ĐT. 714-541-9859, 714-423-0577                      THONG THIEN HOC

Google

Trang Chính

English

Việt Nam


Hoa Kỳ

Sinh Hoạt Cộng Đồng


Thế Giới
Diễn Đàn

Văn Học
B́nh Luận
Kinh Tế
Câu Chuyện ThờiSự
Chuyện Lạ 4Phương

Khoa Học

Sức Khỏe
Ẩm Thực

Nhân Vật

Người / Ngợm

Vui Cười


Biếm Thi

Linh Tinh

Rao Vặt

Nhạc Hoàng Vân

VNCH Foundation

Ca Dao Việt Nam

Thơ Hà Huyền Chi

Hà Phương Hoài

Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

OVERSEAS
FREE VIETNAMESE
COMMUNITIES

 

NGƯỜI RA BIỂN BẮC

30/04/1975 

30 năm rồi mà tưởng chừng như mới ngày hôm qua. Theo thông cáo của Uỷ ban Nhân dân thành phố HCM , tôi tŕnh diện đi học tập cải tạo vào ngày 01/06/75 , thời gian như thông báo đă phổ biến, lương thực đồ dùng đem theo trong một tháng, ai cũng tưởng lầm ḿnh đi một tháng rồi về, nhưng sau hơn một năm tập trung cải tạo tại trại Tân Hiệp Suối Máu Biên Hoà, sau đó cán bộ Công Sản giải thích, nhân dân bảo các anh đem lương thực một tháng chứ đâu bảo các anh cải tạo một tháng, nghĩa là sau một tháng lương thực các anh mang theo đa ăn hết, nhân dân tiếp tục nuôi các anh để các anh được cải tạo tiếp, chúng tôi mới biết, thời gian cải tạo không có hạn định, tốt th́ cho về, bây giờ mới thấm thía câu nói của ông Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu là chí lư: “Đừng nghe những ǵ Cộng Sản nói mà hăy nh́n những ǵ Cộng Sản làm ”.

Ngày ngày chúng tôi lao động, đào mương, đào giếng, làm nhà để ở, làm chuồng để nuôi heo, làm rẫy phát vồng trồng rau muống, tối tập họp học chính trị, làm kiểm điểm, lấy lời khai để xếp loại về tội ác của chúng tôi đối với nhân dân miền Nam Việt Nam. Thời gian như vậy cứ trôi qua trong lo âu, trong soï+. hải. Vào một buổi tối dưới ánh trăng rằm của đêm Trung thu 76, sau khi cơm chiều, nói là cơm chiều , nhưng mỗi người được phát cho một chén bob^ và một con cá khô kho mặn. Có lệnh tập họp toàn trại để điểm danh, lần tập họp nầy có điểm đặt biệt là tất cả phải đem theo hành lư cá nhân, chúng tôi nghĩ là có sự kiểm soát hành lư nhưng sau khi điểm danh xong, một Thượng uư VC tuyên bố đêm nay có biên chế, nghĩa là có sự chuyển trại, một danh sách được đọc, từng người một ôm hành lư đứng riêng dưới gốc cây , thành hai hàng dọc, tổng cọng 42 người, trong đó có tôi, ḷng ngổn ngang trăm mối không biết ḿnh sẽ bị đưa đi đâu. Có người tưởng được cho về, nh́n chung quanh thấy toàn những người có đầy nợ máu với nhân dân: t́nh báo, an ninh, tuyên uư, chiến tranh chính trị, đơn vị trưởng ...Tôi tự nghĩ ḿnh bắt đầu sống một cuộc sống khổ ải hơn. Chúng tôi sắp hàng hai, bốn bộ đội miền Bắc, người miền núi, giọng nói eo éo điếc cả tai, cầm súng trong tư thế nhả đạn dẫn chúng tôi đi về một căn nhà trong : ” Các anh im lặng, không được quan hệ , mỗi khi muốn di chuyển đi đâu phải xin phép, nếu tự ư rời khỏi láng, bắn chết tại chỗ. Chúng tôi ngồi im, mỗi người một suy nghĩ, miên man trong đầu, chúng đưa ḿnh đi đâu đêm nay, làm sao liên lạc được với gia đ́nh để cho biết ḿnh đă rời khỏi Biên Hoà. Ánh trăng chiếu dọi xuống chui qua hàng cây già, trải một màu vàng êm dịu, phi trường Biên Hoà rất rơ trong tầm mắt tôi, nơi đó chúng tôi được chia chỉ tiêu mỗi người vài thước vuông phi đạo , dùng đủ mọi dụng cụ tự sáng chế bằng các cọc sắt, mảnh vụn của thân máy bay, đào lớp nhựa đường lên, làm thành những luống đất trồng rau muống để cải thiện đời sống thêm một chút rau xanh trong mỗi buổi ăn kham khổ hàng ngày, với sức người sỏi đá cũng thành cơm. Nơi đây, hơn một năm qua chúng tôi đă đổ mồ hôi, đôi khi là máu v́ gặp phải những quả ḿn pḥng thủ chưa được tháo gỡ nổ tan xác là sự thường , chúng tôi đă biến một khoảng phi đạo dài thành một vườn rau muống xanh tươi. Đến nửa đêm, mỗi người được phát một túi lương khô và một bi đông nhựa đựng nước uống, hai chiếc xe vận tải Molotova bịt bùng nguỵ trang bằng sơn và lá cây rừng, chúng tôi bị trói hai người bằng cái c̣ng số 8, tất cả lên xe, cảnh vật im ĺm, chỉ nghe tiếng hối thúc la hét của các bộ đội, trong xe nóng như cái hầm lửa mặc dù ngoài trời đang mát dịu, cái màng phía sau xe kéo xuống, tôi không c̣n thấy được ǵ bên ngoài, xe bắt đầu chuyển bánh, phía ngoài toàn tiếng reo ḥ của bộ đội, giọng Bắc chua cay như xé ḷng chúng tôi:

