bà có ba bằng đại học, ba ngoại ngữ.

Tai nạn giao thông th́ khỏi phải nói : trung b́nh mỗi tháng 1 080 người chết. Số người chết như là ta c̣n ở trong chiến tranh.  Thay v́ mở rộng mạng lưới giao thông đô thị lại đổ của mở vội con đường Hồ Chí Minh, phá tan hoang bao nhiêu cánh rùng, mà người đi lại thưa thớt.Quyết định sai lầm về chọn Dung Quất để xây dựng nhà máy lọc dầu dầu tiên đă phung phí một lượng của cải toàn dân Quảng Ngăi trong mấy năm trời. Dân đang ở Dung Quất bị đuổi đi sớm, Nhà nước phải trả lăi quá nhiều vê đầu tư xây dựng cơ bản.

Ba nguyên nhân làm nước ta tụt hậu : tŕnh độ lănh đạo rất kém, chế độ chính trị lạc hậu, người lănh đạo thả sức tự tung tự tác, Việt Nam đă phải chiến đấu gian lao, dành độc lập để tự do vưon cánh bay cao. Trách nhiệm của Đảng với nước phải to lắm. Nhưng bị biến chất, người lănh đạo thành kẻ nội xâm tệ hại hơn giặc  ngoại xâm.

Ba mươi năm rồi, lẽ ra  chúng ta phải được ngẩng cao đầu sánh với cùng thế giới tiên tiến.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ÂU  DƯƠNG THỆ, Những móc đáng lưu y trong 30 năm (tr.42-44)

Trong ba thập niên qua, chế độ CSVN  đă có một số thay đổ quan trọng, qua hai mốc thời gian đáng lưu ư.

Giai đoạn từ 1975-1986. Hai người cầm quyền lớn nhất là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, hai con người tự tín  nghĩ rằng một khi đă thắng được Mỹ th́ không việc ǵ mà không làm được, và coi chủ nghiă Mác Lênin là chân lư.

Đại hội 4 (tháng 12 năm 1976) đổi tên đảng Lao động VN thành ĐCSVN và VN Dân chủ Công ḥa thành Cộng hoà Xă hội chủ nghĩa. Trong miền Nam, Mặt Trận, bao gồm nhiều thành phần không cộng sản, bị giải tán. Sau khi thống nhất quyền lực, đảng  CS đưa ra trương tŕnh xây dựng xă hội chủ nghĩa (XHCN), tức là tập thể hóa nông nghiệp và quốc doanh hóa công nghiệp. Mục tiêu đưa ra : Trong 5 năm nữa mỗi người có dủ lương thực, rau đậu nước chấm, có cá và một phân thịt, mỗi gia đ́nh có những hàng hóa thông dụng, có dụng cụ học tập. Nước VN sẽ trở thành một nước công nghiệp hiện đại, kỹ thuật tân tiến. Nhưng cụ thề th́ chỉ thấy hàng chục triệu dân miên Nam bị bắt buộc phải đưa ruộng dất, máy cày, trâu ḅ và các tư liệu khác vào làm ăn tật thể. Đỗ Mười áp dụng chương tŕnh đánh đổ tầng lớp tư sản và tư bản trong thành thị.Một loạt quốc doanh  cơ khí, điện năng, được thành lập với tài chính và kỹ thuật Liên Xô.Các vùng kinh tế mới đầy ải hàng triệu người trong dó có nhiều chuyên viên, thương gia. Giải tán Giáo Hội Phật  Giáo PG VN thống nhất, đàn áp các tu sĩ công giáo có uy tín. Lức này làn sóng tị nạn của mấy triệu thuyền nhân lớn nhất trong lịch sữ thế giới vận đại đă xúc động nhân loại. Trong chính sách đối ngoại, trước cách đi đêm của Trung Quốc với Hoa kỳ, Hà Nội kư Hiệp uớc Hợp tác với Nga, và tin là Trung Quốc sẽ khong dám  động đến VN. Hà nội  đem cả hàng trâm ngàn quân xâm chiến Kampuchia. Nhưng đó là tính lầm. Trung Quốc viện trợ Khờ Me đỏ và tấn công vào Bắc Việt. Việt Nam rơi vào t́ng trạng cấm vận, sống được là nhờ sự giúp đdơ của Liên Xô.

Giai đoạn từ Đại Hội 6 tới nay. Năm 1985, bên Liên Xô Gorbatschev thực hiên chính sách cải tổ chế độ CS và thúc đẩy các nước Cs Đông Âu  theo chiều hướng dó. Oỏ Việt Nam, Lê Duẩn,Trường Chinh vừa mất,Lê Đức Thọ sức khoẻ yếu, Nguyễn Văn Linh được bầu Đại Hội 6 (1986).Ông ra khẩu hiệu đổi mới, với câu nghe lạ tai : là đồng chí không thể uốn cong ng̣i bút !

Trong lúc này nạn đói đang đe doạ hàng triệu người, các sản phẩm tiêu đùng vô cùng kham hiếm. Các mô h́nh hợp tác xă nông nghiệp, quốc doanh trong công nghiệp hoàn toàn tê liệt. Nông dân bất măn, đảng viên mất tin tưởng, Liên xô nguồn viện trợ  đang rôi vào t́nh trạng hấp hối. Trần Văn Giầu : Chưa bao giờ nông dân nghèo như thế này. CSVN phải t́m nối thoát. Rút quân rút quân ra khỏi Campuchia, gở phái  đoàn sang Bắc Kinh năm 1990 để cầu ḥa, tái lập các cuộc đàm phàn vớí Hoa Thịnh Đốn, công bố luật đầu tư cho nước ngoài.

Đó là con đường h kinh tế thị trường theo định hướng xă hội .Nông dân được thuê ruộng đất  để tự canh tác. Chỉ vài năm sau, cả nước hết nạn đói và trở thành một nước xuất cảng gạo từ năm 1990. Từng bước tư nhân tham gia vào các sinh hoạt kinh doanh và tư bản nước ngoài  dược khuyến.

Chính vào thời điểm này, xảy ra cuộc đấu tranh  gay gắt giữ hain phái thân Bắc Kinh (Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Đức B́nh) và phái thân Tây phương (Vơ Văn Kiệt, Nguyễn Cơ Thạch, Trần Xuân Bách). Đại Hội 7 (1991) Đổ Mười và Lê Đúc Anh  thắng thế, dụng lên tư tưởng Hồ Chí Minh thay chủ nghiă Mác Lênin đang tan ră ở Liên Xô. Sau đó đến lưột Lê Khả Phiêu và Trần Đức Lương. Đại hội 9 (2001), Nông Đức Mạnh vào chức tông bí thư.Trong mười năm của Lê Đức Anh và Đỗ Mười đă làm ra những tệ trạng tham nhũng. Tướng Vơ Nguyên Giáp tố cáo việc biến Tông cục 2 của Bộ quốc pḥng thành cơ quan an ninh.Mai Chí Thọ, tay chân của Lê Đức Anh, xác nhận : Cuộc khủng hoảng chủ nghiả xă hội là cú sốc tâm lư, hết sức lớn lao. Không c̣n ngọn cờ lư tưởng, chỉ c̣n đồng tiền không t́nh nghiă.

Nói tóm lại trong 30 năm qua, dảng CSVN đă trải qua 6 Đại hội, đi với những thay đổi nhóm lănh đạo. Nhưng mục tiêu duy nhất la duy tŕ độc quyền  th́ không thay dổi.

Trần Độ, trong Nhật Kư Rồng Rắn, đă nêu ra nhiều dẫn chứng và kết luận : Những người cầm đầu chế độ là những người lưu manh trong tư tưởng, dối lừa trong hành động  Chế độ ở VN hiện nay là tổng hợp các tội ác ghê tởm của vua  quan tàn bạo của Trung Quốc cùng với tội ác của các chế độ phát xít !

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

PHẠM TRẦN, Việt Nam : 30 năm ta đă thấy ǵ ? (tr.45-48)

 

Trong lịch sử Việt Nam, kể cả thời kỳ bị Trung Hoa và Pháp đô hộ, chưa bao giờ người dân đă cam tâm bỏ mồ mả và nơi chôn rau cắt rốn  chạy ra nước ngoài. Người CS không dám nh́n nhận sự kiện này, và không dám  giải thích cho thế hệ trẻ nguyên nhân của cuộc tị nạn. Chính cách tŕnh bày chiến tranh  của CS là xuyên tạc lịch sử bằng cách giấu nhẹm trách nhiệm của ḿnh từ năm 1954, và chỉ  lấy năm 1965, năm quân đội Mỹ lên bờ Đà Nẵng làm khởi sự chiến tranh. Nhưng mặt khác, tài liệu trung ương nói rơ rằng  công tác của CS  từ năm 1954 là khéo công tác, khéo che giấu lực lượng để kịp thời đấu tranh cả hai miền.Năm 1959 : Chương tŕnh góp phần tạo lên bước chuyển biến của cách mạng miền Nam. Và  sau đó là lệnh Đảng đă cho đánh rồi đưộc ban hành.

Thế rồi khi hoà b́nh tới, CS đă làm ǵ ? Sau 20 năm đổi mới trong số 75 năm có mmạt trên đất nươc, đại đa số người dân chỉ kiếm được từ 70 đến 100 Mỹ kim / đầu người.Trong khi đó gia đ́nh cán bộ cho con ta nước ngoài với 20 ngàn Mỹ kim một năm. Hiện tượng chênh lệch đo không cấm ông Nông Đức Mạnh hiên ngang về tinh thần cách mạng và tinh thần giai cấp vô sản.Sự thực th́ trái lại, các cơ sở tim ra nhiều mành lới bịa đặt ra các thủ tục hành chính để kiếm tiền, bất chấp các chỉ thị của chính quyền.

Chính quyền nhiều lần nhận lỗi: Đảng ta có lúc mắc phải những sai lầm, và Đảng đă lắng nghe. Những sai lầm đó lả những ǵ ? Trước hết là  chủ trương trương cải cách ruộng đất, từ năm 1953 đến 1957, gậy thiệt mạng cho hàng chục ngàn người.Sau đó là một chuỗi sai lầm như cưộc Tổng tấn công Mậu Thân năm 1968 đưa đến cuộc xát hại 2500 người dân và công chức, không kể 6 000 người bị biệt tích, 120 ngàn người ở Huế mất nơi cư trú.

Sau khi chiếm Sài g̣n, CS san bằng xă hội trù phú miền Nam ngang với xă hội bần cùng miền Bắc. Đồng thời bắt hàng trăm ngàn quân sĩ, công chức, đảng viên quốc gia  đi tập trung troang các trại cải tạo, và đầy đọa những gia đ́nh quân nhân ở những vùng kinh tế mới. Vậy ông Nông Đức Mạnh nói là dảng CSVN đă nhận lỗi và làm theo yêu câu của nhân dân, th́ sao c̣n tệ nạn tham nhũng, sau bao nhiêu Quyết nghị, Pháp lệnh chống tham nhũng? Tại sao ông ta lập lại lời cam kết  chống quan liêu, lăng phí, tham nhũng vơí lời hứa là cán bộ sẽ là những dồng chí gương mẫu.

Ông Nguyễn Kim Quốc, pḥng thủ tướng, cho biết là trong năm 2005 chính phủ sẽ rà soát hệ thống pháp luật quản lư kinh tế, tài chính, tài sản công, sẽ xây dựng văn hoá lănh đạo, thực hiện dân chủ trong quan hệ với dân, tăng cường công tác thanh tra, và trong tương lai sẽcó giải pháp minh bạch hoá tài sản công chức.

Ông Nguyễn Tấn Dũng đưôc giao phó trực tiếp chỉ đạo chính sách chống tham nhũng. Nói đền đây ta nhớ lại thời Lê Khả Phiêu  cũng đă có Nghị quyết  buộc cán bộ  phải kê tài sản, nhưng rồi công việc bị bỏ lửng một cách khôi hài. Chống lại nguy cơ diễn biến hoà b́nh th́ cũng được lặp lại nhiều lần : Nh́n tổng thể, đất nước vẫn c̣n kém phát triển, mà các thế lực thù địch lại đang tăng cường chống cách mạng bằng chiến lưộc diễn biến hoà b́nh. Để đối phó, Đảng phải đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, tự chỉnh đốn, nghiêm túc học tập Chủ Nghiă Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đoạn văn này không  làm mới hơn bộ mặt của chế độ. Kinh tế thành công nửa vời, dân vẫn đới rách, xă hội băng hoại, học sinh nam nữ rao bán thân thể trên một số mạng lưới. Mỗi năm số người chết từ 11 ngàn đến 13 ngàn trong các vụ tai nạn.Lực lương cảnh sát lưu thông và h́nh sự  mất hiệu lực v́ tham nhũng. Như vậy niềm tự hào của ông Nông Đức Mạnh  về chủ nghĩa xă hội, về truyền thống vẻ vang của Đảng c̣n có giá trị ǵ  trong thực tế của 30 năm qua ?

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

 

TRẦN NGỌC SƠN, Bạn bè, đăng phái, đất nước (tr.49-51)

Tôi đặt chân đền phi trường Orly của thủ đô Paris vào một buồi chiểu cách đây 40 năm  để bước vào các giảng đường cổ kinh  mà không ngờ địng mệnh lại đưa đẩy tôi vào đời lưu vong cho đếnn nay, với bao rau rứt.

Trong lớp du học sinh, một số nhỏ dành thời giờ để tham gia vào sự cuộc,v́ những lư do chính đáng, v́ đam mê.Tôi thuộc vào loại người này, lại với cái khuynh hường mà người gọi là l ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản . Lúc đó lương tâm nó như thế, có thế thôi, với ư tưởng là mọi sự sẽ ổn thoả, khi hoà b́nh trở lại.

Sau tháng tư năm 1975, tôn mới vỡ mộng. CS đă quyết tâm thiết lập chế độ tài.Nhưng tôi vẫn hy vọng, đă lao vào cuộc tranh đấu cho tự do dân chủ. Trong nước cũng như ngoài nước, trong hàng ngũ những người đă theo cộng, đă theo quốc gia, lần lượt những người  đấu tranh cho dân chủ đứng lên. Hải ngoại đồng cảm với trong nước, nhờ vào sự hiện diện của Nguyễn Minh Cẩn ở Nga, Vũ Thư Hiên và Bùi Tín ở Pháp.

Nhớ lại hồi c̣n là học sinh trung học, khi xem máy bay phản lực biểu diễn, thấy máy bay đột ngột  vọt qua.Chúng tôi sợ hoả lực không quân Hoa Kỳ. Thời đó chế độ Ngô D́nh Diệm ăn miếng trả miếng, dựng thần tượng họ Ngô để  tố cáo thẩn tượng họ Hồ. Một số bạn bè chúng tôi bắt đầy ư thức đến việc chống chế độ miền Nam. Ở hải ngoại, trong khi những người như bọn tôi, loại «tạch tạch sè» (cách nói của Hữu Loan), tiểu tư sản, đương hăng sai, dấn thân v́ lương tâm, th́ những người theo Mác-Lê âm thầm xây dựng tổ chức của ho, đến lúc ngă ngũ, chúng tôi bị loại, không đủ sức cản trở kẻ chiến thắng đi vào con đường độc tài. Ví lư do ǵ chúng tôi cũng thất bại như Mặt Trận Giải  Phóng ở miền Nam ? Đơn giản : tranh đấu không có tổ chức thi cũng không khác baoi nhiêu đa số thầm lặng. Nguyển Trường Tộ, Cao Bao Quát, Chu Văn An đâu có xoay chuyển được t́nh thế.

Hiện nay một phần lớn bạn bè đă ngừng hoạt động. Một số tiếp tục ủng hộ chế độ, hay trung thành với Mác, như tin là họ có khả năng thực hiện chủ nghiă CS hơn các nhà lănh đạo CS ở Việt Nam và chỉ có họ mới có quyển phê phán chế độ độc tài. Có nên để một chỗ cho Mác không? Viết như tác giả Đỗ Mạnh Tri, có lẽ Mác là người đầu tiên dứt khoát đưa đấu trang công lư vào chính trường.Bài học lớn nhất của Mác cho chúng là nh́n nhận tầm quan trọng của chính trị, để thực hiện dân chu, để quyền lực không rơi vào một nhó người.Đối với tôi th́ ta có thể để Mác lại cho những người viết sử, nhưng ư tưởng không để quyền lực nhà nước rơi vào một tay thiều số trưóc sau là điều ta phải tâm niệm.

