Ngày Thế Giới Về Nước
Trước nguy cơ trên toàn thế giới về t́nh trạng của nước sinh họat ngày càng cạn kiệt và phẩm chất càng tệ hại, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (LHQ) đă quyết định chọn ngày 22 tháng 3 năm 1993 làm Ngày Thế Giới về Nước đầu tiên. Và hàng năm đều có tổ chức nhiều sinh hoạt chủ đề về các vấn đề của nước trên các quốc gia trên thế giới. Cứ mỗi 3 năm, thế giới lại nhóm họp dưới danh nghĩa Diễn Đàn Thế Giới về Nước. Năm 2003, Diễn Đàn kỳ 3 quy tụ hơn 100 đại diện các quốc gia nhóm họp tại Tokyo (Nhật Bản). Diễn Đàn kỳ 4 sẽ họp tại Thủ đô Mexico (Mể Tây Cơ) vào năm 2006.
Đây là một cảnh báo quan trọng với mục đích khơi dậy mối quan tâm của các quốc gia và dân chúng để từ đó “cư xử “ với nước “tử tế” hơn. LHQ đă khơi mào một quan niệm hết sức trong sáng là “ Nước tự nó không màu và không biên giới cho nên không thể bị ức chế được” (water has no colour of its own, it has no boundery to be restricted), và “tất cả mọi người trên thế giới đều có quyền có đủ lượng nước sạch và an toàn cần thiết cho nhu cầu hàng ngày”. Từ quan niệm trên, hàng năm, Ngày Thế Giới Về Nước có một chủ đề đặc biệt được các quốc gia xem đó làm căn bản để khai triển những buổi hội thảo, hội nghị về vấn đề nước trong chính quốc.
Để có thêm khái niệm về t́nh trạng nước trên thế giới, xin đan cử ra đây vài số liệu cần nên biết. Tổng sản lượng nước trên thế giới gồm: 97,5% nước biển (mặn) và chỉ 2,5% nước ngọt. Trong 2,5% nầy chỉ có 0,4% nước mặt gồm sông ng̣i, ao hồ và hơi nước trong không khí, 30,1% nước ngầm, và phần c̣n lại là những tảng băng trải rộng ở Bắc và Nam cực. Và sau cùng trong 0,4% nước mặt đó, có 67,4% nước ao hồ, 1,6% sông ng̣i, 12,2% nước đă thấm vào đất, 9,5% hơi nước trong không khí, và phần c̣n lại gồm các vùng đất ngập nước (wetland). (dữ kiện từ National Geographic 9/02).
Sự phân bổ nước trên thế giới hoàn toàn không đồng bộ do điều kiện địa lư từng vùng, do sự lạm dụng của những quốc gia kỹ nghệ, và sự “nhắm mắt làm ngơ” không giúp đở các quốc gia nghèo của các “nước lớn”. Theo ước tính, có 70% lượng nước trên thế giới được xử dụng cho nông nghiệp, 20% cho kỹ nghệ, và 10% cho sinh hoạt gia đ́nh. Hàng ngày, trong nhiều vùng ở Phi Châu, phần đông cư dân không có hơn một lít nước dùng cho sinh hoạt cá nhân; trong lúc đó ở Hoa kỳ, mức tiêu thụ nước cho mỗi người dân có thể lên đến 700 lít cho một ngày; và người dân Paris tiêu thụ 100L/ngày.
Thêm nữa, sự gia tăng dân số kéo theo nhu cầu cần phải phát triển nông nghiệp, do đó việc tận dụng nguồn nước, nhất là nước ngầm sẽ là một nguy cơ làm cạn kiệt nguồn nước trong tương lai. Trước mắt, các quốc gia đang phát triển phải trực diện với nạn gia tăng dân số v́ không có khả năng ngăn chặn mức sinh sản của người dân, các nước nầy sẽ là những nạn nhân đầu tiên của nạn khan hiếm nguồn nước.
