Pháp
lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo của
CS Việt Nam
Luật
sư TRẦN THANH HIỆP
Jul 15, 2004
Lới Giới
Thiệu: Hôm 18-6 vừa qua tại Hà Nội, Uỷ ban Thường
vụ của Quốc hội CSVN đă thông qua một
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo gồm 6 chương,
41 điều, sẽ có hiệu lực từ ngày
15-11-2004, tức là hơn 4 tháng nữa. Để dư
luận có yếu tố nhận định về Pháp lệnh
nói trên, Đài Á Châu Tự Do đă liên lạc và phỏng
vấn Luật sư Trần Thanh Hiệp, nguyên luật sư
các Toà Thượng Thẩm Saigon và Paris. Cuộc phỏng
vấn do Việt-Long thực hiện.
Hỏi: Luật
sư có thể cho biết sơ qua về Pháp lệnh
ngày 18-6-2004 về tín nguỡng, tôn giáo ở Việt Nam?
Đáp: Đó
là một văn bản pháp lư có hiệu lực tương
tự như hiệu lực của một đạo luật
nhằm qui định cách hành sử quyền tự do
tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam. Nó có mấy
đặc điểm. Thật vậy, một mặt nó
nhắc lại sự công nhân chính thức quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo đă ghi trong Hiến pháp, nhưng
đồng thời mặt khác lại dùng luật, một
văn bản đưới Hiến pháp, để hạn
chế không phải chỉ ở mức tối thiểu
quyền tự do này nếu không muốn nói là đă thủ
tiêu hết. Tôi không thể liệt kê đầ đủ
ở đây những hạn chế của Pháp lệnh
18-6, chỉ xin đúc kết lại trong một câu ngắn.
Pháp lệnh này có 41 điều th́ 37 điều dành cho
việc qui chế hoá quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo và 4 điều cho việc thi hành pháp lệnh.
Trong số 37 điều kể trên, chỉ có 1 điều
độc nhất là không thấy có vết tích ǵ của
sự hạn chế. Đó là điều 1. C̣n 36 điều
c̣n lại th́ được dùng để bao vây, bào
ṃn, thậm chí mượn pháp lư để vô hiệu
hoá công khai và hợp pháp, quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo. Những ǵ chưa bị vô hiệu hoá, c̣n sót
lại chút đỉnh th́ lại phải theo chế
độ ?xin phép trước?, mà các nước tiên tiến
trên thế giới đă phế bỏ từ mấy thế
kỷ nay, và Việt Nam cũng đă phế bỏ từ
ngày có biến cố được gọi là Cách Mạng
tháng Tám 1945. Đó là chưa kể rằng những
điều ngăn cấm nào mà chưa nói rơ trong pháp lệnh
18-6 th́ được nói một cách mơ hồ, để
lâm sự, đề khi có chuyện th́ chính quyền tuỳ
tiện giải thích theo chiều hướng cứng rắn
của đàn áp. Không chú ư th́ khó thấy được
nhiều cạm bẫy tinh vi trong pháp lệnh 18-6 để
phục kích dân chúng. Nói tóm lại, pháp lệnh 18-6 là một
văn bản pháp lư phản nhân quyền, dân quyền,
phản tiến bộ.
Hỏi: Chúng
tôi thấy rằng đó có thể là là ư kiến riêng
của luật sư, nhưng bây giờ nếu đứng
về mặt luật học, tức là về chuyên môn,
mà xét th́ luật sư nghĩ thế nào về Pháp Lệnh
tín ngưỡng, tôn giáo này?
Đáp: Trước
việc các chính phủ, cũng như các tổ chức
nhân quyền quốc tế phi chính phủ, gia tăng áp
lực để hỗ trợ những cuộc tranh đấu
đ̣i tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhà cầm quyền
Hà Nội đă phản ứng một cách cứng rắn.
Để biện minh cho thái độ mới này, Hà Nội
đă dùng pháp luật làm công cụ đàn áp và, theo
tôi, đă leo thêm một bậc thang đàn áp nữa.
Đó là cảm tưởng của tôi sau khi đă
nghiên cứu Pháp lệnh ngày 18-6-2004 về tín ngưỡng,
tôn giáo mà Quốc hội thu hẹp, tức là Uỷ ban
Thường vụ, vừa mới thông qua.
Hỏi: Luật
sư chỉ vừa nói đến khía cạnh công cụ
pháp lư, chúng tôi muốn được biết rơ hơn
về khía cạnh LUẬT HỌC.