Nh́n vào lịch sử, ta thấy  phe chống thực dân dă  thắng và đảng CS đă khôn ngoan hơn các đảng quốc gia nên đă giành được sự lănh đạo chống thực dân. Phe theo Pháp  kéo về miền Nam dựng các chế độ cộng hoà, nhưng không huy động được quần chúng. Thay v́ tự sám hối người ta cứ loay hoay  đổ lỗi cho CS.  Nếu đấu tranh chính trị là một hoạt đông cao quư và một nhiệm vũ bức thiết (hự Đỗ Mạnh Tri), th́ tại sao ở hải ngoại người ta hay nghi ngờ và thờ ơ với thời cuộc ? Là v́ cho đến nay các đảng phái (Cộng sản, Cần lao, Dân chủ) khi nắm nắm chính quyền  đă gây đau thương cho cho đất nước. Vấn đề là phải hướng dẫn các tố chức và đảng phái thế nào. Theo nguyên tắc : thiểu số phục tùng đă số. Nhưng thiểu sô có quyền hành động theo lương tâm hay không. Đảng Xă Hội Pháp không sao giải quyết được sự đồng thuận về Hiến Pháp Âu Châu dù đă tổ chức một cuộc bỏ thăm nội bộ. Phe thiểu số có nên bỏ phiếu cho phù hợp quyền lợi của đảng hay v́  quyền lơi đất nước ? Nếu bắt buộc thiểu số phải hành xử theo quyết định của đảng th́ đảng trở thành mối đe doạ cho đất nước nhu ta thấy trong lịch sử VN.

Sau 30 năm lưu vong, đă đến lức chúng ta phải suy nghĩ lại vấn đề đảng phái, phải đào sâu khái niệm dân chủ thực thụ thay v́ dân chủ h́nh thức. Để kịp thời đối phó với t́nh thế có thể biến chuyển nhanh chóng. Các phe phái trong đảng CSVN lần đầu tiên đ̣i hạ bệ lẫn nha, chính sách chống tham những thất bại, một phần lớn đảng viên mất kiên nhẫn v́ VN vẫn bị xếp vào nhữngn người nghèo đói và tham những nhất thế giới : ba quả bom đó sẽ nổ : hỏi chúng ta có được trang bị tinh thần dân chủ đúng mức để tránh tai họa lần nữa cho đất nước ?

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

CUNG TRẦM TƯỞNG, Sau khi đọc cuốn  TRAGEDY FROM A WAR OFF DESIGN

của Nguyễn Văn Dưỡng(tr.52-60)

 

Chương tŕnh trợ giúp Việt Nam, một tỷ đô la, bị Quốc Hội Mỹ rút xuống c̣n 700 triệu, rồi thành 500 triệu, là bằng  chứng rằng công việc viện trợ đang trên đà tàn lụi (John Murray). Theo Đại sứ Graham Martin, Kissinger không có phản ứng trước các tin vể chiến sự, trong khi Hoa Kỳ chuyển một phần lới quân viện sang Israel.Tiềm lực quân lực công hoà giảm mất 60% (Nguyễn Văn Thiệu). Lúc đó Bắc Việt nhận 2 tỉ của Trung Quốc, 8 tỉ của Liên Xô. Hà nội điều động vào miền Nam khoảng 250.000 quân và 1.349.000 tấn quân bị, thiết bị và đạn dược. Cũng có thế số quân đó lên tới 550.000 binh sĩ, tức là 75% lực lượng chính quy của Việt Cộng.

Trên chính trường, quân lực cộng ḥa bẻ găy được chiến dịch địch thủ muốn khống chế Quốc lộ một, và đó là thành tích mà người Mỹ làm lơ, mặc dầu CS vi phạm  Hoà ước Paris. Bắc Việt lại mở cuộc tấn công tại Phước Long vào cuối 1974 với hai sư đoàn, một trung đoàn pháo và một trung đoàn pḥng không, một trung đoàn tăng. Phước B́nh, lực lượng  pḥng thủ chỉ có 3.600 binh sĩ, phải thất thủ sau bốn tuần chống trả. Chính phủ Mỹ không coi đây là một cuộc tấn công, c̣n Nga sô lại khuyến khích Bắc Việt tấn công để trả đũa cho Nga, vừa bị Mỹ từ chối quy chế tối ưu huệ quốc tế mậu dịch. Người ta tự hỏi nếu chinh sách đối ngoại của Mỹ đi chiều hướng khác th́ Nga có bật đèn xanh cho Bắc Việt hay không. Theo Harry G.Summer, Jr, th́  vào thời điểm này lực lượng Bắc Việt rất hùng hậu, dù Mỹ có trở lại củng không cứu văn được t́nh thế : 17 sư đoàn bộ bính, 500 xe tăng,500 khẩu pháo, 200 súng pḥng không.  Bắc Việt có đủ lực lương cắt đứt quốc lộ 14, quốc lộ 19, quốc lộ 21, nghĩa là cô lập vùng Cao Nguyên.Tháng 3 năm năm 1975, Ban Mê Thuật thất thủ. Ông Thiệu ra lệnh rút ra khỏi vùng Tây Nguyên mà không cho phép binh sĩ có thời gian sửa soạn. 55.000 binh sĩ bắt buộc dùng đường số 7 một địa h́nh hiểm trở, bị hai sư đoàn địch theo rơi. Các gia đ́nh binh sĩ đi theo, cuộc rút quân trở thành cuộc di tản giữa tiếc khóc của trẻ em và tiếng kêu của các bà mẹ, tinh thần người lính bị tác động mạnh.Một đoạn đường 8 cây số, một chiếc cầu rêu phong găy đổ, và hàng ngàn họng súng xới xả nhả đạn xuống từ  các điểm cao. 75% số quân rút lui bị tử trận hay mất tích, 60% trong số 450 000 thường dân bị sát hại. Rút lui trong điều kiên nghịch lư là do ông Thiệu muốn  trà thù Mỹ là kẻ đă phản bọi, hay do áp lực của Mỹ đ̣i trung tướng Đặng Văn Quang phải triệt thoái khỏi vùng Tây Nguyên nhanh chóng ?

Cuộc chiến c̣n bộ mặt bí hiểm ở sự lan tràn các tin đồn từ những nguồn gốc  mờ ám, vô danh, trên các phố, quán rượu, mà các tin đồn này  sau đó lại được phát thanh trên đài BBC, nói rất sát t́nh h́nh chiến sự, và sự tồn vong của miền Nam. Các tin đồn chính xác này do địch và bạn đă gài người vào bộ máy quân sự cộng ḥa, và ảnh hưởng của nó vượt xa bầu khí đă được Graham Green miêu tả trong cuốn ‘Người Mỹ Thầm Lặng’.

Quyết định rút quân  ra khỏi Huề và Quảng Trị của ông Thiệu vào lúc dân chúng hoang mang.Như một domino, với sức nhanh chónh mặt, Chu Lai, Đà Nẵng, rơi vào tay địch. Chưa đầy hai tuần, năm tỉnh  của Quân khu 1 bị chiếm. Hết lớp người này đến lớp người khác ùn ùn đổ vào Quốc lộ 1, trên bất cứ một phương tiện tổ chức nào mà ho có thể xử dụng được. Cuôc chạy nạn của hơn một triệu người xuống phương nam. Và cũng chính là cuộc bỏ phiếu bằng chân bằng thuyển đâu tiên của dân chúng miền Nam  phủ nhận  chế độ độc ác. Sau khi chiếm được Đà Nẵng, Bộ chính trị CS quyết định toàn thắng năm 1975 thay v́ chờ 2 năm như đă dự liệu. Ông Thiệu đă tặng không cho CS  một chiến thắng không ngờ. Các sư đoàn Bắc Việt và các đơn vị khác được tở chức thành các quân đoàn. Hàng chục ngàn chiếc quân xa  ngày đêm di chuyển côngg khai trên đưọng ṃn Hồ Chí Minh.Quân đoàn 1 g̣m 3 sư đoàn uy hiếp tỉng B́nh Dương, Quân đoàn 2, gồn 4 sư đoàn tấn công vào Ninh Thuận, chạm trán với Lữ đoàn Dù, Liên đoàn 3 Biệt động quân.Quân đoàn III,  gồm 4 sư đoàn, tấn công vào phiá tây Sài G̣n, gồm 3 sư đoàn tấn công Long Khánh và Xuân Lộc, và cuói cùng một lực lượng gồm 5 sư đoàn cô lập Sài g̣n với Quân Khu IV của quân lực cộng hoà. Tất cả lên tới con số 560 000 quân sĩ nằm trong chiến dịch Hồ Chí Minh. Miền Nam chỉ c̣n lại 4 sư doàn, tức là 1 chọi với 5.Sự chênh lệch chính là nguyên tố quyết định ai thắng ai bại, đơn sơ như vậy.

Đầu tháng 4 năm 1975, Phú Yên, Ninh Thuận, Khánh Hoà, Cam Ranh thất thủ. 8.000 quân cộng hoà chống trả 40 000 quân địch và gây thiệt hại  14 000  tử trận và 40 chiến xa,  trong trận đánh  to lớn cuối cùng ở Xuân Lộc.

Ông Thiệu từ chức, Trảng Bom, Long B́nh, Biên Hoà, Hóc Môn bỏ ngỏ. Ba chiếc khu trực cơ và đoạt được ở Phan Rang đến oanh tạc  phi trường Tân Sơn Nhất, và thủ đô bị roi vào ngày 30 thánh tư năm 1975. Chính phủ Hoa Kỳ tiến hành kế hoạch  di tản khoảng 35.000 người Việt Nam có liên hệ mật thiết với chiến tranh. Một chiếc ph́ cơ trong chiến dịch bị rới xuống  đầu tháng tư sau khi vưà cất canh, gây thêm hoang mang cho dân chúng. Kissinger, Schlesinger t́m cách thương lưọng với Hà Nội về số phận của vủ khí  của Mỹ. Người Mỹ dùng đến trung gian của đại sứ Pháp Mrillon về gải pháp chính phủ liên hiệp, Quốc Hội Mỹ chỉ cho dùng 200 triệu Mỹ kim vào việc di dân nhân viên Mỹ. Đại sứ Marin thương lượng về thể thức rút nhân viên Mỹ trước 1/5/ 1975.Ông Thiệu và Thủ tướng Trần Thiện Kiêm được CIA lén lút hộ tống ra khỏi Việt Nam. Tổng hống Ford tuyên bo : chiến trang đă chấm dứt đối với chúng ta. Đây là tất cả ư nghiă của chính sách phủi tay, để đố tội cho quân lực Công Ḥa, xoá tội cho Hoa Kỳ và người chủ mưu, Kissinger. Cho đến trưa ngày 29, hầu hết các sĩ quan cao cấp đă tá túc bên cạnh người Mỹ  chờ được bốc ra Hạm Hội 7. Quân lực công ḥa như thành một con rắn khong đầu. Những đơn vị điạ phương tự đề ra kế hoach hành đông như hồi 1964 sau khi Tổng Thống Diệm bị lật đổ.

Ông Trần Văn Hương vừa được bầu liền rút lui, đến lượt ông Dương Văn Minh, với nhiệm vụ thành lập chính phủ liên hiệp ba thành phần. Bầu trời Sài G̣n lúc này trở lên ồn ào với những chiếc trực thăng từ Hạm đội 7 bay vào, hối hả bay ra. Quang cảnh này làm chúng tôi nhớ lại ngày 26/10/1956 với hàng trăm phi cơ chào mừng sự ra đời của Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà.Ông Diệm nếu c̣n vương víu với sự đới ắt phải đổ lệ ṛng, trước ốc cuộc chiến tranh phi lư, chính là đề tài của cuốn sách.Sáng ngày 30, chiếc trực thăng cuối cùng chở Đại sứ Marin ra khỏi Việt Nam. Ông Dương Văn Minh  tuyên bố chính sách ḥa giải, rồi sau hai tiếng, ông ra lệnh buông súng và chuyển giao quyền hành cho chính phủ Việt Cộng. Ông Vũ Văn Mẫu, theo đề nghị của Mỹ, tuyên bố tối hậu thư yêu cầu Mỹ rút ra khỏi VN trong ṿng 48 tiếng.Nghĩ là danh chứng ngôn thuận. Trong ṿng hai tiếng đồng hồ Việt Nam Cộng Ḥ bị xóa tan. Súng để vào giá, tài liệu mật bị thiêu hủy, bộ quân phục thay thế bằng bộ thường phục. Người lính cọng hoà bị xé bát trong tâm hồn, như chính tác giả. Một số không ít đă tuẫn tiết. Nguyển Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng và nhiều tên tuổi khác.

Hoà b́nh cũng nghịch lư chiến tranh.Người thắng trong chiến tranh lăi là người thất bại trong hoà b́nh. C̣n người Mỹ th́ sao ? Chính những người Mỹ đă lẩn tránh nghĩa vụ ở Việt Nam nay cảm thấy xấu hổ. Joan Baez người đă tŕnh diễn cac bài ca phản chiến nay tỏ ra hối hận.

Về cách nh́n lịch sử, theo Rostow hay theo Zumwalt, người Mỹ đă thành công v́ đă giúp Thái Lan, Malaysa, Singapore đứng vững, không rơi vào tay CS nhờ vào các nỗ lực trong tám năm ở Việt Nam. Các lập luận đó thực chỉ là những tiếng nói tron sa mạc. Tuy nhiên việc Mỹ rút lui có thể là một chiến dịch giúp một nước VN cộng sản trở thành tŕ chống Trung Cộng, dùng viện trợ kinh tế nhằm chiến thắng ḥa b́nh vẫn tốt hơn đánh bại đối phương bằng quân sự.

Cách lư giải này thật lạc đề. Nếu người Mỹ đă muốn nộp miền Nam cho CS thay v́ tranh đấu cho một Việt Nam thống  nhất  không cộng sản đồng minh cuả Mỹ th́ thực là một khổ nhục, một bệnh hoạn, chưa kề cái giá phải trả.

Giá phải trả: tử trận : 200.000 lính cộng hoà, 58 000 người Mỹ. Bị thương : 600.000 lính cộng hoà, 766 người Mỹ. Tốn phí : 108,6 tỉ đô la. Nếu tính theo tỉ lệ lạm phát th́ con số lên tới 236 tỷ, tức là cuộc chiến tranh tốn phí nhất của Mỹ. Hậu quả là làm nhụt ư chí đóng góp của cải và sức mạnh của người Mỹ vào sự bào vệ nền ḥa bính thế giơí. Về tâm lư, ḷng tự hào của người Mỹ bị tổn thương trong tâm trạng của cựu chiến binh, và mất tính nhiệm của người dân với cấp lănh đạo, và cả một lớp thanh niên hô khẩu hiệu Make love but not make war lan tràn vào các khuôn viên những trường đại học.

Bức tuờng Tưởng niệmViệt Nam vẫn c̣n là một trang sử buồn tủi, nỗi ám ảnh nhúc nhối, ch́ có thể được giải tỏa khi người Mỹ giúp dân tộc Việt Nam giải thể được chế độ công sản quái gở. Thiết tưởng đó chỉ là một kết thúc thuận lư và thuận t́nh.

Trong nguyện ước đó, cuốn ‘Tragedy From a War Off Design’ của Văn Nguyên Dưỡng là một đóng góp, một công tŕnh tổng hợp ba chiều chính trị, quân sự và tâm lư về cưộc chiến tranh Việt Nam. Cuốn sách có chỗ đứng riêng trong rừng sách viết về đề tài. Chúng tôi muốn thành khẩn giới thiệu tác phẩm cho quư bạn và là một cách giải oan cho người lính VNCH.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

TRẦN THANH HIỆP, Quyền lập hiến và Hiến Pháp (tr.61-70)

 

Quyền lập lập hiến đă đột  xuất ở phương Tây cách đây hơn hai thế kỷ, vào thời điểm hai cuộc cách mạng nhân quyền và dân quyền ở Mỹ và Pháp, nhưng ở Việt Nam  nó không được bàn tới suốt cả phần sau thế kỷ  vừa qua.Người Việt chí chú trọng tới hiến pháp, và coi quyền lập hiến là một chi tiết của hiến pháp. Từ hai thập niên nay, ở hải ngoại có đặt vấn đề hiến pháp, nhưng vẫn không động đến quyền lập hiến.Ngướ viết xin cảnh cao rằng chúng ta sẽ chẳng có hiến pháp dân chủ nếu nếu không đặt vấn đề quyền lập hiến.