” Mấy thằng Nguỵ nầy đem bắn bỏ, nuôi chúng nó làm ǵ cho phí com”+. Xe di chuyển một khoảng thời gian dài, tôi không thể đoán được chúng đưa đi đâu, thần kinh căn thẳng, thiếp đi lúc nào không biết, bỗng xe vấp phải một ổ gà và ngừng lại, tiếng chân bộ đội chạy qua lại, h́nh như đông lắm, giọng Bắc mà mỗi lần nghe tôi phải rùng ḿnh, lại reo len:”^ Đến rồi, đem bọn nó xuong”^'. Tiếng lên đạn của các khẩu AK như chừng sắp sửa bắn ai, mà bắn thật, vài tiếng súng nổ trong đêm khuya tĩnh mịch, chúng tôi nghĩ rằng chúng đem đi thủ tiêu, tiếng đọc kinh và cầu nguyện của vài người bạn tù làm cho tôi lạnh người, tử thần đang vờn chúng tôi như mèo vờn chuột, tôi nhắm mắt, trong bóng tối ghê rợn nầy có mở mắt cũng như đui mù, trước khi chết tôi nghĩ đến vợ con, gia đ́nh ba mẹ, các em đều di tản ngày 29, vợ con tôi không đi theo, ở lại chờ chồng, chờ cha, tôi v́ vợ con từ ngoài biển trở về, gia đ́nh được đoàn tụ 1 tháng để bây giờ phải vĩnh biệt hay sao ! Có tiếng khóc chung quanh tôi, ḷng tôi quặn đau như chưa từng đớn đau như thế, trong hoàn cảnh nầy ḿnh mới biết giờ hấp hối là ǵ, mới biết được cái suy nghĩ của một tử tội trước giờ hành quyết, h́nh ảnh vợ tôi, cô bé học tṛ Đồng Khánh dễ thương mà tôi ngẩn ngơ trồng cây si dài theo hàng phượng vỉ của mùa hè xứ Huế mộng mơ, người con gái đă một thời, hàng năm đóng vai Bà Trưng Nhị cùng chị là Trưng Trắc, em rực rỡ trên ḿnh voi, xe hoa diễn hành qua phố Lê Lợi, qua cầu Trường Tiền, dọc theo bờ sông Hương về Phú Văn Lâu êm đềm trong lễ kỷ niệm hai Bà. Mối t́nh đầu một chiều thơ dại, con đường Hùng Vương lặng lẽ tôi đi qua, đi qua một. ḿnh cho hết thời Trung học, tôi đă gởi lại cho mái trường Phan châu Trinh dấu yêu cất giữ giùm tôi mối t́nh đầu một chiều thơ dại đó. Vợ tôi, mối t́nh học tṛ thứ hai, cô nữ sinh Đệ Nhất ban C yêu chàng thuỷ thủ phiêu bồng, mối t́nh tôi dệt bằng thơ, bằng sóng biển, bằng tiếng hát học tṛ, bằng h́nh ảnh con tàu ra khơi, bằng những lá thư t́nh yêu dấu sưởi ấm tim tôi trong những phiên hải hành . Sông biển đưa tôi đi, không lẽ tuổi đời mới hơn 30 sông biển lại gọi tôi về, từ đáy ḷng, anh gọi tên em, tên các con theo ḍng nước mắt chảy ngược về tim . Người tù cùng khoá chung c̣ng số 8 với tôi là một dân biểu của Việt Nam Cọng Hoà, anh tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh, một thời làm phó Quận, sau về ứng cử dân biểu đơn vị Qui Nhơn, anh ngồi bất động từ lúc lên xe đến giờ, khi nghe tiếng súng nổ, anh chưởi bằng tiếng Pháp, sau đó anh chưởi bằng tiếng Anh, rồi đột nhiên anh chưởi bằng tiếng Việt, tôi vội lấy tay bụm miệng anh: “Anh phải coi chừng, chúng nó nghe được, ghép vào tội phản cách mạng th́ anh đừng ḥng gặp lại vợ con”. Anh nói: ”Bố nó , bây giờ cũng sắp chết rồi ”. Đang lo âu tôi bỗng bật cười : ”Sắp sửa chết chứ chưa chết, vẫn c̣n hy vọng mà ”. Anh yên lặng, h́nh như tôi đă truyền được một chút hy vọng vào anh, trong giờ phút nầy dù một chút hy vọng mong manh để thay đổi vẫn c̣n đáng sống. Chúng tôi sống trong cái tức tưởi của chiến tranh, cái phi lư của bom đạn, cái đầu hàng nhục nhă ê chề, tôi muốn sống không phải để đội đá vá trời, muốn sống để sau nầy nh́n và hiểu được, tại sao và tại sao thế nầy, với một đoàn quân hùng mạnh như thế đó, với tinh thần chiến đấu dũng cảm mà bao nhiêu chiến trận đă ghi công, trong tay tôi khẩu súng vẫn c̣n gh́ chặt, ḷng tôi tràn đầy nhựa sống, trí óc tôi sáng như trăng rằm, tim tôi vẫn in đậm lá cờ Tổ Quốc màu vàng ba sọc đỏ thân yeuTâi. sao tôi phải ở trong t́nh trạng như thế nầy? Tại sao? Tại sao?

