ĐT. 714-541-9859, 714-423-0577                      THONG THIEN HOC

Google

Trang Chính

English

Việt Nam


Hoa Kỳ

Sinh Hoạt Cộng Đồng


Thế Giới
Diễn Đàn

Văn Học

B́nh Luận

Kinh Tế
Câu Chuyện ThờiSự

Chuyện Lạ 4Phương

Khoa Học

Sức Khỏe

Ẩm Thực

Nhân Vật

Người / Ngợm

Vui Cười


Biếm Thi

Linh Tinh

Rao Vặt

Nhạc Hoàng Vân

VNCH Foundation

Ca Dao Việt Nam

Thơ Hà Huyền Chi

Hà Phương Hoài

Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

OVERSEAS
FREE VIETNAMESE
COMMUNITIES

RADIO
SAIGON-HOUSTON

ĐI   THĂM  CÁC  NƯỚC  BẮC  ÂU

 

Nguyễn Bá Cẩn

Cựu Chủ Tịch Hạ Nghị Viện và Thủ Tướng Chính Phủ VNCH/Former Prime Minister of the Republic of Vietnam                          

 

 Sau bốn chuyến viếng thăm và nói chuyện với đồng bào Toronto, Washington DC, New Orleans và Atlanta về đề tài “Giải Thể CSVN” hồi đầu năm 2004, tôi quyết định đi thăm một vùng chưa hề đặt chân tới, và nếu được th́ một vùng yên tịnh để vừa học hỏi vừa nghỉ ngơi. Nh́n lên bản đồ thấy Bắc Âu là nơi thích hợp v́ là vùng đất rộng người thưa, ở tận trên chóp bu của địa cầu. Ngoài ra Bắc Âu c̣n là một vùng nổi tiếng về bênh vực nhân quyền và có một hệ thống an sinh xă hội tân tiến vào bậc nhất thế giới. Đi thăm Bắc Âu c̣n thỏa măn tính hiếu kỳ của tôi muốn t́m hiểu tài nguyên nào và những yếu tố chánh trị, kinh tế và xă hội nào đă giúp người dân Bắc Âu thực hiện được một tổng sản lượng tính theo đầu người cao nhất thế giới, qua mặt cả Hoa Kỳ và Nhật Bổn cùng các nước cường thịnh của Tây Âu. 
 Tháp tùng với tôi trong chuyến đi là ba cặp vợ chồng toàn là bạn thân, tổng cộng tám người. Chúng tôi đến London ở hai ngày để chuẩn bị chuyến đi Bắc Âu. Đối với tôi, London không có ǵ lạ mắt v́ tôi đă đến đây rất nhiều lần. Nhưng kỳ này có một cảm giác khó quên là được hăng du lịch sấp xếp cho chúng tôi nghỉ tại khách sạn Kensington Palace là khách sạn mà đầu năm 1968, phái đoàn dân biểu VNCH do tôi hướng dẫn đă đến ơ,û trong chuyến viếng thăm chính thức Anh Quốc do lời mời của Viện Thứ Dân (Chamber of Commons). Cảm giác vui buồn lẫn lộn v́ sự khác biệt giữa tư cách một người khách quư (honor guest) của Anh quốc và thân phận một kẽ ly hương 36 năm sau.
 Sáng ngày 9 tháng 7, chúng tôi lên đường đi Newcastle để từ đây xuống phà băng ngang Bắc Hải để đến cảng Bergen của Na Uy, chặng đầu của chuyến viếng thăm. Tuy gọi là phà (ferry)ø, nhưng chiếc tàu này thuộc hạng cruiser cở nhỏ với 4 tầng lầu có độ 300 pḥng cho du khách  _  mỗi pḥng có thể chứa 4 người _  5 nhà hàng và một tầng thấp nhất có khả năng chứa mấy chục xe chở hành khách loại motorcoach. Du lịch và buôn bán rất tấp nập giữa Âu Châu lục địa và Bắc Âu. Lư do là v́ Đan Mạch và Thụy Điển đều là hội viên của Liên Hiệp Âu Châu. C̣n Na Uy và Đan Mạch là hội viên của Tổ Chức Bắc Đại Tây Dương. Thụy Điển không gia nhập TCBĐTD nhưng vẫn tham gia chương tŕnh huấn luyện của tổ chức này.