Quyền lập hiến : nguốn gốc và định nghiă. Hiến pháp không đẻ ra quyền lập hiến, củng không phài là công cụ của cách mạng.Thời quân  chủ các vua đều có quyền lập hiến, và  riêng ở phương tây  nhà vua cai trị theo hiến chương. Sau hai cuộc cách cách, quyền cai trị thuộc về dân, và quyền lập hiến trở thành một quyền riêng biệt.

Ở Mỹ quyền lập hiến xuất hiện ra như một phản ứng đi nguợc lại truyèn thống hiến pháp bất thành văn, và ngược lại sự lạm quyền của các Tiểu bang. Người dân đến định cư ư thức đến những đe doại  cho tự do từ những đặc quyền của nhà vua bên Anh là nơi họ đă sống, như việc họ phải đóng thuế ngoài sự đồng thuận của họ.Nhưng dề xây dựng một hiến pháp  theo những quy phạm hiến tính đúng trên các luật thường, phài cho quyền lập hiến chỗ đứng riêng biệt. Đó là nguồn gốc bản Tuyên Ngôn độc lập 1776, và sau đó có các hiến pháp mới của các tiểu ban, tất cả dựa vào các cơ quan lập pháp dân sự. Nhưng chẳng bao lâu nhiều tiểu ban đă tự quyền sửa lại hiến pháp và lấn chiếm quyền hành pháp, xâm phạm đến quyền tư hữu của người dân. Phải t́m cách ngăn chặn các lạm dụng đó bằng cách đặt quyền lập hiến trên quyền lập pháp. Đó chính là sự nghiệp của Thomas Jefferson, tác giả bản Tuyên Ngôn. Nguyên tắc này được thể hiện qua một bộ máy hiến trị : Hiến Pháp, có thể tu chính qua một nghị hội (convention) do dân bầu, được bảo đảm bằng sự kiểm sát dưới h́ng thức tài phán về tính cách hiến tính của các luật thường. Trong cụ thể, phải phân biệt dân biểu quốc hội lập pháp, độc lập với cơ quan lập phá, với dân biểu quốc hội.

Ở Pháp, theo La Fayette, quyền lập hiến đă xuất hiện dưới ảnh hưởng của Mỹ. Nhưng người Pháp nói chung coi Sieyès là người đă đề xướng ra khái niệm quyền lập hiến.Trên thực tế, quốc hội đầu tiên bên Pháp xử dụng cả hai quyền lập hiến và qưyền lập pháp, sự lẫn lộn này kéo dài đến ngày nay, bằng chứng muốn sử đổi hiến pháp chỉ cần họp Thượng viện và Hạ viện. Từ quốc gia trong bản Tuyên Ngôn Quyền Con Người và Quyền Công Dân năm 1789 chỉ là một pháp nhân, một hư cấu, không có ư nghiă cụ thể như dân tộc, nhân dân, dân chúng, mà thể hiện qua ư chí của dân biểu, dầu năm 1946 có xuất hiện ra ư tưởng chủ quyến quốc gia thuộc về nhân dân, hay ư tưởng luật là sự biểu hiện của ư chung. Trước sau, quốc hội, đại diên cho ư chí chung, có mọi quyền lập hiến và luật pháp.

Như vậy dù cùng một nguồn gốc chung, Mỹ và Pháp khác nhau trên b́nh diện hành sử. Một bên  bào đảm cho cho toàn thể dân chúng một quyền đích thực, theo nguyên tắc Nhà nước hiến trị. Môt bên dành nhường quyền lập hiến cho quốc hội dựa véo hai hư cấu, quốc gia và ư chí chung, hợp  với nguyên tắc Nhà nước pháp định, coi luật là nhất tôn.

C̣n ở Việt Nam th́ sao ? Tư tưởng lập hiến đă xuát hiện trong Nam củng như ngoài Bắc, từ  Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu đến Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Bá Học vân vân. Theo Phạm Quỳnh th́ quyền lập hiến lệ thuộc vào vua (theo nguyên tắc) và chính phủ bảo hộ (trong thực tế). Năm 1946, Hồ Chí Minh ra đời Ban dự thảo Hiến Pháp, sau đó có cuộc bầu quốc hội lập pháp, tự phong là quốc hội lập hiến. Hiến pháp ra đời vào thời chiến tranh, ghi đủ thứ tự do, không có hiệu lực pháp lư. Năm 1959, quốc hội sửa đổi hiến pháp, với lư do từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghiă xă hội :một đảo lộn như vậy không hề được dân chúng phúc quyết qua trưng cầu dân ư như điều 70 của Hiến Pháp 1946. CS  đồng hoá dân chủ cộng hoà với dân chủ  nhân dân, một chế độ chuyên chính. Quyền lập hiến nguyên thuỷ (quyền  trực tiếp làm ra hiến pháp) và quyền lập hiến thừa mệnh (quyền sữa đổi hiến pháp) điều bị phụ nhận. Từ đó dến nay, dưới quyền thống trị CS, quốc hội muốn làm bất cứ loại hiến pháp nào cũng được. Trái lại trong Nam, cả hai hiến pháp Đệ nhất và Đệ nhị cộng ḥa đều do quốc hội lập hiến soạn thảo.Nhờ vậy sự tôn trọng này mà ở miền Nam đă đặt những nền móng của một sinh hoạt dân chủ tự do, tuy chưa tới mức phát triển cao.

Lịch sử là như vậy :  nhưng vấn đề căn bản là phải hiểu quyền lập hiến là ǵ. Theo Georges Vedel, đó là thẩm quyền (compétence)  đặc biệt để làm và sửa đổi hiến pháp, không bị hạn chế bởi bất cứ quyền nào, ngoài truyền thống tinh thần của các dân tộc và cũng là cũng là một quyền lực (autorité). Thẩm quyền gắng liền với chức vụ, quyền lực bao hàm ư nghĩa tín nhiệm. Cụ thể : quyền lập hiến có bản chất vừa pháp lư vừa chính trị. Khi hoàn tất xong hiến pháp, mọi thay đổi hiến pháp phải theo thủ tục được ấn định trước, nhân danh  quyền lập hiến nhậm mệnh (pouvoir constituant institué). Trong thực tế, chính quyền dần dân sử sự như những người có quyền lập hiến nguyên thủy, tuy  mỗi nước có những giới hạn trong việc sửa đổi hiến pháp. Ở Việt Nam quyền th́ không có giới hạn nào hết.

Mặt khác, không phải hiến pháp nào cũng có giá trị. Hiến pháp của các nước CS là hiến pháp  miêu tả (constitution descriptive), để quy định chế độ kinh tế, cơ cấu tổ chức của các cơ quan, nghĩa là công bố cương lĩnh của đảng nắm chính quyền. Từng nửa thế kỷ nay Việt Nam bi cai trị bằng  hiến pháp phản động theo đúng nghĩa của nó. V́ vậy phải có Đổi Mới ở Việt Nam, với một hiến pháp quy chuẩn (constitution normative), để thành lập một Nhà nước hiến trị, một trật tự  pháp lư dân chủ, với những bảo dảm cho nhân quyền.

Nhưng ai sẽ hành sử quyền lập hiến ? Dĩ nhiên là dân Việt Nam. Dân là toàn thể những người trong nước, một quốc dân, kể từng cá nhân, với những quyền cơ bản,không bị đối xử tuỳ giai cấp, những con người cụ thề, khác với nhân dân, một hư cấu, rất trừu tượng, mà chủ thề đích thực chính là đảng CS. Mọi người đều có thể tham dự vào việc quản trị đất nước, không cần cần phải nhờ vào Đảng. Nói cách khác, việc đầu tiên là cầm quyền CS nhận nguyên tắc trả lại quyền lập hiến cho quốc dân. Người dân hành sử quyền lập hiến  theo nhiều công thức, mà h́nh thức tới thiểu là tham dự vào trưng cầu dân ư, h́nh thức cao hơn là tham dự vào việc bầu quốc hội lập hiến.Trong hoàn cảnh nào dành cho dân quyền quyết định  tối hậu vê hiến pháp, và như vậy cũng có nghiă là những nhà chính trị chuyên nghiệp phải tôn trọng dân và soản thảo một bản hiến pháp đáp ứng  được nguyện vọng của họ.

Nhân loại đă chứng kiến một loạt hiến pháp ra đời tư sau cuộc đệ nhị thế chiến. Việt Nam  cho đến nay chỉ làm vật thí nghiệm  cho một loại hiến pháp  của bạo quyền, mệnh danh là thể hiện mối quan hệ giữa giới cầm quyền với người dân, theo từ ngữ chính thức là Đảng lănh đạo, dân làm chủ, Nhà nước quản lư. Từ ngữ trở  thành dụng cụ gian dối. Nhưng đ̣i hỏi của người Việt Nam là lập một trật tự hiến trị (ordre constitutionnel) đích thực. Nghĩa là không thể không nói đến vấn đề băi bỏ độc tài đảng trị. Một trong những nhiệm vụ của quyền lập hiến là  vô hiệu hóa Hiến Pháp độc tài hiện hành. Tiếp đến dĩ nhiên là tôn trọng quyền phán quyết của quốcdân.Cộng đồng người Việt ở hải ngoại phải có chỗ đứng xứng đáng trong một nước Việt Nam mới, như một bộ phận tiền phong của dân tộc. Tất cả ḥng chia rẽ sẽ thất bại. Cuộc vận động dân chủ đang tiếp tục, và t́m điều kiện thực hiện quyền lập hiến.Ngày mai dân, chủ sẽ bắt đầu từ đó

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

TÔN THẤT LONG, Quá tŕnh thay đổi thể chế chính trị ở Pháp (tr.71-82)

 

Cộng hoà, res pubica, chose publique, sự việc công cộng. Có nghiă là một chế độ nh́n nhận chủ quyền chung của mọi người, và quyền tham dự của người dân vào việc chung  theo h́nh thức uỷ nhiệm. Kinh nghiệm nước pháp qua các hiến pháp  từ năm 1789 đến giúp chúng ta hiểu lư do của các cuộc thay đổi hiến pháp, chung quanh mối tương quan giữa Hành Pháp và Lập pháp.

Trước Cách Mạng, nước Pháp sống trong chế độ cũ (Ancien Régime), một chính thể Quân chủ thế truyền chuyên chế (Monarchie héréditaire absolue). Nhà vua cai trị bằng (Édits) hay Huấn lệnh (Ordonnances), hoạc bằng Mật lệnh (Lettres de cachet), trong sự tôn trọng các tập quán của vương quốc.

Đó là lư thuyết. Trong lịch sử, chế độ cũ đă thế hiện một quá tŕnh lâu dài cho sinh hoạt  Nghị trường, và đă tạo cho vương quốc  một cơ cấu tổ chức  hoàn mỹ, đă đưa nước Pháp lên một cường quốc ngày nay. Cách mạng khai thác truyền thống dân chủ và bộ máy hành chính đă có sẵn. Từ 987 đến 1789, gịng họ Capet làm trọng tài cho các lănh chúa (Seigneur) để giải quyết các tranh chấp, quy tụ họ  trong cùng một lănh thổ, gây ư thức quốc gia. Qua thời Phục Hưng, nước Pháp tiếp nhận các luồng tư tưởng tiến bộ, và phát triển mọi mặt, được xem như là mẫu mực của thời đại. Các nghị hội (Etats généraux), với sự đại diện của giáo sĩ, quư tộc và lớp thứ dân (Clergé, Noblesse, Tiers état) được nhà vua triệu tập  thường xuyên, bàn về thuế vụ và tài chính. Các toà án (Parlements) là cơ quan tư vấn và thường thường trở thành đối trọng với chính quyền quân chủ.

Louis IX Saint Louis, Philippe IV Le Bel, Philippe V Le Long, lần lượt tổ chức lăi cơ cấu ngành tư pháp, hoàn chỉnh bộ máy tài chính. Nhiều vua đă tiếp tục  tổ chức hành chính, ưu đbăi nghành thương mại, chỉnh đốn các đô thị, mở đại học. Chính quyền trung ương được cũng cố  dưới thời Charles V và Charles VII. François Ier dùng Pháp ngữ thay tiếng latin trong các văn kiện, thành lập Pháp Quốc Học Viện (Collège de France), thành lập các Quốc vụ khanh (Ministre d’État),  với các chức vụ Thủ tuớng, Hội đồng bộ trưởng, Hội đồng nhà vua. Dưới thời Louis XIII, Richelieu tập trung  mọi quyền lực vào guồng máy của chính quyền. Thời Louis XIV tượng trưng cho sự thành công của chế độ  về mọi lănh vực. Nhưng lănh vực kinh tế càng ngày càng trở lên khó khăn, trong khi luồng tư tưởng mới làm xói ṃi uy quyền của nhà vua. Khủng hoảng tài chính làm Louis XVI triệu tập nghị viện. Các nghị dân thuộc tầng lớp thư soản thảo Hiến pháp, xây dựng luật căn bản  cho Vương quốc, và cho ra đời bản Tuyên Ngôn Dân quyền và công dân quyền năm 1789. Tất cả các quyền được Quốc hội chấp nhận.

Hiến Pháp 1791 mở đầu môt thời đại mới. Quyền lực Nhà nước được  qui định rơ ràng trong một văn bản chính thức, trong một chế độ quân chủ lập hiến.Hành pháp dành cho nhà vua,tư pháp giao cho các thẩm phán dân cử, lập pháp thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Nhà vua có quyền phủ quyết các đạo luật do Quốc hội đưa ra, nhưng không có quyền giải tán Quốc hội. Các tranh chấp giữa hai thế lực cũng như áp lực của ngoại quốc chốnh cách mạng dưa đên quyết định truất phế nhà vua. Hội nghị Quốc ước (La Convention) mở đầu Đệ nhất cộng hoà.

Năm 1973. Hiến pháp mới, được chấp nhận qua trưng cầu dân ư, nhưng không được áp dụng v́ t́ng trạng rối loạn trong nước. Đặc điểm của hiến pháp là tập trung mọi quyền lực vào Quốc hội, và duy tŕ một chính quyền cách mạng để đối phó với các cuộc phiến loạn và ngoại xâm. Cách mạnh qua thời khủng bố (La terreur), thời Đại khủng bố (Grande Terreur) với Robespierre kéo dài đến năm 1795.

Hội đồng Đốc Chính (Le Directoire) từ chối các thái cực. Quyền lập pháp giao cho hai cơ quan, Hội đồng Năm trăm (500 thành viên) với chức năng là đề nghị các đạo  luật và Hội đồng Kỳ lăo tranh luận để đi kết luận về các đề nghị đó. Sự phân quyền đi quá xa mà không có giải pháp ḥa giải khi có tranh chấp, ngoài cách sử dụng các cuộc đảo chính. Sau cùng Bonaparte lập Tổng tài (Consul)  nắm troịn quyền hành pháp và giữ một phần quyền lập pháp.Hiến pháp 1799 ra đời, dược dân chấp nhận. Bonaparte  ban hành các Luật, có quyền băi chức các thành viên của Tham chính viện (Conseil d’Etat). Lập pháp được chia thành bốn hội đồng, với chức vụ giới hạn, đề nghị soạn thào, tranh luận, biểu quyết.