Tôi để hồn ḿnh phiêu du vào một chân trời xa thẳm, nơi đó không có chiến tranh, không có hận thù, không có những bất công của xă hội, không có người hành hạ người, tôi chợt thấy thanh thản trong cái chết, vẫn c̣n hướng về tương lai đầy t́nh người, t́nh nhân loại.

Ngày tôi vào Hải Quân, mẹ tôi buồn lắm, nhưng không ngăn được ḷng yêu giang hồ phiêu bạt của tôi, mẹ cho tôi một lá bùa, xin của một vị sư nào đó, mẹ nói mạng con mạng thuỷ mà con đi lính thuỷ th́ thế nào con cũng bị nguy hiểm v́ nước, con cất kỹ bùa nầy để lấy cái linh thiêng mà ǵn giữ mạng sống, tôi không tin nhưng vẫn nhận để mẹ yên ḷng. Mẹ ơi! Không lẽ lời vị sư nào đó nói đúng, con không chết v́ nước sông, nước biển mà chết v́ nước Việt của con, của mẹ và của mọi người. Tôi lần tay vào cổ cầm chắc lá bùa tôi thường đeo cho mẹ vui, tôi phải sống, niềm tin và hy vọng tràn ngập trong tôi, tôi phải thắng Thiên Mệnh, c̣n bao nhiêu việc phải làm, bao nhiêu mộng ước chưa thành, c̣n t́nh nghĩa với vợ tôi, c̣n trách nhiệm và bổn phận với con tôi, tuổi đời ba mươi tôi chưa muốn chấm dứt tại đayTội. buột miệng gọi mẹ như thời c̣n bé dại.

H́nh như có sự thay đổi ǵ, đột nhiên các bộ đội nhảy lên xe và xe lại chuyển bánh, không biết lại chở ḿnh đi đâu nữa đây,