Riêng tại Việt Nam, nguồn nước tương đối dồi dào. Tổng sản lượng nước mặt trung b́nh vào mùa mưa hàng năm là 800 tỷ m3, phần lớn do sông Hồng và sông Cửu Long cung cấp. Tuy nhiên, vào các tháng khô hạn, lượng nước chỉ c̣n lại khoăng 15 – 30% mà thôi. Về lượng nước ngầm, theo ước t́nh Việt Nam chứa khoăng 48 tỷ m3/năm và trung b́nh hàng năm, người dân xử dụng khăong 1 tỷ m3. Theo báo cáo của Chương tŕnh Môi trường LHQ, nhu cầu tưới tiêu trong năm 2000 ở Việt Nam hàng năm là 76,6 tỷ m3 chỉ đủ cung ứng cho 80% đất trồng trọt trên toàn quốc (9,7 triệu hecta). Do đó, nhiều nơi t́nh trạng thiếu nước cho nhu cầu nông nghiệp vẫn c̣n trầm trọng.
Diễn Đàn Thế Giới Về Nước năm 2003 tại Tokyo
Trong đại hội thế giới nầy, các nguy cơ về nước được đại diện của nhiều quốc gia cảnh báo về t́nh h́nh chung chẳng những không được sáng sủa mà ngày càng tệ thêm hơn so với năm trước. Theo ước tính hiện tại có khoăng 50% bờ biển trên thế giới đang bị ô nhiễm đe dọa và trong năm 2000 nước dùng cho nông nghiệp và sinh hoạt gia cư đă bị phí phạm 800 Km3 (1 Km3 = 1 triệu m3), trong lúc đó nước dùng trong kỹ nghệ phí phạm 400 Km3. C̣n về phẩm chất nước, TS Klan Toepfler, Giám đốc Chương tŕnh Môi trường LHQ (UNEP) phát biểu rằng “nguồn nước tốt ở Bắc Mỹ và Aâu Châu, nguồn nước xấu và thường có nạn thiếu nước xảy ra ở Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh và một vài vùng ở Á Châu”.
Thông cáo chung của Diễn Đàn đă có lời kêu gọi khẩn cấp cho thế giới là “Aûnh hưởng của nước được xem như là một nguy cơ cấp bách nhất đe dọa nhân loại” và quyết định chọn lựa chủ đề cho Diễn đàn Thế giới về Nước kỳ 4 năm 2006 ở Mexico City là đặt trọng tâm vào việc cung cấp nước sạch và xử lư nước sinh hoạt ở các quốc gia nghèo trên thế giới đặc biệt cho vùng Châu Mỹ La Tinh, cũng như đặt vị trí của nước như là một vấn đề an ninh quốc gia.
Ngày Thế Giới Về Nước năm 2004
Năm nay, Ngày nầy có chủ đề là”Nước và Tai Ương” (Water and Disasters). Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tổ chức ngày nầy qua một hay nhiều hội nghị vùng cho vấn đề trên. Các nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến nước được nhiều quốc gia ghi nhận như sau: thời tiết khắc nghiệt và tai ương thiên nhiên thường xuyên như: lũ lụt, hạn hán, giông tố, sấm sét .. . làm cho nhân loại phải chịu thiệt hại nhiều về kinh tế và nhân mạng.
Tuy nhiên, vẫn c̣n nhiều tai ương không do thiên nhiên đă xảy ra hàng ngày ở các quốc gia đang phát triển, và những điều nầy không đánh động được sự chú tâm của các quôc gia trên thế giới. Đó là, có 1,1 tỷ ngưới không có điều kiện dùng nước uống an toàn, trên 2,4 tỷ không có điều kiện xử dụng các nhà phóng uế hợp vệ sinh. Có trên 2 triệu trẻ em dưới 5 tuổi ở các quốc gia đang phát triển chết hàng năm v́ những bịnh liên quan đến nước và điều kiên phóng uế. Điều sau nầy tương đương với 20 tai nạn máy bay thương măi hàng ngày. Cũng cần phải kễ thêm hàng trăm triệu con người bị nhiễm bịnh do điều kiện sống không hội đủ hai điều căn bản trên như: 6 triệu người bị mù v́ tắm nước dơ bẩn, không hợp vệ sinh.