Năm1804, chế độ Đế quốc (Empire) ra đời, Napoléon Đệ Nhất  nắm trọn quyền bính trong tay, biết bổ nhiệm những nhân vật từ mọi khuynh hướng, xuất phát ra từ chế độ cũng như thời cách mạng. Napoléon đă thực hiện các cải cách tronh mọi lănh vực hành chính, tư pháp giáo dục, đồng thời loại bỏ các phần đối lập, giải tan Hội đồng Thẩm vấn. Nhưng chiến tranh làm suy yếu kinh tế, và sau cùng để ngoại xâm chiếm đóng Paris. Napoléon bị truất phế, Louis XVIII, với một hiến pháp rất gần với hiến chương (Chartre). Napoléon trở lại rồi thoái vị, nước Pháp có bản Hiến chương (La Charte constitutionlle 1814), dung ḥa quân chủ với thành quả cách mạng dưới h́nh thức Chế độ Đại Nghị (Parlementarisme). Nhà vua là nhân vật bất khả xâm  phạm, chia xẻ quyền Lập pháp với hai viện, Viện quư tộc (Thượng viện) Viện Đại biểu các Tỉnh (Hạ viện). Chỉ nhà vua mới có quyền ban hành các luật. Nhà vua nắm trọn quyền Hành pháp nhưng không chịu trách nhiệm, được một chính phủ giúp đỡ. Thời kỳ này là thời phát triển  kỹ nghệ và giao thương quốc tế. Năm 1824, Charles X lên làm vua, t́m cách duy tŕ một chế độc quân chủ cứng rắng.Chính sách đó đưa đến cuộc bạo động  1830, lật đổ nhà vua. Louis-Philippe Đệ Nhất lên ngôi, chấp nhận hiến chương mới. Hai viện Lập pháp có quyền đề nghị, tu chính các luật. Các đ̣i hỏi liên tiếp của khuynh hướng làm nhà vua phải dựa vào phái bảo thủ, có lợi cho tầng lớp trưởng giả giàu có. Thái độ nhu nhược trước Anh quốc cô lập thêm chính quyền. Năm 1848, nhà vua thoái vị ; kết thúc thời Phục hưng (Restauration).

Đệ Nhị Cộng hoà được thành lập  t́m được sự đồng thuận ban đầu.Luât phổ thông đầu phiếu qui định quyền bầu cử cho mọi người phái nam từ 21 tuổi và luật thiên phái nam  này kéo dài đến năm1944).Một Quốc Hội lập hiến được triệu tập, Hiến Pháp mới được thông qua. T́nh huynh  đệ (Fraternité) bổ túc cho hai giá trị Tự do và B́nh đảng đă được nêu ra từ thời cách mạng.Tối cao pháp viện (Haute cour de Justice) có quyền  xét xử tổng thống và các  bộ trưởng. Lập pháp thuộc thảm quyền của Quốc hội, Hành pháp giao cho Tổng thống, trong nhiệm kỳ bốn năm, với quyền bổ nhiệm hay băi chức các bộ trưởng, nhưng không có quyến giải tán Quốc hội. T́nh h́nh căng thẳng giữa các lực lưọng trong chính quyền, chính sách đàn áp các cuộc chống đối, giúp Bonaparte Napoléon Bonaparte thắng cuộc tổng tuyển cử tổng thống với 75% số phiếu. Trong Quốc hội mới khuynh hướng bảo thủ chiếm đa số.Thủ tục tu chính rất phiền phức, đưa đến cuộc đảo chánh năm 1851. Hiến pháp mới ra đời quy định nhiệm kỳ tổng thống là 10 năm, với trọn quyền hành pháp và chưa sẻ quyền Lập pháp cùng với ba cơ quan khác: Tham chính viện, Hội đồng Lập pháp và Thương viện (Sénat). Tổng thống đề nghị, ban hành và công bố các đạo luật.

Năm 1852, chế độ Quân chủ được tái lập, với một hoàng đế, Napolèon III, chấm dứt  Đệ nhị Cộng Hoà. Đây là thời kỳ phát triển kinh tế. Chế độ băi bỏ luật kiểm soát báo chí, Hội đồng lập pháp có quyền kiểm soát ngân sách và đường lối ngoại giao. Những thành công  đưa đến thái độ khinh suất quá độ, tuyên bố chiến tranh với nước Phổ chỉ v́ một lời khiêu khích của Bismarck. Hoàng đế bị truất phế năm 1970 ; nhường chỗ cho Đệ tam Cộng ḥa. Adolphe Thiers được giao trách nhiệm đàn áp phong trào Công xă Paris (la Commune de Paris) và thương thuyết với Đức. Tiếp sau là Thống chế Mac-Mahon khuynh hướng bảo hoàng. Hiến pháp 1975 thàng lập  một chế độ Nghị viện, đặt Hành pháp dưới sự kiểm soát của Lập pháp, nghĩa là của của Viện dân biểu (Chambre de députés) và Thượng viện (Sénat), cà hai khi họp chung thành Quốc hội. Đứng đầu Nhà nước là Tổng thống, với nhiẹm kỳ 7 năm, do Quốc hội bầu ra.Tổng thống có quyền bổ nhiệm hay băi chức bộ trường nhưng không chịu trách nhiệm chính trị.Bộ trưởng chịi trách nhiệm trước hai nghị viện.

Nhưng trong thực tế, Mac-Mahon  bị cô lập, phải từ chức, đưa đến hậu quả là chức vụ Tổng thống từ nay chỉ đóng vai tṛ tượng trưng.

Nước Pháp đi vào thời kỳ đại Cộng ḥa ổn định.Thủ tướng chịu trach nhiệm của toàn bộ chính phủ trước Nghị viện để điều hành quyền Hành Pháp. Đời sống chính trị biến đổi với sự xuất hiện  các đảng phái mới : Đảng Cấp tiến (Pari Radical), Đảng xă hội dưới nhăn hiệu SFIO, Đảng Cộng sản Pháp (năm 1920), và nhiều tổ chức đảng phái khác. Đồng thời xuất hiện các nghiệp đoàn như Tông Liên đoàn Lao động (CGT) Liên đoàn công nhân Cơ đốc giáo, sau này thành Liên đoàn dân chủ Lao động (CFDT), Công đoàn Sức mạnh công nhân (Force ouvrière).

Hiến Pháp 1975 kéo dài  gần 65 năm. Thời đệ nhị thế chiến, Philippe Pétain  được bầu làm thủ tướng và năm 1947, Pétain đưọc toàn quyền  chấm dứt thời cộng hoà cho đến khi nước Pháp đợc giải phóng. Một cuộc trưng cầu dân ư được tổ chức để chọn môt trong  ba giải pháp được đưa ra. Giải pháp được chọn lưạ đưa đến việc thành lập chính phủ lâm thời chịu trách nhiệm soạn thảo Hiến pháp. Sau lại bầu một Quốc hội lập hiến mới khai sinh ra Đệ tứ Công hoà.

Căn bản Hiến pháp 1946  là chế độ Nghị viện, đặt trọng tâm vào Viện Dân biểu, đổi tên thành Quốc hội (Assemblée), c̣n Thượng viện thành Hội đồng cộng hoà (Conseil de la République)  trước khi lấy lại tên cũ. Tổng thống vẫn do Nghị viện bầu lên, chủ toạ Hội đồng chính phủ. Thủ tuớng cầm đầu Hành Pháp, chịu trách nhiệm trước Quốc hội.

Thủ tướng De Gaulle từ chức ngay năm 1946. Đảng Cộng sản không tham gia vào chính phủ. Luật bầu cử liên danh  tạo ra đảng phái nhỏ, không cho phép thành lập những đa số vững chăi.

Năm 1958, quân đội rối loạn ở Alger, De Gaulle được giao phó  nhiệm vụ soạn thảo Hiến pháp mới với một số mục tiêu : Chính phủ chịu trách nhiệm trước Nghị viện, tính cách độc lập của Tư pháp, thiết lập một nghành hành pháp mạnh.Tổng thống được gia tăng quyền hạn. Một Hội đồng hợp hiến đóng vai tṛ  trung gian giữa Hành pháp và Lập pháp. Quyển lập pháp được giao cho Quốc hội do bầu cử trực tiếp theo phương pháp đơn dan hai ṿng. Thủ tướng có quyền đề nghị các luật,  đạo luật chỉ được thông qua với biểu quyết của hai Viện, Quốc hội có quyền đ̣i chính phủ từ chức bằng một nghị quyết bất tín nhiệm. Hiến pháp  quy định lănh vực xây dựng Luật pháp, từ đề nghị của chính phủ. Chính phủ có quyền ban hành các dự luật về tài chính bằng các huần lệnh (Ordonnances). Năm 1962, Tổng thống được bầu trực tiếp qua phổ thông đầu phiếu, và trở thành trọng tài bảo đảm sự tôn trọng Hiến pháp, sự liên tục của quyền lực Nhà nước, quyền lấy những quyết định thích ứng khi quốc gia bị đe doạ, quyền bổ nhiệm thủ tướng vân vân.Ngoài ra điều đánh lưu ư là vai tṛ của Hội đồng Hợp hiến, có trách nhiệm kiểm soát  các cuộc bầu cử, xác đoán tính chất phù hợp với Hiến pháp của các đạo luật.

Từ 50 năm nay Hiếp pháp 1958 không gây ra một tranh chấp nào đáng kể về thể chế. Nước Pháp đă gải toả được các vấn đề Thuộc điạ, đang tích cực xây dụng cộng đồng Âu Châu và trợ giúp các nước chậm tiến. Bài học ta có thể rút ra từ lịch sử nước Pháp th́ nhiều. Nhưng ta hăy nói tới hai vấn đề căn bản. Thứ nhất là tinh thần chấp nhận đối thoại, tôn trọng đối lập.Tuy đă thay đổi thế chế 10 lần, nước Pháp vẫn giữ được sự liên tục về nhân sự cũng như các cơ cấu tổ chức hành chánh. Bài học thứ hai là giữ vững tinh thần dân chủ cả về bản chất và h́nh thức.T́m sự đồng thuận trước khi  đi vào giai đoạn xây dựng một chế độ mới.Hầu như không bao giờ có sự áp đặt  bằng bạo lực một Hiến pháp trong lịch sử nước Pháp.

Ở Việt Nam th́ Đảng CSVN đă áp đặt ba bàn hiến pháp phản dân chủ qua những năm 1959, 1980, 1992 với những cuộc bầu cử bịp bợm. V́ vậy đặt vấn đế chính thống hóa chế độ qua môt cuộc trưng cầu dân ư là cần thiết.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------PHÙNG NGUYÊN, Giới thiệu Trung Quốc (tr.83-96)        

Từ một nước lạc hậu, Trung Quốc đă trở thành một nước đáng kề trên chính trường thế giới. Cho đến cuối năm 2004, Trung Quốc  là nước đứng hàng thứ tư về Tổng sản lượng quốc nội,thứ tư về  ngoại thương, và chiếm nhiều kỷ lụcthế giới trên một số lĩnh vực. Nhưng về phương diện chính trị th́ lại là vấn đề lại khác.

Một nền văn minh hơn 4000 năm. Nếu hai vua Nghiêu Thuấn thuộc về huyền thoại th́ các nhà khảo cổ đă t́m ra những dữ liệu chính xác về cách tổ chức một làng thời nguyên thuỷ cho đến thời Long Sơn, tức là từ năm 5000 đến năm 1700 TCN.

Các triều đại  có một lịch sử  huy hoàng. Những triều đại trên dưới 200 năm là Bắc Nam Tống (319 năm), Thanh (295), Đường (289), Minh (276) Tây Hán (231), Liêu (218) và Đông Hán (195). Theo thứ tự thời gian, những triều đại đáng chú ư nhất : Tần, Hán, Tam Quốc, Đường,Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Cộng Hoà Trung Hoà (37 năm). Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa. Những thủ đô có tiếng: Trường An, Lạc Dương, Thành Đô. Có bốn triều đại do sắc tộc thiểu số.

Nhà tư tưởng : Khổng Tử, Mặc Tử, Mạnh Tử, Trang Tử, Tuân Tử, Hàn Phi.

Nhà quân sự : Tôn Tử, Tôn Tẫn, Tô Khởi.

Điạ lư : Diện tích 9,6 triệu cây số vuông. Biên giới dài hơn 20 000 cây số giáp với 15 năm trong đó có Miến Điện, Ấn độ, Pakistan, Lào, Việt Nam. Bốn tỉnh phiá Tây chiếm gần 47% diện tích, nhưng dân số không đến 4% của nước. Tỉnh Hà Nam có đông dân nhất với 97 triệu dân. Núi non chiếm 69% diện tích. Từ Tây sang Đông có những dăy núi có mật độ cao trung b́nh 4000 thước. Những núi nổi tiếng là những núi Phật như Phủ Đà Sơn tỉnh Chiết Giang, và những núi thiêng liêng như núi Thái Sơn  tỉnh Sơn Đông. Những sông  dài nhất : Trường Giang (6300 cây số), sông Hoàng Hà (5664 cây số), sau đó tới sông Hắc Long, sông Tarim, sông Chu, trên 2000 cây số cả. Lưu lượng sông ng̣i là 2700 tỷ mét khối nhưng phân chia không đồng điều  từ Nam đến Bắc. Phía Nam sông trường Giang chỉ có 40% đất đai trồng trọt.Phiá Bắc con sông này cũng có 40% đất đai trồng trọt mà lưu lượng nước chỉ có 6, 5%, nhờ vào sông Hoàng Hà và sông khác. Hậu quả: miền Nam hay bị lụt, miền Bắc hay bị hạn hán. Làm thế nào ? Đảo ngược từ Nam lên Bắc ! Đó là con kênh đi từ Hà Châu về Bắc Kinh, hay con kênh xuyên qua hai tỉnh Hồ Nam và Hà Bắc, hay đập Tam Hiệp dẫn nước về miền Bắc với mực nước lên cao đến 175 thước. Các công tŕnh này tàn phá hay tiêu huỷ cả trăm thành phố và di tích lịch sử. 70% sông và suối bị ô nhiễm, 300 triệu người c̣n uống nước dơ bẩn.Trung Quốc có hồ Thanh Hải (4400 cây số vuông) tỉnh Thanh Hải, hồ Phồn Dương (3976 cây số vuông) tỉnh Giang Tây, và một số hồ nữa  trên 2000 cây số vuông.

Trung Quốc : 1 tỷ 300 triệu dân số (20% của thế giới) trong đó 104, 5 triệu dân thuộc 56 sắc tộc thiểu số. Tổ chức hành chính  gồm 4 thành phố trực thuộc Trung ương (Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân, Trùng Khánh), 22 tỉnh (như  Quảng Đông, Hải Nam, Hà Nam, Giang Tô). Năm vùng tự trị (như Quảng Tây, Tây Tạng), và hai đặc khu (Hương Cảng, Macao).Người dân ở Thượng Hải giầu nhất, hơn cả người Bắc Kinh. Đời sống chênh lệch  giữa thàng phố và nông thôn, giữa các tỉnh duyên hải và các tỉnh Cam Túc, Quí Châu, Tây Tạng.        

Về kinh tế, Tổng sản lượng Quốc nội PIB năm 1952: 68 tỷ Nhân tiền tệ. Năm 1978: 362,4 tỷ (tức là tăng lên 5,3 lần). Năm 2004 : 1 3650 tỷ (so với 1978, tăng lên 37,7 lần). Thu nhập đầu người trong năm 1978 là 45,8 Mỹ kim, năm 2004 là 1270 Mỹ kim (tức tăng lên 37,7 lần). Trung Quốc năm 2004 đứng thứ ba sau Hoa Kỳ và Đức về ngoại thương, thứ nhất về đầu tư vốn nước ngoài.Vượt Hoa Kỳ  trên một số sản phẩm công nghiệp và mức tiêu thụ. Mỗi năm có thêm 5000 cây số xa lộ mới.  Đường dẫn khí đốt  đi từ Tân Cương về Thượng Hải, dài 4000 cây số,  được xây cấp  trong 2 năm rưỡi ! Vài con số điển h́nh : Số người có điện thoại : 655 triệu. Số người dùng internet : 100 triệu. Sản xuất máy truyền h́nh : 400 triệu. Điện thoại di động : 370 triệu.Tủ lạnh : 22,4 triệu. Điện lực : 1,6 tỷ TEC. Thép thô : 222 triệu T. Xi măng : 847 triệu T. Dầu hỏa : 170 triệu T. Xe hơi : 5, 1 triệu.