Trời bắt đầu sáng, những tia sáng chiếu rọi vào những khe hở, sau một đêm dài bị tra tấn vào trí năo, những khuôn mặt tiều tuỵ bơ phờ hiện rơ dần trong thùng xe, mặc kệ chúng nó, chúng muốn ǵ th́ muốn, tôi bắt đầu thấy đói, uống một ngụm nước trong bi đông mang theo, ḍng nước lạnh mát trôi dần vô cổ họng đang khô v́ thần kinh căn thẳng, ăn một mẫu lương khô, loại lương khô của Trung Cọng, bộ đội dùng để băng rừng băng núi vượt tuyến vào Nam, chỉ cần 200 gr lương khô là có thể no 24 giờ. Đến giữa trưa xe dừng lại một khu rừng, chúng tôi được xuống để làm vệ sinh cá nhân, tôi thầm đếm, hai xe c̣n đủ 42 người, vậy lúc tối chúng bắn doạ thôi, làm cho tinh thần tù nhân khủng hoảng trước khi đưa đến trại khác, tôi nghĩ vậy, chúng dẫn tất cả đến một cái hầm cho chúng tôi làm vệ sinh cá nhân tập thể, hơn 10 tên bộ đội vây quanh, cầm súng chĩa vào chúng tôi trong tư thế nhả đạn, giọng Bắc của tên cầm đầu lại eo éo nổi lên nghe như tiếng cô hồn từ địa ngục vọng về: ”Các anh khẩn trương giải phóng chỉ được 10 phút nhé, nên xe biên chế tiếp ". Một người tù tiếu lâm dịch nguyên câu nói sang tiếng Việt ... Các anh làm vệ sinh nhanh lên, chỉ được 10 phút thôi, phải lên xe đi tiếp. Tôi nh́n quanh khu rừng, định vị trí ḿnh đang ở đâu nhưng đành chịu, những hàng cây cổ thụ cao tít che khuất ánh mặt trời. Bây giờ chúng tôi đă hết sợ, nghĩ rằng chúng doạ thôi, chưa thủ tiêu ḿnh, trong cái thùng xe bít bùng nầy, khí hậu thay thay đổi đột ngột, sáng sớm lạnh v́ hơi khí của rừng già, chừ lại nóng bức như một buổi trưa mùa hè Sài G̣n. Màng đêm bắt đầu buông xuống, chúng tôi đă vào thành phố, nghe được tiếng kèn inh ỏi của xe cộ qua lại, tiếng nói cười của khách đi đường, chúng tôi yên tâm, thở phào nhẹ nhỏm. Xe ngừng, cánh màn cửa được vén lên, chúng tôi từng cặp một xuống xe sắp hai hàng dọc, bến cảng Sài G̣n- bến Bạch Đằng của tôi, vài con tàu không đi được, c̣n nằm lại dọc theo bờ sông, xa xa Hải quân công xưởng ch́m trong ánh điện mờ, nơi đây ngày trước mỗi chuyến tuần dương, tôi đưa con tàu đi có vợ con đưa đón, xong công tác tôi đưa con tàu về, vợ con đón đợi, trong nụ cười, trong ṿng tay thân yêu Tối nay, cũng bến cảng tàu nầy, cũng ḍng sông nầy, và con tàu ngày trước c̣n đây nhưng đă đổi màu cờ, tay trong tay với người bạn tù đồng hành, cảnh vật im ĺm lạnh ngắt , cô đơn trong nỗi buồn vô tận. Từ Biên Hoà về Sài G̣n, một đêm một ngày xe chạy quanh co , hù doạ, trấn áp tinh thần chúng tôi, ai nấy đều bơ phờ bạc nhược, bỗng hai bóng người tù trong chúng tôi chạy ù ra sông, nhảy xuống nước với tiếng hú thảm thiết, hai thân người bị kẹp giữa thân tàu và thành cầu, máu đỏ loang cả một khoảng sông đen ng̣m, hai người bạn tù đả tự tử, không biết cả hai đồng ư cùng chết hay là một người muốn chết kéo một người không muốn chết đi theo trong cái c̣ng số 8, chúng tôi nghẹn ngào trong uất hận. Tôi thẫn thờ, qua ánh đèn mờ nh́n hai cái xác trôi trong vũng máu, vẻ mặt lạnh như tiền của những tên bộ đội, giữa người và vật, giờ phút nầy con vật c̣n hơn chúng tôi xa, hai anh bạn tù, hai chiến hữu của tôi, dù chưa biết tên anh, ḷng tôi chua xót, thân phận của người chiến sĩ bại trận, các anh không chịu nổi cảnh nhục nhă nầy, các anh ra đi trong cái bất khuất của người lính VIỆT NAM CỌNG HOÀ, Tổ Quốc sẽ ghi tên anh, lịch sử sẽ viết tên anh bằng chữ HOA để tô thắm cho gịng máu anh hùng của dân tộc Việt. Tôi tự thẹn với ḷng, không đủ can đảm để theo gót chân anh, kính cẩn nghiêng ḿnh chào vĩnh biệt hai anh, hai anh sống khôn thác thiêng, mau về với vợ con, với gia đ́nh đang chờ đợi anh, mối hận nầy xin để lại cho chúng tôi gánh vác, anh b́nh yên về đi, đừng quanh quẩn đâu đây nữa- Vĩnh biệt Anh. Ngậm ngùi nh́n hai xác anh vẫn bềnh bồng bên cạnh thân tàu, tôi cuối đầu nhắm mắt để ghi lại một h́nh ảnh đau thương vào tận cùng trái tim chai đá của ḿnh.

Tout passe!

Tout casse!

Tout lasse!

Sauf le souvenir est vivace.