Nhưng dù sao, cũng c̣n một vài hiện tượng tích cực ở một số quốc gia đang phát triển là lănh đạo ở những nơi nầy đă quan tâm đến việc quản lư và cung cấp nguồn nước sạch cho dân chúng, đồng thời với việc giáo dục và vệ sinh pḥng dịch đặc biệt ở nông thôn và những vùng xa thành phố.
Định nghĩa và Tiêu chuẩn nước sạch
Nước là một nhu cầu không thể thiếu của con người. Trung b́nh nước chiếm độ 75% trọng lượng của cả cơ thể. Nói về nước “sạch”, theo định nghĩa, nước sạch là nước chỉ chấp nhận sự hiện diện của các hợp chất hữu cơ, kim loại và các ions ḥa tan với một vi lượng rất nhỏ tuỳ theo độc chất của các chất kễ trên. Và định mức nầy đă được LHQ cũng như các quốc gia trên thế giới chấp nhận tùy theo điều kiện phát triển của từng quốc gia. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn cho nước uống ở các nơi cũng gần giống nhau. Căn cứ theo Code of Federal Regulations thuộc EPA Hoa kỳ, các tiêu chuẩn cần có cho nước uống gồm:
• Ions: nồng độ của Fluor trong nước không được quá 2mg/L; Chlor, 250 mg/L; Sulfate, 250 mg/L; Nitrate, 45 mg/L….. .
• Kim loại: Aluminum, 0,2 mg/L; Antimony, 0,006 mg/L; Arsenic, 0,010 mg/L; Chromium, 0,050 mg/L; Thủy ngân, 0,002 mg/L; Nickel, 0,100 mg/L; Selenium, 0,050 mg/L; Đồng, 1,0 mg/L; Sắt, 0.3 mg/L; Manganese 0,050 mg/L; Bạc, 0,100 mg/L; Kẽm, 5.0 mg/L.
• Ng̣ai ra, tiêu chuẩn c̣n có ghi thêm trên 100 hợp chầt hữu cơ với hàm lượng cho phép hiện diện trong nước rất thấp tính từ phần tỷ đền phần ức (ppb và ppt).
• Về các yếu tố vật lư th́ độ dẫn điện (specific conductance) không được vượt quá 900 microhmos. Lượng chất rắn ḥa tan (TDS) cũng không được quá 550 mg/L.
• Cũng cần phải kễ thêm tiêu chuẩn vi sinh, tức mức E-coli và tổng lượng Coliforms không quá 23 MPN/100mL (most probable number-MPN).
Nói chung, nước được gọi là sạch và hợp vệ sinh khi đạt được các tiêu chuẩn yêu cầu trên và có độ pH trong khoảng từ 6,5 đến 7,5 (pH trung ḥa trong nước là 7,0). Các tiêu chuẩn kễ sau đây tuy không nằm trong định mức của tiêu chuẩn quy định cho nước sạch, nhưng là những chỉ dấu đầu tiên để xét nghiệm phẩm chất của nước. Đó là Độ oxy ḥa tan (DO), và Nhu cầu oxy (COD); chỉ số sau cùng nầy để ước tính mức độ hợp chất hữu cơ ḥa tan trong nước.
Báo Cáo của Ban Chỉ Đạo Quốc Gia
Trong Ngày Quốc Tế về Nước kỳ 3 năm 2003, Việt Nam qua Ban Chỉ Đạo Quốc Gia (BCĐQG) đă công bố một báo cáo tương đối đầy đũ, trong đó t́nh trạng về việc cung cấp nguồn nước sạch cũng như vệ sinh môi trường được diễn đạt bằng những số thống kê cùng một số dự phóng tương lai cho hai vấn nạn trên.