Trung Quốc tiêu thụ : Sắt (30 % của thế giới), Thép (27%), Than đá (31%), Xi măng (40%), Dầu hỏa (7,4%).

Chính trị : 66,4 triệu đảng viên, 5% dân số. Ban chấp hành Trung ương : 198 uỷ viên chính thức, 158 uỷ viên dự khuyết. Bộ chính trị gồm 24 uỷ viên chính thức, 1 uỷ viên dự khuyết. Những nhân vật quan trọng : Hồ Cẩm Đào  (đứng đầu Đảng, Nhà Nước, Quân đội). Tiếp theo là Ngô Bang Quốc (Quốc hội), Ôn Gia Bảo (thủ tướng), Hoàng Cúc (phó thủ tướng) rồi đến  chủ tịch, bí thư của các Hội đồng  và các Uỷ ban. Quốc Hội có khoảng 3000 đại biểu, dưới quyền của một chủ tịch và 15 phó chủ tịch. Mặt Trận Thống Nhất có 299 thành viên thường trực  trong 2238 thành viên được tuyển chọn với một chủ tịch (Giả Khánh Lâm)  và 24 phó chủ tịch. Đối lập dởm được hoạt động, tập hợp được  350.000 người mà chủ tịch là phó chủ tịch Quốc Hội  hay Mặt Trận. 8 tổ chức tất cả, như Uỷ Ban Cách Mạng Quốc Dân Đảng, Hội Đồng Minh dân chủ, Đảng dân chủ công nông.

Nói tóm lại, Trung Quốc của Đặng Tiểu B́nh đă đi  một doạn đường khá dài. Vị trí kinh tế đi đôi chính trị. Nhưng  có  nghi vần về khả năng vượt thoát  những thử thách to lớn. Sự cách biết giữa các khu vực, giữa thành thị và nông thôn, số người cao niên (131 triệu), vấn đề môi trường, vấn đề nước. Thêm vào đó nạn tham nhũng, t́nh trạng bạo động ở nông thôn (50 000 vụ năm 2004), t́nh trạng xô xát với các dân tộc thiểu số, với môn Pháp Luân Công. Nhưng nhất là Trung Quốc không có tự do báo chí, không có đối lập. Viện lẽ là không nên sao chép các mô h́nh dân chủ phương Tây như cách lư luận của ông Hồ Cẩm Đào năm 2004 chỉ đưa Trung Quốc vào thế cô lập trong trào lưu dân chủ của thế giới.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

NGUYỄN HOÀI VÂN, Những điệu hát quen tai (tr.97-102)

Ba mươi năm! Một quăng đường thời gian dài trên cuộc hành tŕnh của Lịch sử. Sự vật đổi thay, con người vẫn tiếp tục nhận thức về ḿnh. Trong thực tế, chúng ta nghĩ ǵ bây giờ ? Tư duy có những khác biệt nào so với thời gian đă qua ? Chúng ta có thực sự nh́n vào thực tại hay không ? Hay chúng ta cứ lặp lại những bài hát êm ả để du ngủ ḷng ḿnh. Bởi v́ qua mọi tuyên ngôn tuyên cáo đủ loại,  trước sau cũng chỉ là ba bài ca quen thuộc: dân chủ, kinh tế thị trường, phát triển kinh tế, dầu tương lai nhân loại không thể tiếp nối giọng hát đó như người ta thường quan niệm.

Một quan niệm phổ thông : dân chủ và kinh tế thị trường có tác dụng hỗ tương. Sự thực đi ngược lại : hai hiện tượng đó có nhiều mâu thuẫn căn bản. Dân chủ nghị trường, trong hoạt động của nó, cần lệ thuộc vào một biên giới quốc gia, trong khi thị trường không biết rănh giới, có thể lấy những quyết định ngược lại quyền dân chủ của một dân tộc, có thể áp đặt quy luật của ḿnh  trên luật xă hội  và tài chính của một quốc gia. Các nước tân tiến, hữu khuynh hay tả khuynh, đều phải dung ḥa với đ̣i hỏi của thị trường quốc tế. Dân chủ t́m sự đồng thuận, sự điều tiết, quyền lợi của đa số. Thị trường chủ trương tranh đấu lợi nhuận, mọi người chống lại mọi người, không hạn chế sức cạnh tranh, luôn luôn tập trung lợi nhuận vào thiể số.Một bên con nguời là cứu cánh, đi sát với các giá trị nghệ thuật tôn giáo. Một bên con người là công cụ, mọi giá trị rơi vào khuôn khổ của hàng hóa.

Sự bành trướng kinh tế thị trường có thể đưa đến sự sụp đổ của xă hội con người.Trữ lượng dầu hỏa, khí đốt, uranium c̣n mấy chục năm. Diện tích rừng bị phá hủy rộng gần bằng nửa diện tích của nước Viêt Nam. Mỗi ngày từ 100 đến 300 giống sinh vật biến mất trên điạ cầu. Điều kiện sinh sống của nhân loại có nhiều thảm hoạ : từng tỷ người không có phương diện vệ sinh căn bản, không có nguồn nước sạch, không có nhà cửa đúng nghiă.

Về cách xử đối giữa con người với con người : 20% người giầu nhất trong thế giới  chiếm hữu 58 năng lượng của thế giới, trong khi 20% những người nghèo nhất sử dụng 4%. Ba người cự phú nhất trong thế giới  có tài sản cao hơn tổng sản lượng của 48 quốc gia nghèo nhất. Chi phí y khoa của một người Mỹ là 4887 PPA (parité de pouvoir d’achat) trong khi người Việt Nam là 134, người Ethiopa là 14. Chương tŕnh quảng cáo khổng lồ của các nước giầu được dùng vào việc tiêu thụ ở các nước nghèo những vật phẩm có hại như thuốc trừ sâu, thuốc lá. Áp lực về các món nợ đưa các nước nghèo sẵn sàng bán tất cả cái ǵ họ có, bất cấp hậu quả về môi trường sinh thái, sẵn sàng chấp nhận điều kiện thiệt tḥi để thu hút đâu tư. Món tiền trợ cấp cho các nước nghèo thường rơi  trở vào tay các đại công ty của các đă cho trợ cấp. Hoa Kỳ xây dựng sức mạnh kinh tế, quân sự với sự dóng góp của mọi người dân của các quốc gia cho HoaKỳ vay tiền.

Trên b́nh diện tổng quát, nạn thất nghiệp trên tế giới tăng từ hơn 140 triệu người (1993) lên 186 triệu (2003). Các nước nghèo  đối phó bằng kềm chế đồng lương, nhân nhượng  trên các khía cạnh luật lao động, luật an ninh xă hội. Người dân ở các vùng nghèo túng có khuynh hướng quy tụ nhau trong các chủ nghĩa quá khích, để chống lại các nước giầu, và chống lại những ốc đảo giàu có được bảo vệ bằng các hàng rào cao, nghĩa là  hoàn toàn đi ngược lại chủ trương toàn cầu hoá.

Phương diện tinh thần : ở chính các nước giàu, những giá trị nghệ thuật đáp ứng đ̣i hỏi của nội tâm bị lấn áp và bị tiêu diệt bởi kỹ thuật giải trí. Các giá trị nền tảng bị sụp đổ. Số người tự tử, khủng hoảng tinh thần, đầu óc căng thẳng, và bao triệu chứng khác mỗi ngày mỗi tăng. Con người mất mọi niểm tin.

Để đáp lại các thử thách đó, người ta nói tới dân chủ, càng ngày càng trở thành một sân khấu vớí những diễn sành sạo trong vai tṛ tả hữu. Các nhà chính trị t́m ăn khách, nhờ vào cách ăn nói lưu loát, mặt mũi sáng sủa, ăn mặc đúng thị hiếu của cử tri. Người ta bỏ tiền rừng bạc bể để bôi bẩn đối phương bằng những phương tiện hạ cấp nhất. Không ai c̣n ảo mộng là sẽ có những thay đổi căn bản khi thay đổi các chính phủ. Các cuộc tranh đấu bầu cử thường là áp lực của kinh tế thị trường. Nhà đầu tư cần có thời gian và sự ổn định của xă hội, t́m cách hướng dân chủ qua truyền thông, guồng  máy chính quyền, các tổ chức tôn giáo. Người nghèo bị gạt ra khỏi công cuộc ứng cử v́ thiếu ngân quỹ. Người nghèo cũng thờ ơ với bầu cử. Chính phủ vừa nhận chức đầy vài tháng th́ đă có những cuộc biểu t́nh, như vậy người xuống đường và người đi bầu khong có liên hệ ǵ với nhau cả. Không ai tin là các chính quyền có nhiệm kỳ hạn chế có khả năng hay tham vọng giải quyết những vấn nạn lâu dài. Một chính quyền dân cử đâu có thể nói với dân là người dân phải thắt lưng buộc bụng, giảm tiêu thụ, chia sẻ với người nghèo... Ở Pháp quỹ an ninh xă hội năm 2004  thâm hụt là 14 tỷ euros, mà chương tŕnh giả nợ  dài 20 năm  rât khó mà thành công. Dân chủ  đưa đến thái độ vô trách nhiệm đối với thế hệ tương lai.

Kinh tế thị trường ở trong cái ṿng lẩn quần : Một đàng các xí nghiệp gia tăng năng xuất sản suất, một đàng giá trị trường rút xuống chính v́ hàng hóa dồi dào. Xí nghiệp  chỉ có cách là tiếp tực sản xuất để có lợi nhuận nhờ vào số lượng.Xí nghiệp phải mỡ rông ảnh hưởng của ḿnh, và cạnh tranh không có nhân nhượng. Sự giàu có là nhờ vào máy móc và dành riêng cho người có của.Thân phận của người nghèo đă vậy,  môi trường sinh thái cũng bị đe doạ v́ sự bánh trướng của thị trường. Sự khánh tận các tài nguyên cũng thành vấn đề thớ sự v́ các xi nghiệp chọn con đường dễ dăi nhất.Sự tính toán lâu dài về dâu hoả theo công ích không thuộc trong tính toáncủa nhà đầu tư.

Một tín điều rất phỏ biến : dân chủ và kinh tế thị trưởng là thiết cần cho phát triển kinhn tế. Trung Quốc và Việt Nam đă phát triển với những tỉ số cao mà không cần đến dân chủ và kinh tế thị trường đúng nghĩa. Singapore, Nam Hàn đă phát triển vào lúc chưa thực có dân chủ.hưa có dấu hiệu nào cho phép nói rằng Trung Quốc và Việt Nam đang phát triển mong manh, và sẽ có ngày ngừng trệ như người ta thương tiên đoán.Trái lại hai nước này không bị xáo trộn v́ cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây ở Đông Nam Á. Đúng ra v́  không thỏa thuận về những tiêu chuẩn của phát triển, người ta thu hẹp khái niệm vào mọt vài chỉ số. Người ta không đặt câu hoỉ : phát triển để làm ǵ ?, mà chỉ để tâm vào tiến bộ.

Sự tập trung quyền lực kinh tế  và quyền lực nói chung vào tay người giầu và diễn viên của họ đưa người nghèo vào những cuôc đấu tranh ngoài phạm vi dân chủ. Sự làm chủ của người dân, càng ngày càng mất thực tế. Các quốc gia cũng bị đe doạ. Theo Michel Camdessus, nước Pháp sẽ đi vào suy thoái trong ṿngg 10 năm nữa nếu tiếp tục tiến tŕnh hiện tại. Các quốc gia hoàn toàn không có hy vọng phát triển như Hoa Kỳ v́ trái đất thiếu tài nguyên.

Vậy phải đoạn tuyệt với các mô h́nh hiện tại. Người dân phải là chủ quyền lực kinh tế. Phát triển phải được quan niệm như sự thăng tiến của con người, cả về mặt tinh thần và vật chất.Tuỳ thuộc vào khả năng chuyển vận bánh xe lịch sử đang bị tắc trong trường tư tưởng.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

NGUYỄN XUÂN PHƯỚC, Tản mạn về hai chữ «tư pháp» (tr.103-105)

Chữ  tư pháp rất thông dụng trong ngôn ngữ luật pháp Việt Nam : bộ tư pháp, lập pháp, hành pháp. Tuy nhiên người viết bài này gặp một số lấn cấn về cách xử dụng chữ tư pháp.

Trước 1945, tại Huế có bộ h́nh, cơ quan quản lư hệ thống pháp luật, và là một trong sáu bộ. Chính phủ Trần Trọng Kim (tháng 3 năm 1945)  thành lập bộ Tư pháp, bộ trưởng là Trịnh Đ́nh Thảo. Hiến pháp 1946 thành lập bộ Tư pháp, coi về pháp lư trong guồng máy hành chính. Chính phủ miền Nam củng dùng chữ đó. Sau 1975, chữ tư pháp chỉ hệ thống pháp luận trên toàn lănh thổ. Theo Trần Văn Kiệm (1989) chữ Tư có 19 nghĩa. Nghĩa thứ năm : Tư là quản lư. Tư pháp : lo cho pháp luật được thi hành.Tư đồ, chức quan ngày xưa.

Như vậy bộ tư pháp có nhiệm vụ thi hành luật pháp quốc gia. Ngành tư pháp, chỉ toà án,  phân biệt với hành pháp, lập pháp. Tư pháp (private law) nghĩa thư ba, là luật dân sự,  phân biệt với công pháp (public law).

Hiểu theo nghiă thứ nhất, Bộ Tư Pháp  phải được hiểu theo chức năng thi hành pháp luật mà hiến pháp quy định. Nhưng Hiến pháp 1946 cũng Hiến pháp hiện hành đều gôp vai tṛ toà án vào bộ tư pháp : Xây dựng, phổ biến, giáo dục pháp luật. Quản lư về mặt tổ chứcToà án nhân dân điạ phương. Nếu dùng chữ tư pháp thay cho chữ toà án th́ khó cách nghĩa tại sao ngành tư pháp lại độc lập với hành pháp. Tiếng Anh, chữ Judiciary có nghĩa là toà án, toàn bộ các quan toà, có nhiệm vụ xét xử những vụ vi phạm pháp luật và trừng phạt những vi phạm đó (diễn dịch, diễn giải, áp dụng pháp luật).

Hiểu như vậy chữ tư pháp dùng để phân biệt với hành pháp th́ không chính xác. Bộ Tư pháp thuộc ngành hành pháp. Tư pháp dùng để phân biệt với công pháp không có liên hệ đến sự quản lư luật pháp theo nghĩa bộ tư pháp.

Xin đề nghị : Trong hệ thống tam quyền, ta có thể dùng những chữ : Ngành Xét Xử, Hệ thống Toà Án, Phê Phán Công Đường, Ngành Tài Phán. Chữ tư pháp hiểu là private law th́ dủng chữ Tư Luật, phân biệt với Công Luật.

Chữ Bộ Tư Pháp th́ giữ lại. Đồng nghĩa với Bộ Công Lư, Bộ Pháp Lư. Chữ tài phán (gồm hai chữ trọng tài, phán xét) trước 1975 được dùng trong chữ ngành tài phán. Tuy nhiên tài phán ngày nay chỉ việc quản lư chị em phụ nữ làm công tác.Ta không nên dùng. Lư Đông Anh (Duy Nhân Cương Thường) xử dụng danh từ Phê Phán Công Đường theo nghiă ngành toà án độc lập với hành pháp và lập pháp.

Để có một chế độ dân chủ trong sáng, ngôn ngữ diễn tả chế độ cũng phài trong sáng.Sự quan tâm của nhiều người về vấn đề này có thể giúp chúng ta diễn tả ư niệm dân chủ pháp trị và cách tổ chức guồng máy nhà nước cách rơ ràng và chinh xác hơn.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

DOMINIQUE NGUYÊN, Triều đại cuối cùng của vương quốc Champa,1771-1832 (tr.106-109)

Chính sách Nam Tiến của Đại Việt làm cho Champa  mất dần các tiểu vương quốc  (vùng Quảng B́nh, Quảng Trị và vùng Quảng Nam, Huế và sau cùng vùng B́nh Định năm 1471. Nhưng vương quốc Panduraranga ở miền Nam (từ Phú Yên đến Phan Thiết  c̣n giữ dược đến khi Minh Mạng quyết xóa bỏ vương quốc năm 1832.