Tất cả rồi cũng phôi phai, tất cả rồi cũng tan vỡ. Tất cả rồi cũng chán chường, chỉ có kỷ niệm là vĩnh cửu- với tôi chỉ có kỷ niệm là nỗi nhớ trong ḷng, dù là kỷ niệm đau thương, hồi tưởng những kỷ niệm nầy để để t́m lại một khoảng đời rất ngắn trong 7 năm tù dài, người ra biển Bắc là một cuộc hội ngộ giữa tôi và con tàu, với biển trời mênh mông ngày trước đầy mơ ước của tuổi đang trưởng thành, biển bây giờ thu hẹp, nhỏ bé của một khoang tàu, của tấm thân nhục nhă, ê chề, uất hận, Con tàu ngày xưa đưa tôi đi để ǵn giữ vùng biển của miền Nam thân yêu, bây giờ cũng con tàu nầy, nằm lầm lỳ trong một cầu tàu của Hải quân công xưởng, nay đổi tên là Xưởng Sửa tàu TP. Hồ chí Minh sẽ đưa tôi ra biển Bắc để đi vào chốn tù đày của một người lính bại trận. Chúng tôi lần lượt hai người một vẫn trong cái c̣ng số 8 được đưa xuống một chiến hạm của Hải Quân VNCH để lại vào giờ phút chót, chiến hạm mang tên là Hộ Tống Hạm HÀ HỒI số 13, tên và số tàu vẫn không thay đổi, chỉ có lá cờ trên đài chỉ huy là đổi thay. Tôi rùng ḿnh khi nh́n lá cờ đỏ sao vàng bay phất phơ trong gió chợt thấy ḷng ḿnh quặn đau, một sớm một chiều mà đă thay đổi được một màu cờ của miền Nam , tôi vẫn c̣n đi trong mơ và không thể nghĩ đây là sự thật. Chúng tôi đi qua một hành lang để xuống một căn hầm trước mũi tàu, tôi thoáng nh́n thấy những nhân viên cũ mà chúng gọi là những Hải quân Nguỵ được giữ lại để truyền nghề cho các bộ đội của Hải quân Nhân dân, các hầm tàu chứa đầy gạo, th́ ra anh em miền Bắc giàu có, cái ǵ cũng hơn miền Nam từ cái TV, tủ lạnh đến cái đài, tốt, đẹp và nhiều vô số hơn miền Nam gấp bội nhưng chỉ có thiếu gạo mà thôi, nên anh em miền Bắc chuyển gạo từ Nam ra Bắc để nuôi nhân dân Xă Hội Chủ Nghĩa ưu việt, cái nôi của nhân loại và đỉnh cao của trí tuệ loài người. Cái hầm nhốt chúng tôi trên chiến hạm là một cái hầm để chứa sơn tu bổ tàu của ban Vận chuyển. Nằm trước mũi, cạnh một cái pḥng nhỏ nuôi 3 con heo, Xă Hội Chủ nghĩa, cái ǵ cũng quư, từ cọng rau muống đến chén bob^, lúc nào cũng lo cho nhân dân, nhất là giai cấp công nhân, do đó bất cứ ở đâu hay bất cứ chỗ nào cũng có thể làm nơi cải thiện cho đời sống, tôi nghe nói ở Sài G̣n bây giờ các nhà cao ốc, các cao tầng, cách mạng tiếp thu, vừa ở vừa trồng rau muống, nuôi heo gà, tôi không tin nhưng bây giờ chính mắt tôi thấy, con tàu đẹp đẻ ngày xưa, oai nghi ngày trước, sau một năm giải phóng trở nên loang lỗ, không được sơn phết, tất cả tiện nghi làm đẹp con tàu bị tháo gỡ, bây giờ lại thêm một chuồng heo, pḥng nhốt tù cạnh chuồng heo, người tù cải tạo và con heo, con người và con thú bây giờ ai quư hơn. Sau khi đă vào vị trí, mỗi người một khoảng nhỏ trên sân tàu để nghỉ ngơi, qua một đêm nhọc nhằn vất vả, tất cả được tháo c̣ng, tự do ôi tự do, hai tay bây giờ được thong thả, không dính liền với người khác, chỉ một chút tự do thôi nhưng sao thấy thoải mái lạ lùng, đang được hồi sinh lại th́ thấy đói, lại thêm một sự vui mừng nữa, hai thuỷ thủ nhà bếp khiêng vào để giữa pḥng một nồi cháo trắng c̣n nóng, hơi lên toả mùi thơm dịu của chất gạo, lâu rồi không được ăn gạo, chỉ toàn bob^ thôi, thấy thèm làm sao, mọi người được một tô cháo ăn với vài miếng dưa leo ướp muối, tôi nghĩ rằng tất cả cao lương mỹ vị trên đời nầy không bằng một góc nhỏ của bữa ăn hôm nay. Bên kia, 3 con heo ủn ỉn rống to đ̣i ăn, thế là nồi cháo c̣n bao nhiêu hai người thuỷ thủ nhân dân đổ cho 3 con heo háu ăn, tô cháo vội chạy vào bao tử chúng tôi như vào cơi hư không, mỗi người tiêu chuẩn chỉ một tô, nh́n 3 con heo ăn sồng sộc thấy cuộc đời bao nhiêu nỗi đắng cay.

Gió sông thổi vào bốn cửa tṛn hai bên thành hầm tàu, mát rượi ḷng của kẻ đi đày, tôi nằm dài thoải mái chờ đợi một chuyến hải hành, không biết đi về đâu, đến bến bờ nào, tôi chẳng cần nghỉ đến nữa, nhắm mắt mơ màng t́m một giấc ngủ, giữ ǵn sức khoẻ để chịu đựng những gian khổ sẽ đến, mọi người đều lặng im, cùng một tâm trạng, cùng một lo âu, bỗng nhiên nghe ai hát đâu đây bài hát quen thuộc ngày nào, anh bạn nằm bên cạnh nói nhỏ với tôi : ”Điếc không sợ súng, chắc có ai điên rồi, nguy hiểm quá, bọn chúng nghe được, hát nhạc vàng đồi truỵ, ghép vào tội phản cách mạng th́ chỉ co”'... Anh bỏ lửng và lắng nghe:

Nếu em không là người yêu của lính

Ai đem cành hoa rừng về tặng em

Ai băng gió sương cho em đợi chờ

Và những lúc đêm về, ai kể chuyện đời lính cho em nghe.

Hỡi ... hỡi ... người em gái Gia Long ơi!

Hỡi ... Ngươi. em mến thương tôi...

Tiếng hát của một anh bạn tù, anh c̣n trẻ như tôi, có lẽ anh khủng hoảng tinh thần nên không c̣n biết sợ là ǵ, tiếng trong và ấm lạ lùng, tiếng hát đủ cho mọi người nghe trong cái hầm bịt bùng nầy, tôi quên cả khổ đau, chợt thấy ḷng ḿnh man mát nhớ về những mộng đẹp của thuở xa xưa, nỗi lo lắng không c̣n nữa, tôi buột miệng hát theo nho nho:”Hởi người em gái Đồng Khánh ơi ! ” Người em gái Đồng Khánh, người vợ yêu dấu của tôi không hợp trong câu hát nầy v́ tên em vần trắc. Tôi mơ màng hát lại:

Hỡi ... hỡi ...Người. em gái Phan châu Trinh ơi!

Hỡi ... người em gái tôi thương...