Đáp: Ta cần
xét xem Pháp lệnh ngày 18-6 đă thay đổi như thế
nào tương quan quyền lực giữa, một bên, những
người dân có tín ngưỡng, có tôn giáo, các nhà chức
sắc, tu hành, các tổ chức, hội đoàn tín ngưỡng,
tôn giáo và, bên khác, là Nhà nước. Theo tôi, Pháp lệnh
này đă thay đổi hẳn tương quan đó bằng
cách để cho Nhà nước lấn chiếm hết nội
dung của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
người dân, biến quyền tự do này thành ra một
quyền hoàn toàn h́nh thức. Theo luật học quốc
tế về nhân quyền, và cũng là luật học hiện
đại và phổ quát về nhân quyền của cả
nhân loại, th́ quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo là một quyền tự do cơ bản của
người dân. Nó nằm trong quyền con người
được tự do tư tưởng, tự do tin
tưởng, tự do thờ phượng, miễn không
xâm phạm tới quyền của người khác. Pháp
lệnh 18-6 đă tránh né không chính thức phủ nhận
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, nhưng lại
qui định rất ngặt nghèo tất cả mọi
hoạt động của mọi tín ngưỡng mọi
tôn giáo, đặt chúng dưới sự giám hộ,
giám sát của Nhà nước, thông qua Chính phủ, Mặt
trận Tổ quốc, Uỷ ban tôn giáo trung ương,
Uỷ ban Nhân dân các cấp. Như vậy, quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giao đă bị Pháp lệnh ngày
18-6 biến thành một đặc ân mà người dân
chỉ được hưởng nếu được
Nhà nước ban phát. Nếu xin không được mà
cứ hành sử, hoạt động th́ sẽ bị
đàn áp. Đó là hiện tượng mà ngôn ngữ
trong nước gọi là t́nh trạng ?xin cho?.
Hỏi: Ông thường
nói đến chuyni đàn áp, nhưng có thể đó
là cách hiểu chủ quan của ông chăng? Cho nên, về
mặt luật học th́ đàn áp có được
định nghĩa hay không, nếu có th́ được
định nghĩa như thế nào?
Đáp: Có hai
cách hiểu chữ đàn áp. Một là theo nghĩa thông
thường, hai là theo nghĩa chuyên môn về luật học,
như trong trường hợp nói về Pháp lệnh
ngày 18-6-2004. Hai nghĩa này bổ túc cho nhau. Hiểu theo
nghĩa thông thường, như chúng ta có thể đọc
thấy ỏ trong các tự điển tiếng Việt,
trong Nam cũng như ngoài Bắc, và tôi xin trích dẫn
định nghĩa đàn áp lấy trong quyển ?Từ
điển Từ và Ngữ Hán Việt? của giáo sư
Nguyễn Lân, xuất bản năm 2002 ở Hà Nội,
th́ đàn áp là ?Dùng bạo lực hay quyền uy ngăn
cấm sự hoạt động của người khác?.
Việt Nam Tự Điển Lê Văn Đức, Lê Ngọc
Trụ ở trong Nam c̣n cụ thể hơn: đàn áp
là trấn áp, là đè nén, nhận xuống không cho ngóc
dậy. Khi nói đàn áp ở trong khuôn khổ Pháp lệnh
18-6-2004 th́ phải hiểu từ này một cách chuyên
môn, theo nghĩa bóng, và phải dựa vào những cơ
sở chuyên môn tức là luật học. Pháp lệnh
ngày 18-6 là một văn bản pháp lư, trên lư thuyết,
có hiệu lực của một đạo luật. Hiện
nay th́ pháp lệnh này chưa có ngay hiệu lực này,
v́ chính nó đă đự liệu rằng phải đợi
đến ngay 15 tháng 11sắp tới nó mới có hiệu
lực. Bởi vậy, ít ra là từ nay cho đến ngày
đó, nhà cầm quyền Hà Nội chưa thể áp dụng
văn bản 18-6 này, nghĩa là cho đến đó, sự
đàn áp trong thực tế sẽ chưa xảy ra.
Nhưng ngay bây giờ, trong tự thân của văn bản
18-6, người ta thấy đă thể hiện một
lô gích chặt chẽ của sự đàn áp, khuôn đóng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của dân
chúng vào trong những giới hạn do Nhà nước tự
quyền ấn định trước, đặt ra rất
nhiều điều cấm kỵ khiến cho rút lại
chẳng c̣n tự do tín ngưỡng, tôn giáo nữa. Hiến
pháp 1992 đương hành đă minh thị công nhận
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng Pháp lệnh
18-6-2004 đă thu hẹp nó lại - nói theo ngôn ngữ
chuyên môn - đă qui chế hoá nó một cách quá lạm
tới mức không khác ǵ cấm tự do tín ngưỡng,
tôn giáo. Ai vượt ra khỏi qui chế này, hay nói theo
ngôn ngữ b́nh dân, ai vứt bỏ cái ṿng kim cô của
Nhà nước, th́ sẽ bị ngăn cấm không
được theo tín ngưỡng tôn giáo của ḿnh nữa,
tức là bị đàn áp.