Năm 1771, anh em Tây Sơn khỏi sướng  dân chúng chống lại chúa Nguyễn rú về Gia Định. Lănh thổ Panduranga-Champa (Trấn Thuận Thành) bị đẩy vào cuộc chiến của người ViệtNam. Khi bị Nguyễn Ánh xâm chiếm, người Panduranga không thể không theo kẻ chiến thắng. Đến khi phe Tây Sơn tấn tới là họ bị báo thù. Năm 1973 Nguyễn Ánh phong chức cho một người bản xứ, Po Ladhunpahuh, và khuyến khíc người Việt vào Panduranga làm việt.Năm 2002,

Gia Long chia lănh thổ ra làm bốn vùng : Miền Bắc, Miền Nam (Lê Văn Duyệt), Miền Trung, và Miền Panduranga (từ Cam Ranh đến Lâm Đồng)  giao cho Po Saong Nhung Ceng, có quyền tuyệt đối  trừ dân cư ở phủ B́nh Thuận và có quyền tổ chức chính trị, hành chính. Nhân vật này khôi phục được lại kinh tế.

Nhưng  năm 1820, Minh Mạng tập trung trong tay mọi quyền lực, thay đổi chính sách. Vua bổ nhiệm Mai Văn Lương làm thủ trưởng ở B́nh Thuận, tách  phủ này ra với Gia Định Thành. Vua cô lập Lê Văn Duyệt, người được dân chúng mến mộ như một vị vua. Vua  triệu phó  vương Po Khan Thu, thân với Lê Văn Duyệt, về Huế, để ông ta không thể  thay thế  Po Saong Nhung Ceng, từ trần năm 1822. Nhà vua cử Blait Lan làm vua thay thế, chớ không để cho  người  Panduranga chọn lựa. Ja Lidong nổi lên chống đối. Vua đành cho Po Khan Thu trở về làm vua. Nhưng phe nổi loạn không chịu, chỉ chịu đầu hàng dưới uy quyền của Lê Văn Duyệt. C̣n người dân bản khổ sở v́ phải  công hiến triều đ́nh Huế đủ số gỗ hàng năm. Khi  ông vua của họ từ trần, Minh Mạng và Lê Văn Duyệt t́m cách đưa người thân cận lên kế vị. Lê Văn Duyệt muốn tiến cử Po Phaok The. Bầu khí trong xă hội biến chuyển : người Việt dựa vào triều đ́nh Huế hách dịch với các tu sĩ Chăm, người Panduranga phải mặc Việt phục và theo lễ nghi Phật Giáo.

Năm 1832 Lê Văn Duyệt từ trần. Lê Văn Khôi vùng dậy chống triều đ́nh, nhưng bị thất bại.

Minh mạng ra lệnh đào mả Lê văn Duyệt và tịch thu những tư liệu tiếng Chăm nhất  là tư liệu có liên hệ đến hai tôn giáo Chăm Ahier và Chăm Bani, và bắt buộc các chức sắccác tôn giáo này ăn thịt heo, thịt ḅ. Nhân dân, bị đánh thuế nặng, phải đi tạp dịch, đố, cây. Năm 1833 và năm sau hai phong trào vùng dậy : Katip Sumat, Ja Thak Va  vùng dậy. Vua ra lệnh đốt phá các làng có liên hệ bên  phiến loạn. Từ vịnh Cam Ranh đến B́nh Tuy  người Chăm phải dời đi nơi khác. Người Chăm không có quyền hành đạo. Năm 1832, vương quớc Champa bị bỏ xoá trên bản đồ Đông Dương.

Sau 10 thế kỷ, dân tộc Champa đă trải qua bao thăng trầm  để đối phó với chính sách Nam Tiến của Việt Nam, và chỉ c̣n lại chưa đầy 10000 người sống rải rác  ở hai khu vực Ninh Thuận và B́nh Thuận. Đó là một bài học lịch sử đau đớn.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

NGUYỄN THIỆP, Dầu hoả ở Việt Nam (tr.110-115)

Tiềm năng dầu hỏa Việt Nam là một vấn đề rất hệ trọng. Sau 30 năm, kỹ nghệ dầu hỏa ở  Việt Nam đă ra sao ?

Những công tác thăm ḍ dầu khí có mục đích đi t́m những tích luỹ dầu khí đủ lớn đề có thể khai thác được trong điều kiện kinh tế thuận lợi. Việc thăm ḍ này dựa trên hiểu biết  về địa chất, địa vật lư, và theo những dữ kiện thâu thập được bằng địa chấn. Các mỏ được xếp thành từng loại : mỏ khí, mỏ dầu khí, mỏ dầu nặng hoặc cực nặng.

Nhưng mỏ dầu khí nào cũng có ít nhiều condensar, mỏ dầu thô nào cũng có ít nhiều khí đồng hành. Các chất trong  mỏ dầu trong ḷng đất là một hỗn hợp của hydrocarbon, azote, carbonne dioxide và những tạp chất  có lưu h́nh như H2S. Có mỏ nhiều azote, có mỏ nhiều H2S.

Dầu lỏng và dầu khí phải được tách ra. Dầu lỏng được đưa tới các nơi tiêu thụ bằng ống dẫn, xe b́nh, tầu hỏa. Khí dầu thâu lượm được trong quá tŕnh sản xuất dâu thô gọi là khí đồng hành, được chuyển tới những nơi tiêu thụ hay bị đốt bắng ống đốt khí  như ở mỏ Bạch Hồ.Khi dầu không phun ra được nữa th́ phải dùng máy bơm như ỏ Texas. Người ta chỉ khai thác được 30% dầu trong mỏ. Hai phần ba c̣n lại vẫn c̣n nằm trong ḷng đất. Tuỳ theo nhu cầu điạ phương dầu khí được chia ra nhiều loại bằng phương chế lạnh C1 được chi phối cho tư nhân. C2 nguyên liệu cho kỹ nghệ hóa dầu pétrochimique. C3, dầu lỏng dùng để chế b́nh khí propane. C4 dùng để chế biến b́nh khí butane. Condensat dầu nhẹ để sản xuất xăng.

Ở Việt Nam nhà máy tại Đinh Cố được hoàn thành cuối  năm 1998. Công xuất chế biến : 4,5 triệu mét khối khí đồng hành một ngày, đưa từ mỏ Bạch Hà, để sản xuất 800 tấn LPG và 350 tấn condensat một ngày. Khí loại C1, C2, 4 triệu mét khối, được đưa tới các nhà máy điện ở Bà Rịa, Phú Mỹ. Dầu thô, sau khi được chưng cất, được chia ra thành những cúp như dầu xăng nhẹ, dầu xăng, kérozène, dầu đốt nhẹ, dầu đốt nặng và bă chưng cất. Những nguyên liệu này sau dó được chuyển biến dầu xăng, dầu diesel cho xe hơi, dầu đốt để nấu cơm.

Hiện nay Việt Nam chưa có nhà máy lọc dầu nào. Tất cả  các sản phẩm dầu hỏa tiêu thụ trong nước  đều phải nhập cảng. Có hai dự án: Dung Quất (tỉnh Quảng Ngăi), Nghi Sơn (Thanh Hoá). Nhà máy Dung Quất có công xuất 6,5 triệu tấn một năm với dầu thô của mỏ Bạch Hà. Công ty Petrovietnam chịu trách nhiêm về dự án, 111, 6 tỷ Mỷ kim. Ngày kháng thành nhà máy dự trù vào năm 2008. Nhà máy Nghi Sơn có công xuất 7 triệu tấn một năm. Ba công ty: Petrovietnam, Mitsubishi và ABB bỏ ra 2,5 tỷ Mỹ kim. Ngày khánh thành dự trù : năm 2010.

Hoạt động thăm ḍ đă bắt đầu từ 1960 ở vùng trũng Hà Nội. Giếng đầu tiên được khoan tại Thái B́nh năm 1970 (độ sâu 3000 m). Tất cả khỏang 40 giếng.Mỏ Tiền Hài, khai thác từ 1981,có trử lượng 1,3 tỷ mét khối.Trong Nam hai công ty Mobil và Exxom đă thhục hiện chương tŕnh địa chấn trên thềm lục địa năm 1973. Năm 1974 hăng Pecten đă khoan giếng đầu tiên ở ngoài khơi nhưng giếng không đủ đế khai thác cho có lợi nhuận. Năm1975 Mobil phát hiện ra giếng Bạch Hô-1 vớí mức độ sản xuất vào 2600 thùng dầu một ngày. Sau 1975 ba công ty kư hợp đồng với Việt nam trong những năm 1977-78 : Deminex, Agip, và Bow Valey. Nhưng hợp đồng được chấm dứt năm 1983. Từ 1981 trở đi chỉ có công ty Vietsovpetro (hợp đồng giữa Việt Nam và Liên Xô) thực hiện những t́m kiếm thăm ḍ ở Việt Nam. Giếng Bạch Hồ được khoan vào cuối 1984. Mỏ Rồng được phát hiện năm 1985, và 3 giếng khác được khoan trên cấu trúc Đại Hùng (Big Bear của Mobil trước 1975).

Từ 1988, các công ty nước ngoài trở lại. Phải chờ đến năm 1993 mới phát hiện ra những mỏ dầu khí  như Lan Đỏ, Lan Tây (1993), mỏ Mộc Tinh (1993), mỏ Hải Thạch (1995) và một số mỏ khác. Năm 2000, mỏ Sư Tử Đen với trữ lượng sản suất độ 240 triệu thùng, mỏ Sư tử Vàng, 150 triệu thùng. Tiếp đó là mỏ Ác Quỷ, mỏ Cá Voi. Năm 2003, mỏ Sư Tử Trắng, với 2500 thùng dầu mỗi ngày. Năm 2004, giếng Yên Tử  được phát hiên, nằm ngoài khơi cách Hải Pḥng khỏang 70 cây số. Công việc t́m ṭi rất khó khăn, nhiều công ty đă rút lui có trật tự như Total, Union Texas, British Gas. Chiến dịch t́m kiếm dầu hỏa  thường được thực hiện ngoài khơi. Bồn trũng Hà Nội, Củu Long, bể trầm tích Sông Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Hoàng Sa và Trường Sa chỉ một phần được nghiên cứu. Số lượng dầu sản xuất lên tới 3 404 000 thùng / ngày. Số lượng khí lên tới 460 triệu CF/một ngày trong năm 1994 đưa Việt Nam lên  đến hàng thứ ba ở Đông Nam Á về sản xuất dầu thô.Tất cà loại dầu này được xuất cảng. Mỏ Lan Đỏ, Lan Tây phải chờ tới năm 2002 mới khánh thàng ống dẫn khí vào đất liên,  từ Long Hải về  nhà máy Đinh Cố, rồi đưa khí chế biến nhà máy điện Phú Mỹ. Đây là ống dẫn khí  hai pha (thể lỏng và thể khí) dài nhất thế giới, 399 cây số.Ba công ty : Petrovietnam, BP, và Conoco Phililips, bỏ ra số vốn 565 triệu Mỹ kim. Mỏ Bạch Hổ và mỏ  Rồng  sản xuất trung b́nh trung b́nh 250 000 - 270 000 thùng / ngày. Số khí đốt bỏ càng ngày càng nhiều. Dự án sử dụng khí đồng hành tốn phí tới 460 triệu Mỹ kim làm các nhà đầu tư lo ngại. Cuối cùng Petrovietnam phải chịu hết.

Từ 1981 đến 1988, Vietsovpetro  giữ độc quyển thăm ḍ tím kiếm. V́ thiếu cạnh tranh, kỹ thuật được dùng không phải là những kỹ thuật hiện đại nhất.Theo một cán bộ thuật lại cho Bùi Tín th́ sự cộng tác của Liên Xô thực tốn kém, và thiếu thẳng thắn. Thêm vào đó dân ta c̣n phải chịu độc quyền chính trị nữa. Dân Việt Nam trong 30 năm qua đă chịu bao nhiêu tác hại ! 

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------NGUYỄN NGỌC HIỆP, Việt Nam : Từ ‘cởi mở’, ‘đổi mớỉ’ tới gia nhập Tổ Chức Thương mại Thế giới (tr.116-130)

Năm 2005 đă bắt đầu mà  Việt Nam chưa gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO như chính quyền CS đă dự tính. Tháng 12 năm 2005 có Hội nghị Bộ trưởng của các nước WTO tại Hồng Kông. Việc gia nhập tổ chức này sẽ kết thúc một tiến tŕnh cải cách kinh tế và thương mại theo nền kinh tế chuyển đổi (transition economy), khởi đầu bằng bằng cởi mở, rồi đổi mới.

Kinh nghiệm cho thấy thương mại quốc tế phát triển không ngừng, có ảnh hưởng đến kinh tế các quốc gia như thúc đẩy lao động chuyên môn, gia tăng đầu tư, hiệu xuất và năng xuất, và  cũng giúp các quốc gia bảo vệ chủ quyền, tăng ảnh hưởng trên chính trường quốc tế. Việt Nam, đứng thứ 13 về dân số, phải cớ chỗ đứng tương xứng.

Việt Nam đă nộp đơn gia nhập WTO từ đầu 1995, đă  kư kết lập quan hệ thương mại b́nh thường với Hoa Kỳ và chờ đợi đi vào WTO vào cuối năm nay. Vớí điều kiện thực thi một số nguyên tắc và thủ tục : Thương mại tự do; không phân biệt đố xử kinh doanh; thị trường không nghiêng lệch (undistorsted) ; tính công khai minh bạch của các luật, quy định và thủ tục hành chính; chấp nhận một số công ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ vân vân.Một khi đă là thành viên của WTO, chính quyền sẽ không c̣n có thể hành sử tuỳ tiện, nước Việt Nam bắt buộc phải đố phó với sức cạnh tranh thế giới, từ một tŕnh độ kỹ thuật c̣n lạc hậu.

Thương mại quốc tế xuất phát từ thế kỷ 15. Sau đó tới cuộc cách mạng công nghệ. Hai hiện tượng này gắn bó với nhau.Thương mại bành trướng hay không là do các luật, quy định, thủ tục kinh doanh, đầu tư, sản suất, thương mại có thích hợp hay không. Công nghệ phụ thuộc vào giáo dục, óc cầu tiến và sáng tạo, vừa  dựa vào dân số vừa dựa vào tiến bộ kỹ thuật.Thương mại giúp các quốc gia bổ túc cho nhau, thúc đẩy xu huờng chuyên môn của từng nước, giúp sự trao đổi giữa những nước cùng một tŕnh độ phát triển. Chưa bao giờ giao dịch thương mại dày đặc như ngày nay. Từ 1980 đến nay 2003, sản lượng toàn cầu gia tăng 3, 1% hàng năm, xuất khẩu hàng hóa gia tăng lên 5,8%. Thương mại tiến triển nhanh như vậy là nhờ vào việc cắt giảm hàng rào thế quan qua khuôn khổ các hiệp định quốc tế về Thuế quan và Thương mại (GATT), và về quy dịnh tổ chức thương mại (WTO) với sự tham gia của các quốc gia từ 23 (1947)  đến 148 (2002).

Sau 1975 chính quyền Việt nam đă thực hiện mô h́nh kinh tế theo chủ nghiă xă hội nguyên thuỷ. Nhà nước quy định sản suất và phân phối. Kinh tế và thương mại hoàn toàn thiếu tự do, thiếu cạnh tranh. Chính quyền bắt buộc ‘cởi mở’ ngay cuối kế hoạch ngũ niên (1976-1980). Năm 1986 là thời ‘đổi mới’ kinh tế, chấp nhận cạnh tranh, thu hút đầu tư nước ngoài. Trong cụ thể, cởi mở là cởi trói người nông dân ra khỏi hợp tác xă, cởi trói xí nghiệp ra khỏi mô h́nh tập trung, đón nhận những tiêu chuẩn mới, như giá thị trường, đầu tư nước ngoài.Nhưng đổi mới lúc đầu chỉ nhằm vào cơ sở sản xuất và giao dịch hàng ḥa hạ tầng. Sau đó chính quyền đă chuyển sang kinh tế thị trường, tự do hoá kinh tế trong một mức độ nào đó. Không có cải cách vĩ mô toàn diện. Chính quyền vẫn giữ quyền lấy quyết định tuỳ tiện. Chủ động gia nhập WTO đ̣i hỏi ḷng tự tín về khả năng cạnh tranh, tức là nhận thức về hội nhập, về chuyển đổi và về phát triển cho đúng mức. Cụ thể là phải nh́n nhận sự thiếu b́nh đẳng  giữa khu vực quốc doanh và khu vực tư nhân và nhu cầu tiến hành với các tốc độ cần thiết, như cải tổ ngàng dệt cho kịp đầu năm 2005 vào dịp chế độ hạn ngạch được băi bỏ.