Người em gái Phan châu Trinh, mối t́nh đầu, t́nh vẩn vơ học tṛ của tôi. Người em gái Đồng Khánh, mối t́nh họ tṛ thứ hai, mối t́nh cuối, hai mối t́nh đẹp như một bài thơ đă đưa tôi về kỷ niệm, trong giờ phút nầy, giờ phút chờ con tàu chuyển ḿnh âm thầm lưu đày tôi ra biển Bắc. Một hồi c̣i vận chuyển đánh thức tôi dậy, sau vài giờ mê mang v́ mệt mỏi, nh́n qua các cửa tṛn, tia nắng sớm rọi vào căn hầm u tối, phía ngoài trời đă rạng đông, con tàu vào nhiệm sở vận chuyển, tiếng máy chánh hoà với tiếng sóng dội đập vào thành tàu nghe ŕ rào tạo thành bản nhạc của trùng dương, tôi tưởng tượng ḿnh đang đưa con tàu trên ḍng sông Sài G̣n, con tàu từ từ đi, oai nghiêm, hùng vỉ lướt qua cầu tàu trước Bộ Tư Lệnh Hải Quân, thuỷ thủ đoàn trong bộ quân phục tiểu lễ HQ dàn chào , trắng tinh màu sóng biển, chúng tôi nghiêm chỉnh chào Quốc kỳ và cờ Tư Lệnh HQ , để giă biệt Sài G̣n vào đại dương mênh mông. Ngang qua bến Thủ Thiêm, tàu tiến ra biển dọc theo sông Ḷng Tảo, vượt qua Nhà Bè từ từ ra cửa Tiểu, biển miên man xanh một màu trải rộng trong tầm mắt, ánh nắng đầu ngày ấm ḷng kẻ ra khơi, tôi đang mơ nh́n ngọn núi Vũng Tàu, chợt tỉnh mộng... cảm thấy buồn tênh, giấc mơ cho tôi sống lại một khoảng thời gian, một khoảng đời ngang dọc biển Đông, tôi đâu có thể ngờ lại có những giờ phút đau thương nầy, vài con chuột to như bắp tay từ các hầm chứa gạo đuổi nhau kêu chí choé kéo tôi về với thực tại đen tối nầy, mọi người cũng im lặng, ngơ ngẩn nh́n nhau như thầm hỏi, ngày mai ngày. mai ...sẽ ra sao? Tàu h́nh như đă ra khỏi cửa Tiểu, con tàu trường ḿnh lắc lư nhẹ nhàng như chiếc vỏng đong đưa, chỉ có một chút vậy thôi mà phần lớn các bạn tù bắt đầu chảy mồ hôi trán, mặt trắng xanh , những ngày ăn uống kham khổ, lao động chân tay nặng nhọc, thân h́nh ốm teo nên sức chịu đựng không c̣n nữa, vài người đă nôn mửa, nôn mửa là bệnh hay lây, thấy một người nôn mửa trong lúc say sóng, cái vị chua, cái mùi nồng tanh, cọng thêm với mùi con tàu không thể nào không nôn mửa theo được, từ chiều hôm qua đến giờ chỉ có tô cháo, đâu c̣n ǵ trong bụng để oẹ ra, miệng nôn ra những nươc vàng làm hôi hám cả hầm tàu, không ai c̣n nghĩ bây giờ tàu chở ḿnh đi đâu, tất cả nằm im bất động, co ro như những xác không hồn, con tàu đă đi xa bờ, xa lắm roiHậm. nhốt chúng tôi, ngày trước là một kho sơn nằm ngay trước mũi tàu, khi tàu chạy, mũi tàu là nơi bị lắc nhiều nhất, tội cho những ai dễ bị say sóng, nằm ở hầm nầy th́ xem như là đi vào địa ngục. Mỗi lần biển động, sóng càng lớn tôi càng thấy đói, khó chịu không phải v́ sóng mà v́ đói, ước ǵ bây giờ có một chút ǵ ăn cho cái bao tử bớt cồn cào, Những tiếng rên của những bạn tù giống tiếng rên của những người bệnh nặng, có nhiều người không dậy nỗi để đi làm vệ sinh cá nhân, hầm tàu có một mùi hôi hỗn hợp, khó chịu làm ḿnh ngất ngư. Thức ăn hôm nay vẫn thùng cháo và cá khô, tôi khuyên mọi người hăy cố gắng ăn, dù biết ăn vào sẽ bị nôn oẹ ra nhưng phải ăn để khỏi hại bao tử sau nầy, trong t́nh trạng nửa tỉnh nửa mê như vậy, hơn chín ngày đêm vượt sóng với vận tốc ước chừng hơn 15 hải lư 1 giờ , có thể qua Phan Thiết để hướng vào Cam Ranh, Nha Trang . Con. tàu bớt lắc lư, mọi người cảm thấy dễ chịu, có thể ăn được một chút cháo, sóng đă nhỏ dần, tôi đoán chừng con tàu ghé một bến nào đó, hai mươi ngày lênh đênh, bầu trời thu hẹp qua cửa thông hơi, nhỏ quá tôi không thể định được vị trí, ước chừng, ước chừng vậy thôi, chúng tôi ở trong vùng biển Đà Nẳng. Tàu cập bến, đám tù hồi sinh, thức ăn hôm nay được cơm trắng, cũng chỉ một tô thôi, thịnh soạn hơn, thêm một miếng thịt heo mỡ nhỏ xíu bằng ngón tay và vài muổng nước béo, bây giờ đă hết say sóng, thân h́nh được cân bằng, không đong đưa, ăn uống ngon lành, từ một góc nào đó, giọng hát yếu ớt của anh chàng ca sĩ bất đắc dĩ lại vang lên đem đến nụ cười tuy héo hon hơn nhưng cũng đủ ấm ḷng người một kiếp lưu đày.