Hỏi: Việt
Nam vẫn có quan niệm rằng Quốc hội là cơ
quan quyền lực cao nhất, mà nay chính Quốc hội
đă ban hành pháp lệnh này, nên có ư kiến cho rằng
đó là hành vi pháp lư thích hợp với thẩm quyền
của Quốc hội, và đồng thời thể hiện
ư nguyện của toàn dân? Ư kiến luật sư ra sao?
Đáp: Dù Quốc
hội có quyền lực cao nhất chăng nữa th́ cũng
không thể muốn làm ǵ th́ làm. Quốc hội không thể
mâu thuẫn vói chính nó. Quốc hội khi thông qua Hiến
pháp 1992 và sửa đổi, bổ sung Hiến pháp này năm
2001, nơi điều 70, đă công nhận quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo không điều kiện,
như sau: ?Công dân có quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào. Các tôn giáo
đều b́nh đẳng trước pháp luật. Những
nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo
được pháp luật bảo hộ. Không ai
được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn
giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để
làm trái luật và chính sách của Nhà nước.? Trong
điều này không hề thấy có một chữ nào hạn
chế quyền tự do nói trên cả. Chỉ thấy
có sụ ngăn cấm những hành vi gọi là ?lợi
dụng? tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái luật,
trái chính sách. Nhưng hành vi lợi dụng là một
hành vi nằm ở ngoài quyền tự do tín ngưỡng
tôn giáo, không thể coi nó như một thành tố của
quyền tự do này để làm ra luật, mượn
cớ ngăn cấm lợi dụng, để lấy cớ
ngăn cấm luôn cả quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo. Hơn nữa, nhà cầm quyền Việt Nam c̣n
phải tôn trọng những qui phạm của luật quốc
tế về nhân quyền v́ Việt Nam đă xin gia nhập
Liên Hiệp Quốc và gia nhập Công ước quốc
tế về các quyền dân sự và chính trị trừ
những năm 70 và 80. Nội dung của Pháp lệnh 18-6
hoàn toàn trái ngược với tinh thần (Tuyên Ngôn Quốc
Tế về Nhân quyền, điều 18) cho đến
văn tự của luật quốc tế này (Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị,
điều 18). Tưởng nên nhấn mạnh rằng
điều 38 của chính Pháp lệnh 18-6 đă minh thị
đặt luật quốc nội của Việt Nam
dưới luật quốc tế. Người ta tự hỏi
tại sao Uỷ ban Thường vụ lại ngang nhiên dẫm
đạp lên trật tự pháp quyền của chính
ḿnh trong vụ Pháp lệnh 18-6?
Hỏi: Luật
sư c̣n khẳng định rằng Pháp lệnh 18-6
đă leo thang đàn áp. Tại sao ?
Đáp: Nói leo
thang là v́ Pháp lệnh này biểu thị một sự
gia tăng đàn áp về nhiếu mặt. Thí dụ về
mặt pháp lư, trước đây ta chỉ thấy những
biện pháp đàn áp được trù liệu bằng
các Nghị quyết của Đảng, của Uỷ ban
tôn giáo trung ương, các Nghị định của Thủ
tướng chính phủ. Bây giờ, với Pháp lệnh
18-6 các biện pháp ấy đă được nâng cấp
thành chính sách quốc gia, với sự hỗ trợ của
pháp luật xuất phát từ Quốc hội. Lại nữa,
ngày trước phần lớn là những biện pháp
đàn áp tản mạn, nhắm vào những trường
hợp cá thể hay riêng lẻ. Bây giờ những biên
pháp này đă được mở rộng thêm về mặt
qui mô, tổng quát hoá thành hệ thống kềm chế
ngặt nghèo quyền tự do của mọi tín ngưỡng,
mọi tôn giáo trên phạm vi cả nước, chẳng
những trong sinh hoạt ngoài đời sống xă hội,
mà c̣n cả ở trong tâm hồn con người. Đó
quả thật là một ư đồ toàn trị không hơn
không kém. Nếu cái sản phẩm mà Uỷ ban Thường
vụ đă nặn ra ngày 18-6-2004 không được thu
hồi trước khi nó có thể tác hại th́ từ
ngày 15-11 trở đi, vĩnh biệt tự do tín ngưỡng,
tôn giáo ở Việt Nam .
Việt Long: Xin
cám ơn Luật sư Trần Thanh Hiệp.
Luật sư TRẦN
THANH HIỆP