Nói đến cạnh tranh là đặt vấn đề tŕnh độ chuyên môn của người lao đông Việt Nam. Đông đảo và cần cù, lương bổng thấp, chưa đủ trong cái thế giới cạnh tranh ngày nay.Phải có một chính sách đào tạo, một mạng lưới doanh nghiệp tự do trao đổi thông tin, và sự khuyến khích tinh thần độc lập thay v́ ỷ vào Nhà nước.

Kề từ tháng 7 năm 1995, quan hệ với Mỹ mới dược b́nh thường hóa, và Việt nam mới thực sự tiến hành công cuộc hội nhập quốc tế : hội viên ASEAN, hội viên ASEM (Asia Europe  Meeting), tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA (Asean Free Trade Area), quan hệ b́nh thường với Mỹ (2000), Hiệp định Thương mại Song phương Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA) năm 2001. Chỉ c̣n ngưỡng cửa WTO nữa !

Trong khuôn khổ Đông Nam Á, Việt Nam t́m cách thu hút đầu tư của các nước  trong khu vực. Năm 1998, Việt Nam tham gia  APEC (Asia Pacific Economie Forum). Việt Nam chấp nhận chương tŕnh giảm thuế của CEPT (Common Effective Preferential), chương tŕnh phát triển ngành xuất khẩu và công nghiệp. Tuy nhiên thương mại với các nước ngoài AFFTA cũng phát triển song song. CEPT không bắt buộc thay đổi thiết chế và cơ chế kinh tế.Việt nam t́m cách xuất khẩu một số sản phẩm thay v́ nhập khẩu như  xi măng, đường, sắt thép. Năm 2002, 70% hàng xuất khẩu sang ASEAN  là sản phẩm và nguyên liệu không biến chế. Singapore thu hút từ 60 đến70% hàng xuất khẩu Việt Nam trong khu vực nhờ vào thuế nhập khẩu rất ít, trong khi đó Việt Nam vẫn c̣n là nước đóng thuế cao nhất. Việc giảm thuế tuỳ theo loại hàng hóa (Inclusion List) và tuỳ theo chính sách song phương giữa các nước.

BTA bao rộng, nhiều chi tiếp, quy định những lộ tŕnh phải theo để cải tiến  thương mại hàng hóa, sở hữu chính trị, thương mại mậu dịch, đầu tư, theo những nguyên tắc phú hợp với WTO. Về phía Việt Nam, : Cam kết công khai minh bạch trong việc ban hành luật pháp,thủ tục hành chính; thiết lập cơ quan tài phàn và áp dụng thủ tục khiếu nại, khiếu kiện; chấp nhận trọng tài thzeo tiêu chuẩn quốc tế.Về phiá Hoa kỳ : Rút thế quan từ 45% đến 3% theo quy chế tối huệ quốc. Hoa kỳ là một thị trường rộng lớn, nhưng đ̣i hỏi Việt Nam những thay đổi mới mà chính quyền đă cần 10 tháng để suy nghĩ. Năm 2001, Trung Quốc vào WTO, Việt Nam không nên chần chừ. BTA đă đưa Việt Nam  hội nhập quốc tế, tăng số lượng xuất khẩu sang Hoa Kỳ lên 127% trong năm 2002 thay v́ 2, 5% với các nước c̣n lại. Nhưng năm 2004 mức gia tăng rút hẳn xuống :15%. Đầu tư nước ngoài không thay đổi. Công nghệ chế biến non yếu.

Từ 1948 tới nay có tất cả 8 ṿng đàm phán về vấn đề điều ḥa và phát triển thương mại quốc tế.Nguyên tắc về hàng rao phi thuế quan đă được hội viên cam kết. Nhiều lănh vực hoạt động được dề cập như nông sản, dịch vụ, hàng may dệt, quyên sở hữu trí tuệ. Năm 1995, WTO thay thế GATT, với một nhiệm vụ mới :làm trọng tài giữ các hội viên.

Việt Nam đă trả lời khoảng 1700 câu hỏi của Ban công tác (working party) của WTO. Nhận định rơ những khác biệt về nguyên tắc và quy định giữa WTO và Việt Nam. Những cam kết mà Việt Nam phải thực hiện trong tư thế một nước có thu nhập thấp (Low Income Country). Đàm phán song phương với số nước trong Ban công tác về thuế quan, về số lượng nhập khẩu, về thị trường hàng hóa và dịch vụ. Kết quả các cuộc đàm phán: Về WTO c̣n có trở ngại về các vấn  đề liên quan đến doanh nghiệp Nhà nước, quyền kinh doanh, đầu tư, chính sách hộ trợ của Nhà nước. Đối với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ và nước khác, tất cả là 7 thỏa hiệp, có thể  kư kết trong tương lai gần đây. Như vậy Việt Nam sẽ phài bỏ  mô h́nh xă hội chủ nghiă !

Trung Quốc  đă  thiết lập quan hệ thương mại b́nh thường với Hoa Kỳ ngay năm 1979, và đă kỳ kết thêm một số hiệp định khác về tiếp cận thị trường , quyền sở hữu trí tuệ, tơ sợi, dịch vụ tài chính. Trung Quốc tạo một khối dự trữ khổng lồ để pḥng ngừa trở ngại khi gia nhập WTO, và đă thu hút rấ nhiều đầu tư nước ngoài. Thái độ hoàn toàn chủ động. Việt Nam đă không như vậy v́ thiếu một kiểu lănh đạo táo bạo.

Việc gia nhập WTO của Việt Nam vào cuối năm lệ thuộc vào các thỏa hiệp song phương với 27 quốc gia trong Ban công tác. Tháng 2 năm 2005, chỉ có 6 nước đă kư kết hiệp định với Việt Nam (Liên Hiệp Âu Châu, Singapore, Brésil, Argentine, Chili, Cuba). Một số vấn đề cần được thoả thuận như vai tṛ quản lư Nhà nước, tự do hóa thương mại dịch vụ, thuế hải quan, vân vân.Vào WTO là mục tiêu hay là phương tiện?  Chỉ nên gian nhập khi có điều kiên thuận lợi, khi có phương tiện đối phó các ảnh hưởng tiêu cực khi gia nhập? Dầu sao, chính quyền đă đi hẳn một bước không lùi lại được. Công việc xin gia nhập đ̣i ban lănh đạo CS một sự nhất trí, nhưng không đi đôi với tinh thần trách nhiệm.

WTo sẽ mở cho Việt nam quy chế tối hậu quốc, nếu có thể được, với tính cách vĩnh viễn thay v́ một năm với Hoa Kỳ hiện nay. Thị trường các nước sẽ các rao cảng thương mại, nhưng lợi ich c̣n tuỳ khả năng Việt Nam . Đầu tư nuớc ngoài sẽ mang bộ mặt khác thay v́ tập trung vào các nước trong khu vực (70%), nhưng Việt Nam  phải cạnh tranh với Trung Quốc hiện nay có nhiều sức thu hút, và đối phó với thiếu các cơ sở hạ tầng cần thiết cho nước ngoài vào đầu tư. Hiện nay cơ sở sản xuất sở hữu nước ngoài chiếm 65% vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam không c̣n cách nào khác là chấp nhận cạnh tranh và hành động kịp thời.Việt nam, về mặt bang giao, có thể giải quyết các vụ tranh chấp theo thỏa hiệp Dispute Settlement Understanding , đặc biệt khi nước nào cho Việt Nam là một Non-Market Economy để gây khó khăn cho ngành xuất khẩu Việt Nam như Hoa Kỳ với vụ cá và tôm. Để có đi có lại, Việt Nam phải nhập khẩu, một số doanh nghiệp nhà nước sẽ mất việc làm. Thất nghiệp gia tăng. Các tầng lớp yếu kém sẽ dẽ bị tổn thương.

Ngoài WTO c̣n nhiều hiệp định song hay đa phương : Thương mại Ưu đăi, Thương mại tự do, Liên hiệp Thuế quan, Liên hiệp Kinh tế, Thị trường Chung. Tuy nhiên sự bất b́nh đẳng giữa các nước tiên tiến và các nước khác.Hàng năm Hoa Kỳ trợ cấp nông nghiệp khoảng 20-25 tỷ Mỹ kim. Liên hiệp Âu châu :300-350 tỷ. Nhiều nước tân tiến hành động mâu thuẫn với những nguyên tắc WTO khi áp dụng thuế đối kháng ( coutervailing duty), hay theo chế độ bảo hộ thương mại (neo-protectionism): trợ cấp giá để chống phá giá (anti-dumping), giới hạn tự do thương mại đối các nước không phải là thành viên của các liên hiệp. Các tổ chức liên hiệp này có loại tập hợp một số quốc gia  sức thu hút đầu tư mọi nước như Liên hiệp Âu châu (loại polarisation), có loại giới hạn vào các quốc gia trong khu vực như ASEAN (loại régionalisation).

Vùng Đông Châu Âu chuyển biến nhanh chóng. Nam hay Bắc Châu Mỹ có nhiều hiệp định thương mại. Bên Á Đông : hiệp định Singapore - Nhật Bản, Singapore - Úc. Tất cả có 250 hiệp định thương mại khu vực. Trung Quốc bắt đầu đàm phán với ASEAN.

Việt nam thuộc một khu vực rất năng động : thị trường rất đông, nhiều công ty xuyên quốc gia, nhiều cách biệt giữa các quốc gia. Nói chung, các công ty đa quốc gia trong 20 năm qua đă thiết lập rất nhiều cơ sở trên khắp thế giới. Từ 1980 đến 2003 đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới gia tăng 10,6%. Việt Nam phải hợp tác, liên doanh với các công ty đa quốc gia qua các h́nh thức cụ thể. Việt Nam đă có những thay đổi, nhưng thực hiện từng phần, từ dưới đi lên. C̣n nhiều mâu thuẫn giữa ư định  xóa bỏ bao cấp với các h́nh thức bảo hộ, giữ các nguyên tắc thương mại quốc tế với với quy định pháp lư Việt Nam. Chưa bao giờ chính quyền Việt Nam phải đối mặt với công cuộc phát triển kinh tế một cách toàn diện như lúc này. Những nguyên tắc cơ bản như thương mại tự do, thị trường cạnh tranh, kinh doanh b́nh đẳng chẳng hạn phải được chấp nhận, tức là thay đổi tư duy.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

HOÀNG  XUÂN ĐÀI, Giới (gender), Giới-tính (sex) và B́nh-đẳng-giới tại Việt Nam thời Đổi mới (tr,131-139)

Giới-tính (sex) chỉ những khác biệt về thể xác giữa đàn ông và đàn bà.

Giới (gender) chỉ những khác biệt về tâm lư, tâm thần, xă hội, kinh tế, chính trị, giữa đàn ông và đàn bà. Có thể gọi là giới tính xă hội. Người ta không sinh ra làm đàn bà, hay đàn ông, mà trở  thành đàn bà hay đàn ông dưới ảnh hưởng giáo dục (theo Simone de Beauvoir và Bourdieu).

Chủ-nghiă-giới-tính (sexism) là chủ nghĩa phân biệt đối xử dựa trên giới tính, cho giới tính này cao hơn giới tính khác, đàn ông và đàn bà rất khác hau hay hơi khác nhau, sự khác biệt phải được phản ánh trong xă hội. Phản ứng  nguợc lại : phong trào b́nh- đẳng- giới và phụ-nữ-quyền,  từ chối các thứ bậc theo sex và gender.

Ngày Phụ nữ Quốc tế kết tinh một quá tŕnh tranh đấu sôi nổi và tượng trưng cho một cuộc trường chinh lặng lẽ. Ngày lễ có một nguồn gốc từ những cuộc đ́nh công trong những năm 1857 và 1911 tại New-York để phản đối các điều kiện quá tồi tệ của các nữ công nhân ngành dệt. Năm 1910, đại hội lần thứ 2  của phụ nữ thế giới được triệu tập tại Copenhague  chọn ngày 8 tháng 3 làm ngày lễ tranh đấu cho quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. Năm 1977 Liên Hiệp Quốc mời các quốc gia dành ngày 8/3 để biểu dương quyền phụ nữ và ḥa b́nh. Vấn đề phụ nữ được đánh giá một cách đầy đủ thông qua một loạt hội nghị thế giới, được Liên Hiếp Quốc đứng ra tổ chức. Hội nghị Bắc Kinh (1995) tuyên bố xóa bỏ h́nh thức phân biệt đối xử với phụ nữ và vận động sự tiến bộ của phụ nữ toàn cầu cho đến năm 2000. Hôm nay mùng tám tháng ba. Chị em phụ nữ đi ra đi vao.Phái nam đon đả đón chào.Hoa nào cũng đẹp mặt nào cũng tươi.

Gia đ́nh cổ Việt Nam xây dựng cơ sở ruộng đất, là điểu kiện vật chất và là nền tảng tổ chức gia đ́nh. Dưới thời Nguyễn, quyền lực của chủ gia đ́nh nằm trong người cha, hay người mẹ góa không tái giá khi người cha mất. Thời bảo hộ người Việt Nam vẫn sống trong phụ quyền. Đại gia đ́nh được ghi nhận là một mô h́nh kiểu mẫu.

Nhưng ngày nay mô h́nh đó bị loại bỏ. Luật hôn nhân và gia đ́nh năm 1959, dựa trên nguyên tắc b́nh đẳng giữ nam và nữ, quy định một chế độ hợp tác giữa Nhà nước và cha mẹ trong việc nuôi dạy con. Luật hôn nhân và gia đ́nh năm 1986 coi quan hệ giữa cha mẹ và con cái là một nghĩa vụ hỗ trương. Con có nghiă vụ kính trọng, săn sóc cha mẹ. Ông bà và cháu không cùng một gia đ́nh hộ .Về mặt kinh tế, Nhà nước khuyến thành phần của các gia đ́nh tập họp vào các kế hoạch đầu tư, trong chính sách đổi mới. Luật hôn nhân và gia đ́nh năm 2000 đưa ra mô h́nh gia đ́nh nhiều thế hệ, khuyến khích các thế hệ giúp đỡ lẫn nhau.

Luật ruộng đất năm 2003 bắt buộc giấy nhận sở hữu phải mang tên chồng và vợ  nếu ruộng đất thuộc về hai người. Đó là một tiến tŕnh quan trọng tiến tới b́nh đẳng giới, tuy nhiên hiện nay 83% sở hữu ruộng đất mang tên chồng, 11% mang tên vợ, 3% mang tên cả hai, 3% mang tên người độc thân.Theo sự dánh giá của chương tŕnh phát triển Liên Hiệp Quốc, những quan niệm truyền thốngt về gia đ́nh vẫn tiếp tục ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của phụ nữ và em gái.

Phụ nữ chiếm 52% lực lượng lao động ở Việt Nam. Họ làm việc nhiều hơn, ngủ ít hơn, được trả lương ít hơn, điều kiện làm việc khó hơn, khả năng thăng tiến (học tập, tín dụng) ít hơn, tuổi về hưu chậm hơn.Nam giới giữ hầu hết các vị trí lănh đạo trong các cơ quan, mặc dù lao động phụ nữ đông chiếm đa số. Phụ nữ nông thôn làm việc nhiều hơn nam giới từ 6 đến 8 giờ mỗi ngày, ng̣ai nhiệm vụ săn sóc trẻ em và người già.Hai phần ba số người vay vốn  là nam giới. Tỷ lệ đại biểu trong Quốc Hội là 27%, trong Hội đồng nhân dân từ 7% đến 33%. Trong ngành tiểu học, qua bốn niên khóa từ 1999 đến 2003,  số học sinh nữ là hơn 47%.