Nh́n chung, theo báo cáo, th́ nguồn nước ở Việt Nam đang bị ô nhiễm. Trên cả nước, chỉ có 40% dân chúng sống ở nông thôn xử dụng nguồn nước sạch. Ngoài ra cần phải kễ: 1) hàng ngày có 19.315 tấn chất thải đi thẳng vào nguồn nước, trong đó có 10.162 tấn chất thải công nghiệp, 211 tấn chất thải bịnh viện, và 8.941 tấn chất thải gia cư. Riêng tại Hà Nội có trên 20 bịnh viện thải hồi 11 tấn và hàng trăm m3 nước thải chứa vi khuẩn và hoạt chất độc hại; 2) Cả nước có 13 triệu người không có cầu tiêu tiểu, và 30 triệu không có điều kiện vệ sinh phóng uế; 3) 100% trẻ em miền Bắc từ 4 đến 14 tuổi bị sán lải, từ 50 đến 80% có sên, sán trong gan , ruột.. .; 4) Các hoạt chất độc hại như thuốc băo vệ thực vật, hóa chất phế thải của bịnh viện và các viện bào chế… tạo ra ung thư, quái thai.
Từ những vấn nạn vừa kễ trên, BCĐQG cũng đă công bố một dự phóng tương lai góp phần vào việc giải quyết hoặc cải thiện một số tồn đọng về những ảnh hưởng của môi trường lên đời sống dân chúng. Về nước sạch, ngân sách dự trù cho đến năm 2005 là 16.339 tỷ Đồng để tái tạo nguồn nước sạch và xử lư môi trường. Nếu tính trung b́nh cho 80 triệu dân, mỗi đầu người được chi là 279 Đồng/ngày. Trong nhân sách trên, 490 tỷ đă được trích ra để xây dựng nhà máy xử lư nước rỉ của băi rác Đông Thạnh (Hốc Môn), và nhà máy nầy đă được khánh thành vào tháng 6,2003, và chỉ vận hành được 6 ngày! Và từ đó đến nay, (tháng 4,2004) nước rỉ vẫn c̣n tồn đọng tại Đông Thạnh và một phần lớn nước rỉ đă tràn vào sông Rạch Tra, sau đó chảy ra sông Sài g̣n.
Trong lúc đo,ù chỉ tiêu của BCĐQG cho đến năm 2005 là toàn vùng nông thôn sẽ có được 80% nước sinh hoạt.
Đứng trước vấn nạn về nước thải kỹ nghệ, BCĐQG nhận định rằng, trên toàn quốc có tất cả 64 khu công nghiệp, tuy nhiên chỉ có khu chế xuất Tân Thuận và Sông Bé có vài nhà máy xử lư nhỏ. Tuyệt đại đa số c̣n lại đều không dự trù ngân sách cho công cuộc băo vệ môi trường nầy. Cũng theo dự tính, khu xử lư chất thải đầu tiên sẽ dự định xây dựng tại khu công nghiệp Biên Ḥa với ngân sách 1,88 triệu Mỹ kim trong đó dự trù xây dựng: - một nhà kho chứa chất thải rắn, - hai băi chôn lấp gồm 26.000 m2, - và một trạm quan trắc kiểm soát.
Kết luận
Nh́n chung, t́nh trạng nước và môi trường nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam không được sáng sủa. Do đó hàng năm, nhân Ngày Thế Giới Về Nước, LHQ luôn luôn cảnh giác tất cả các quốc gia nhất là những nước đang phát triển cần phải chú trọng hơn nữa việc mang lại nguồn nước sinh hoạt sạch cho người dân, cùng hệ thống vệ sinh phóng uế cũng như những phương hướng băo vệ sức khỏe bằng cách ǵn giũ vệ sinh cá nhân và ngăn ngừa ô nhiễm.
Riêng tại Việt Nam, v́ nhu cầu phát triển quốc gia cho nên một số biện pháp băo vệ môi trường cần thiết không được chú tâm đúng mức. Và chính t́nh trạng nầy ngày càng làm cho vấn đề môi sinh ở Việt Nam trở nên trầm trọng. Nếu không thực hiện việc thay đổi chính sách và quyết tâm băo vệ môi sinh ngay từ bây giờ, chắc chắn Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn về nhiều mặt của chính sách phát triển quốc gia trong một tương lai rất gần.
Mai Thanh Truyết
Calfornia 4,2004