“Ra khơi, biết mặt Trùng Dương, biết trời mênh mông, biết trời viễn vông, biết ta Hăi Hùng. Ra khơi, thấy t́nh thế giới, thấy mộng ngày mai, thấy niềm tin moi”+'. Ra khơi, ra khơi trong cái hầm tối tăm đầy mùi ô uế nầy, nào có thấy ǵ Trùng Dương bao la, vẫn biết là sóng cứ miên man vỗ, biển cứ miên man xanh nhưng đời vẫn cứ khổ, vẫn chưa qua được một giấc mộng Hải Hùng ”. T́nh thế giới, mộng ngày mai, niềm tin mới , tôi chỉ mong sống cho qua một kiếp người, nặng nợ với vợ con, với gia đ́nh, cầu mong một đấng linh thiêng nào đó cho tôi giữ vững được niềm tin để tôi làm tṛn bổn phận, chỉ xin một niềm tin nhỏ nhoi đó trong cái t́nh người của NHÂN LOẠI. Sung sướng thay, chúng tôi được một ân huệ trước khi tiếp tục chuyến viễn du. Tất cả mọi người được giặt giũ, tắm rửa trong một căn pḥng bịt bùng vừa đủ 10 người đứng, một ṿi nước chảy liên tục, chúng tôi tắm tập thể, giặt giũ áo quần và làm vệ sinh cái hầm giam, tôi cảm thấy thoải mái dễ chịu một phần nào, tuy hoàn toàn không biết ǵ bên ngoài, ḿnh đang ở bến cảng nào, thôi mặc kệ, tận hưởng giờ phút Thiên Đường nầy để lấy lại tinh thần mà tiếp tục sống, tiếp tục trả nợ MÁU cho Nhân Dân Xă Hội Chủ Nghĩa Anh hùng .

Ngày N+ 20, tức là sau ngày rời bến cảng Sài G̣n, được cán bộ cho biết chúng tôi đang nghĩ tại Đà Nẳng, đúng như dự đoán, có lẽ bây giờ đang cập tại cầu Toà Thị Chính Đà Nẳng cũ, chúng tôi chia thành 4 tổ, mỗi tổ 10 người để học tập chính trị, hầm tàu được chia làm 4 góc cho 4 tổ sinh hoạt, anh Dân biểu và anh chàng hay hát nhạc vàng cùng trong tổ với tôi, anh tên là Phạm văn Chính, Sĩ quan tốt nghiệp trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, ra trường năm 1965, làm việc trong ngành t́nh báo của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH., hai chúng tôi cùng tuổi, là hai tên trẻ nhất trong đám tù, thế là chúng tôi thành đôi bạn, mỗi đêm anh thường hát nho nhỏ cho tôi nghe, giọng anh ấm trầm ru nhẹ hồn tôi vào những giấc mơ đẹp, mỗi bài hát đưa tôi vào một khoảng không gian va thời gian của từng kỷ niệm mà cứ tưởng ḿnh đang sống vào ngày tháng đó.

Tôi đang ở Đà Nẳng nhưng không được nh́n thành phố thân thương của tôi, nơi tôi lớn lên trong sự thương yêu đùm bọc của mẹ cha, vui buồn theo từng mùa phượng vỷ nở hoa, tiếng ve sầu rên rỉ vào những mùa thi, mùa chia tay tạm biệt để vào hè, mùa của những trang lưu bút ngày xanh, con gái cũng như con trai lúc nào củng mở đầu bằng ḍng chữ thật đẹp và thật dễ thương trên trang lưu bút thơm giấy học tṛ: Hè đă đến, phượng đỏ nỡ đầy sân trường, tiếng ve sầu báo hiệu một mùa chia tay, biết nói ǵ đây, xin gởi về bạn niềm lưu luyến: TUỔI HỌC TR̉:

“Hôm nay đây ḿnh vui trông thấy nhau. Bên tiếng ca tiếng đàn vượt trời cao”. Anh Chính hát bài Tạm Biệt của Lam Phương cho tôi sống lại một thời của trường lớp, của bảng đen, của thầy cô, những ngày đi cắm trại ở băi biển Mỹ Khê với cô Diệm, những đêm văn nghệ cuối năm do trường tổ chức, hồi đó Ngô nguyên Phúc, bạn cùng lớp Đệ Nhị với tôi, anh hát bản Đường Lên Núi Rừng làm rung động trái tim cô học tṛ nhỏ lớp Đệ Tứ, sau nầy có dịp tôi gặp lại anh chị, tôi cười đùa: “Đường Lên Núi Rừng sao hăi hùng, ôi gió lộng, muôn tiếng động , trong tiếng nhạc làm vấn vương cô Nường. Anh hát cho chị nghe Đường Lên Núi Rừng rồi từ đó đi trên con đường nầy để vào t́nh yêu lứa đôi . Rồi những ngày kỷ niệm Quốc Khánh, suy tôn Tổng Thống Ngô đ́nh Diệm, xe hoa rước đèn đi khắp thành phố, năm nào xe hoa của trường Trung Học Công Lập Phan Châu Trinh cũng được chấm ưu hạng. Nhớ thầy Trần đ́nh Hoàn, anh ruột bạn cùng lớp với tôi ... Trần đ́nh Dinh, hai tay đánh nhịp cho học tṛ hát mà như múa vơ Sơn Đông: “Đường ta đi vui thênh thang hoa lá reo cười, một niềm tin ta dâng lên 26 tháng 10, ngày toàn dân chào đón hiến pháp, hưởng tự do trong nền Cọng Hoà, ngày toàn dân được no ấm Tự Do . Ta là người dân Việt, đây gịng người anh dũng , ta nhớ ngày hôm nay, no ấm là từ đày... Bỏ ra ngoài vấn đề chính trị, đừng có phê phán, hăy để hồn ta đi vào những năm tháng dân miền Nam sống trong thanh b́nh, hạnh phúc, ấm no. Một trời thương nhớ đầy kỷ niệm trở về trong tôi như là cái phao cho người sắp chết đuối, đă giúp cho tôi nghị lực để tranh đấu với cuộc đời hẩm hiu trong một kiếp lưu đầy.

Thời gian được nghỉ bến, chúng tôi cũng phải học chính trị, những bài học củ rích từ trại giam Biên Hoà, các cán bộ quản giáo nhè nhè nói dốc mỗi buổi sáng: Lao động là vinh quang, Đế quốc Mỹ là kẻ thù số 1. Chế độ Xă Hội Chủ nghĩa ưu việt, là đỉnh cao của trí tuệ loài người. Nghe riết đâm ra chán ngấy và buồn cười, mỗi đêm phải họp tổ để kiểm điểm và làm tự khai, tờ tự khai không biết làm mấy chục lần, chúng chờ ḿnh khai không đúng với tờ tự khai trước một chút, từ đó nó cho là nói dối, tiếp tục điều tra, hỏi cung và phân loại để đối xử.

Ngày N+ 25, con tàu rời bến, xa dần Đà Nẳng thân yêu. Tàu ra cửa biển Sơn Trà nơi Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải đồn trú, ngày đầu nhập ngũ tôi vào đây, ḷng ham mê trời biển bao la, giang hồ khắp mọi nơi, mọi miền, phiêu lưu như con dế mèn thuở nhỏ của Tô Hoài, tấm ḷng trong trắng, sáng ngời mộng ước của tuổi 20, hành trang là mối t́nh bâng quơ của tuổi học tṛ, là những bước chân âm thầm mỗi buổi chiều tan học, lặng lẽ theo em về, con đường Hùng Vương dài hun hút sao mà gần lạ, người em với chiếc áo đầm trắng khuất sau hai cánh cửa sắt của một toà nhà để lại ḿnh tôi ngẩn ngơ trong nắng chiều vàng nhạt- Phan châu Trinh. Hành trang là bóng h́nh người yêu, em nữ sinh Đồng Khánh xứ Huế mộng mơ vẫn đợi mong tôi về nguyên suốt một đời cùng nhau chia xẻ những buồn vui... Anh xin lỗi em, để em một ḿnh cô đơn với các con thơ dại khờ giữa cuộc đời muôn vàng đắng cay trong một xă hội hoàn toàn xa lạ đầy hận thù, tù tội, chết chóc... nếu không may anh có chết, hồn anh sẽ về quấn quít bên em và các con để che chở, vỗ về trong những ngày tháng tới. Con tàu lầm lủi đi, tàu ra cửa biển Thuận An, tàu lướt qua cửa Việt, tàu vượt vĩ tuyến 17, tàu ra biển Bắc mang theo những thân xác ră rời, những mănh hồn tan nát, chiến tranh và hoà b́nh trong một nước Cọng Sản như Việt Nam nước tôi đều triền miên trong đau khổ, cầu mong đây chỉ là một thời suy mạt của vận mệnh đất nước giống như những thời suy mạt trải dài trong lịch sử Việt Nam. Tổ tiên ta đă bao lần đập tan những chế độ độc tài khát máu để đưa đất nước đến phú cường thịnh vượng, hồn thiêng sông núi, những bậc tiền nhân anh hùng đă gầy dựng từng tấc đất cho Việt Nam mến yêu sẽ hun đúc cho những thế hệ mai sau xây dựng lại cơ đồ, lịch sử sẽ không tha tội cho đám con cháu Cọng Sản phản bội Tổ Quốc, trong tôi vẫn luôn luôn có một niềm tin vào tương lai, một nước Việt Nam Độc Lập, Tự Do và Thịnh Vượng. Qua cửa sổ tṛn, tôi thấy bầu trời đă tím ngắt, sóng càng lúc càng nhiều, con tàu càng lắc lư âm thầm để đưa : NGƯỜI RA BIỂN BẮC.

PARIS , tháng 4- 2005

Tôn Thất Phú Sĩ

PCT/ĐN 54-61 


Xin vui ḷng liên lạc với  thuanthido@adelphia.net   về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương
Copyright © 2004 Anh Duong Online
Last modified: 03/23/07