Một đợt đánh giá toàn diện về vấn đề giới ở Việt Nam qua Liên Hiệp Quốc và Uỷ ban Quốc gia  v́ sự tiến bộ  Phụ nữ đưa đến nhận định như sau : những quan niệm truyền thống ít thay đổi, trong  thực tế vai tṛ của phụ nữ đă thay đổi rất nhiều.Sự khác biệt đó, theo một cuộc thăm ḍ, nam giới cho là tự nhiên... Họ lẫn lộn giữa vai tṛ thiên nhiên của giới tính (phụ nữ đẻ con và cho con bú) với vai tṛ xă hội của các giới (nam giới, nữ giới). Một số phụ nữ đảm nhận những trách nhiệm ở các cơ quan, về gia đ́nh họ phải lo việc nội trợ được nh́n là bổn phận của họ. Làm tṛn được hai nghĩa vụ thường phải hy sinh giấc ngủ hay sức khoẻ. Đó là một t́nh trạng mà phụ nữ Việt Nam ngày nay muốn thay đổi. Họ muốn có vị thế chủ động trong hôn nhân, và quyền chọn lựa sinh con hay không. Trong gia đ́nh phụ nữ có quyền đưa ra các quyết định về các vân đề quan trọng. Ngoài xă hội, phụ nữ làm công việc với mức lương cao hơn. Tóm lại họ không muốn tiếp tục bị coi là phái yếu. Công việc đổi mới về giới, theo các đ̣i đó, chỉ có thể thực hiện được khi tất cả thanh niên nam nữ đều cùng được hưởng thụ những lợi ích của thị trường, và quyên b́nh đẳng về công việc và trách nhiệm (Susette Mitchell).

Hiện nay ở nông thôn cũng như thành thị giới nam có nhiểu ngủ hơn giới nữ, cách nhau từ 2 giờ đến 1 giờ mỗi ngày. Đời sống phụ nữ càng ngày càng khó khăn. Phụ ữ từ từ xa lánh đảng CS (số nữ đảng viên hiện nay là 16%). Hội Phụ nữ đưa ra khẩu hiệu Công- dung ngôn hạnh, để dung hoà đ̣i hỏi của nghề nghiệp (công) với những đức tính cổ truyền (dáng điệu, cách ăn nói và đức hạnh). Đó chỉ là lư thuyết, c̣n đời sống là chuyện khác. Nạn mại dâm, bán ḿnh để lấy chồngn ngoại quốc thành một quốc nạn, một ám ảnh bất hạnh. Mà đă từ lâu rồi. Thân phận cô Kiều chịu mọi thiệt tḥi v́ đạo làm con và v́ thế gian lừa dối. Từ thời Pháp tới thời người Mỹ, bao phụ nữ Việt Nam phải dựa vào người ngoại quốc trong các nhục chung cùa dân tộc.

Phạm Thị Hoài nh́n trí thức Việt Nam trong tư cách chính thống và tư cách học tṛ, những loại người chỉ chờ mong vào sự ưu ái của chính quyền. Dương Thu Hương trong nhà tù nhớ lại người cha ḿnh khắc nghiệt bất công, đến thận phận của chính ḿnh là người con bất hạnh. Như vậy là đă có nhà văn nữ táo bạo, dám đưa t́nh thần phiến loạn vào nam giới. Họ đang hiện hữu trong xă hội, nói theo Camus : Tôi phản loạn, vậy chúng ta hiện hữu (“Je me révolte, donc nous  sommes”)

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

VŨ THIỆN HÂN, Bài toán của giáo dục và đào tạo Việt Nam: Cân bằng nào giữa ngân quỹ, hiệu quả và công b́nh ? (tr.141-150)

Tŕnh độ quá thấp, học phí quá cao (cho trẻ em, học sinh, sinh viên) là đề tài tham luận, kiến nghị trên bao chí và diễn đàn điện tử từ ba bốn năm nay. Cũng là nỗi băn khoan cho hầu hết gia đ́nh vào lúc học đường thu hút  21,1 triệu người  so với dân số 82,5 triệu.

Tại sao bức xúc khi số sinh viên cao đảng và đại học lên hơn 1 triệu với một đội ngũ giáo sư hùng hậu (5 361tiến sỉ, 11 719 thạc sĩ) ? Đó là số lượng. Trong cụ thề các gia đ́nh phải đóng đủ thứ lệ phí, một số học sinh phải bỏ trường. Nhiều gia đ́nh không đủ sức cho vào đại học.Lương bổng  nhà giáo quá thấp, chương tŕnh lỗi thời, nạn mua bán bằng cấp. Chính quyền đưa ra những khẩu hiệu có vẻ đổi mới (Dân chủ hóa giáo dục, Đảm bảo chất lượng). Khẩu hiệu chưa đủ.Giới quan chức đỏ lỗi cho ngân quỹ quá ít. Nhưng nhiều nước Á châu đă trải qua những thử thách kinh tế mà sao họ đă  thành công ?

Từ khoảng 40 năm nay, các nhà kinh tế  lập đi lập lại : tŕnh độ học thức cao, cho mỗi cá nhân cũng cho mội quốc gia, đưa đến lợi tức cao. Các quốc gia muốn có nền kinh tế phát triển vững chắc, phải đầu tư vào công việc giáo dục và đào tạo. Nhà nước, như ở Pháp, đă đặt ra nguyên tắc miễn phí cho tiểu học. Tỷ lệ chi phí giáo dục đào tạo trong thế giới so với tổng sản lượng (GDP hay PIB)  đi từ 2% đến 5% từ 1945 đến nay. Năm 1997, ở Pháp là 5, 8%, Hoa Kỳ là 5, 2%, Đức 4,5%, Nhật là 3,6% nhưng đầu tư ỏ ba nước sau cùng lớn hơn Pháp. Ỡ Đức các doanh nghiệp phải đóng tiền đào tạo  chuyên nghiệp. Nói chung đối với các nước tân tiến (trong OCDE ), đầu tư giáo dục 80% là do Nhà nước, 20  là 20% là do tư nhân. Chênh lệch về GDP/ đầu người  giữa các nước tân tiến và chậm tiến là 80 lần, về tỷ lệ đầu tư từ 2, 5% đến 5% GDP. 

Ờ Pháp, sinh viên không phải trả tiền học trừ một số các trường cao đẳng. Họ chỉ phải trả lệ phí ghi danh và bảo hiểm xă hội. Đa số không rời nhà trường  dưới 18 tuổi. Một nửa số học sinh sau trung học tiếp tục đại học trong 2 đến 4 năm. Nhiều biện pháp giúp đỡ gia đ́nh nghèo như học bổng, trợ cấp tiền mướn pḥng. Như vậy mọi người được hưởng công quỹ. Về cơ may thành đạt (égalité de chances)  sự kiện như sau : sinh viên con nhà thuộc lớp trung lưu có tỷ lệ cao và thành thành đạt về học vấn nhiều hơn sinh viên thuộc lớp có lợi tức ít hơn.Từ 10% đến 20% học sinh ra trường vẫn không biết đọc, viết, tính toán. Từ 70 đến 80% có vốn liếng. C̣n lại là những sinh thành công ở đại học hay trường cào đẳng nổi tiếng. Giảm bớt tỷ lệ thất bại vẫn c̣n là lư tưởng : đó là trường hợp chung của các nước tân tiến.

Ngày nay người ta có thể so sánh thành quả  chính sách giáo dục của các quốc gia, theo một số tiểu chung . Các nước dân chủ đánh giá nền giáo dục của họ theo định kỳ. Những thành công nghiên cứu, số người được giải Nobel hay Huấn chương Fields, giá trị bằng cấp trên thị trường quốc tế, đó là những tiêu chuẩn quen thuộc. Người trong nước có ư niệm về thứ bậc của các trường cao đẳng. Hầu hết các nước phát riển có hệ thống đào tạo  liên tục với sự đóng góp của xí nghiệp.Không ai có độc quyền về một ngành hay bộ môn nào. Hệ thống giáo dục và đào tạo là một hệ thống mở (Nhà nước, gia đ́nh, xí nghiệp), đa dạng, phức tạp, cần được khuyến khích thi đua giữa các đại học và giữa các trường cao đẳng. Hậu quả của nền giáo dục được quan tâm hơn công b́nh, v́ đó  là điều kiện sống c̣n của các dân tộc.Tuy nhiên chính phủ các nước phát triển không ngừng t́m cách giảm bớt hiện tượng sai biệt giầu/nghèo.

Tổ chức giáo dục và đào tạo  chính quy hiện nay ở Việt Nam củng giống như nhiều nước. Mẫu giáo : trẻ em từ 3 đến 5 tuổi. Sau đó từ 6 tuổi, trẻ em theo 5 năm tiểu học và 4 năm trung học cơ sở. Tiếp theo, 3 năm trung học hay chuyên nghiệp. Sau trung học có hai giáo tŕnh :cao đẳng (từ 2 đến 3 năm), bằng tốt nghiệp ; đại học (từ 4 năm đến 9 năm), bằng cử nhân,thạc sĩ (master), tiến sĩ. Thống kê niên học 2003-2004 như sau :

Giáo dục mầm non :2,6 triệu (nhà trẻ, mẫu giáo).

Giáo dục phồ thông :17,6 triệu (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông

Trung học chuyên nghiệp : 360 ngàn.

Cao đẳng : 230 ngàn (119 trường công lập, 8 ngoài công lập, 11551 giảng viên)

Đại học :800 ngàn (68 đại học công lập, 19 ngoài công lập, 28 434 giảng viên)

Tổng cộng số học sinh, sinh viên, người học tại chỗ :19 triệu.

Ngân sách Nhà nước : 1,47 tỷ USD, 3,7% GDP năm 2003.

Tổng chi phí giáo dục của gia đ́nh và người đi học : 2,4% GDP.  Tỷ số này rất lớn so với phần động các nước.

Sinh viên du học: 20 000, tổng chi phí 200 triệu USD mỗi năm.

Chính phủ cấm thương mại giáo dục. Thực tế : nhiều đại học  dân lập dựa vào học phí của sinh viên. Nhiều trung tâm giáo dục thu học phí. Có trường trung học đ̣i 4000 USD một năm. Uỷ ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội năm 2004 : Lối học khoa cử vẫn c̣n nặng nề. Kiền thức  chuyên ngành ít được cập nhật. Giáo dục đại học tụt thấp hơn 50 bậc so sanh với Thái Lan. Giáo sư Trần Đ́nh Sử :Nền giáo dục Việt Nam không được thế giới công nhận.Ngay ở Đông Nam Á, nền  giáo dục Việt Nam  ỏ hạng cuối và càng  ngày tụt hậu. Giáo viên ở tiểu học và trung học có lương thấp quá và không được đào tạo nghiêm chỉnh. Nạn mua bằng cấo đư đến hiện tưởng... học giả !

Theo tiêu chuẩn chung đợt, chung đề, chung kết quả thi, kết quả thi năm 2003 như sau :

25 ngàn thí sinh đạt dược số điểm từ 0 đến 0,5 điểm. 70% đạt được từ 10 đến 30 điểm.Riêng miền đồng bằng sông Cửu Long, 60% chỉ đạt tới 3 điểm. Ông Nguyễn Kế Hào : Những báo cáo về giáo dục và đào tạo  sai sự thật, làm dối, làm ẩu,tuỳ tiện. dự án giáo dực là một ví dụ. Dự án này, năm 2000, với sự tham gia của quan chức đi khảo sát ở nước ngoài (12 000-15 000 USD /1 tháng) 2000 lượt. Kết quả : trong quyển vật lư lớp 6 có 46 sai lầm theo ông  Đào Văn Tuân). Chính phủ quyết định học sinh lớp Một và lớp Sáu sẽ  theo sách mới từ tháng 9 năm 2002. Một quyết định liều lĩnh trong khi mọi việc chuẩn bị c̣n đang dang dở. Thế hệ sẽ phải trả giá đắt cho những dự án vay vốn nước ngoài.

Khía cạnh tài chính : Chi phí cho một trẻ em  đi học trung học cấp 2 lên gần  50% lợi tức trung b́nh của một gia đ́nh nông dân. Những món tiền khổng lồ nhờ  vào độc quyền in sách giáo khoa cho 25 triệu học sinh, sinh viên. Không kể các sách về đề thi và đáp án ( mỗi năm gần 1 triệu cuốn), và bao món tiền khác như thay mẫu giấy thi một cách bất thường (Theo Niệm Phuớc và Minh Hằng) Chương tŕnh học : sinh viên vàp đại học và trường cao đảng phải thi  các môn : Triết học Mác-Lênin, Kinh tế chính trị, Chủ nghiă xă hội khoa học, Lịch sử Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh.Nhiều trí thực đă cực lực phản đối : Phản tiến bộ, lăng phí th́ giờ và tiền bạc quốc gia.

Hầu hết các trường cao đẳng và đại học đều ở Hà Nội, Thái Nguyên,Huế, Đà Nẵng, Sài G̣n, Cần Thơ. Từ 1992, Việt Nam cố gắng tập trung mạng lưới đại học và viện nghiên cứu, mục đích nâng cao chất lượng giảng dậy. Nhưng tiến tŕnh hợp lư hóa đă tiến hàn h rất chậm. Sài g̣n tập trung quá nhiều, Hà Nội quá ít. trường Đại học Y ở Huế và Cần Thơ thuộc Đại học đa ngành, khác với Hà Nội và Sài G̣n tách ra khỏi Đại học Quốc gia.

Ngân quỹ dành cho giáo dục đào tạo ở Việt Nam đă tăng lên trong những năm gần đây, từ 2% đến 3% GDP (gần gấp hai lần trong khi học sinh  và sinh viên  tăng lên khoảng 26%. Như thế nguyên nhân chính về tụt hậu không phải là vấn đề tài chính.

Việc cải tổ ngành giáo dục và đào tạo dựa vào khả năng chuyên môn  không thực hiện được v́ đi nguợc lại hệ thống chính trị của Đảng. Hậu quả đă thiếu, lại thêm vào nạn phong chức hàm, nạn học giả. Những người thực có trách nhiệm ở trong bóng tối. Các trường cao đẳng và Đại học đặt dưới hai hệ thống lănh đạo : Một bên là ban giám hiệu và các khối chuyên môn. Một bên là đảng uỷ, và khối đoàn thể (đoàn sinh viên, học sinh,công đoàn). Ông đảng uỷ lấy quyết định, chịu trách nhiệm với Đảng mà thôi.Không qua ông không ai làm ǵ được.

Trung ương bái cái  trung học và tiểu học cho địa phương, đại đa số nghèo. Có nhiều làng không có một học sinh nào lên đến mức tú tài.  Số học sinh trung học chuyên nghiệp có khi  nhảy vọt lên  rồi bắt đầu giảm : kiểu nhảy vọt đó có nghĩa là trung học chuyên nghiệp chỉ là một dạng thấp của của trung học phổ thông. Như vậy khôngn nên đặt vấn đế chất lượ,h cho mất th́ giờ. Đầu tư vào Đại học? Tỷ số sinh viên c̣n rất thấp so với Thái Lan, mà lại không kiếm ra việc làm sau khi tồt nhiệp.Công tŕnh nghiên cứu cho đến nay chỉ có tính cách tượng trưng.

Nói tóm lại Việt Nam không có một chính sách phát triển  giáo dục  và đào tạo. Cái ǵ cũng ưu tiên, chỗ nào cũng tuỳ tiện.Một nền giáo dục bất công, thiếu hiệu quà, lăng phí ngân quỹ. Bài toán về cân bằng  tối uy giữa ngân sách, hiệu quả, công b́nh, không được đặt ra. Cả một ngành đă trở thành bộ máy để làm giầu. Không ai chịu trách nhiệm.

 

°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°°

 


Xin vui ḷng liên lạc với  butvang2006@yahoo.com  về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương
Copyright © 2004 Anh Duong Online
Last modified: 12/12/06