 Ai đi thăm Na Uy cũng nhằm mục đích ưu tiên thưởng thức thiên nhiên hầu như c̣n nguyên vẹn, nhất là những vịnh hẹp trong đất liền (gọi là fjord) bao bọc bởi núi rừng mà phần lớn chưa bị loài người khai phá và gây ô nhiễm. Các vịnh ở Na Uy và Vịnh Hạ Long ở Bắc Việt Nam là hai cấu trúc địa chất có đặc thù riêng nhưng cả hai đều độc nhất vô nhị trên thế giới. Từ cảng Bergen đến Voss và nhất là từ Fagerness đến thủ đô Oslo, có khoảng dùng xe motorcoach, có khoảng dùng phà chạy xuyên qua những vùng rừng núi chập chùng khiến du khách có cảm giác như bị quyện vào thiên nhiên bao la bát ngát. Đặc biệt ở đoạn đường trước khi đến Voss, chúng tôi di chuyển bằng tàu để ngắm phong cảnh hùng vĩ của vịnh Sognefjord được nổi tiếng là vịnh đẹp nhất của Na Uy. Trên tàu nh́n xuống là mặt nước phẳng ĺ xanh biếc, nh́n lên hai bên bờ là núi đá dựng chận đứng tầm mắt, hoặc dăy đồi cao chạy dài tận đàng xa chân trời, rải rác đó đây những hồ nước xanh thẳm hoặc những thác nước trắng xóa in đậm trên hai nền xanh của khung trời trong vắt và của cây cỏ núi rừng, tạo nên một phong cảnh vừa ngoạn mục vừa yên tịnh rất thoải mái cho khách nhàn du.
 Chúng tôi cố gắng làm quen với đời sống Bắc Âu. Đầu tháng 7, thời tiết rất là lư tưởng. Khí hậu mát mẻ, thỉnh thoảng có mưa rơi lác đác không đáng kể. Gần đến 11 giờ tối mà mặt trời vẫn chưa chịu lặn, có vẻ thúc dục chúng tôi thăm viếng danh lam thắng cảnh Oslo, một thành phố trù phú, đẹp như viên đá quư được chạm bên bờ vịnh Oslo là một trong hai vịnh (fjord) đẹp nhất của Na Uy, với núi rừng xanh tươi bát ngát và lượng nước cuồn cuộn chảy ra biển Skagerrak, thông ra Bắc Hải. Ngược lại mới vừa 4 giờ sáng, ai nấy đều chưa thỏa măn với giấc ngủ ngắn ngủi th́ đă bị đánh thức bởi ánh nắng mặt trời xuyên qua màn cửa. Cũng may cho chúng tôi không đến miền Bắc của Na Uy, Thụy Điển và Phần Lan, tại một vùng nằm trên Bắc vĩ tuyến 66 độ 33’ tạm gọi là Ṿng Tṛn Bắc Cực (Arctic Circle) giữa mùa hè hoặc giữa mùa đông v́ vào các tháng sáu và tháng bảy, mặt trời không bao giờ lặn và trong các tháng chạp và tháng giêng, mặt trời không bao giờ mọc. Với lợi tức cao nhất thế giới, đời sống người dân Bắc Âu rất sung túc nhưng cũng rất đắt đỏ. Trong mấy ngày đầu ở Na Uy, chúng tôi chỉ mua sắm khi cần thiết. Lư do là v́ vật giá. Một chai nước lạnh đáng giá 20 xu tại Hoa Kỳ được bán với giá 27 krone Na Uy tương đương với 4 mỹ kim!    
 Trước khi ra đi, tôi được biết tại nước nào của Bắc Âu kể luôn cả Ḥa Lan, cũng đều có dân tỵ nạn gốc “quốc gia hành chánh”. Tuy nhiên v́ lư do không muốn quấy rầy các đồng môn nên tôi chỉ tiếp xúc hai anh chị Thanh Tâm và Khánh Hà khi được biết anh chị ở ngay tại Oslo. Cả hai vợ chồng Tâm/Hà đều tốt nghiệp Cao học Hành chánh. Anh chị được tàu Na Uy cứu vớt trên đường vượt biển t́m tự do. Vừa về đến khách sạn xế chiều th́ đă thấy anh Tâm chờ sẵn tại lobby. Gặp nhau tay bắt mặt mừng như thân thiết từ hồi nào _ đây là một truyền thống trân quư nhất của Hoc viện Quốc gia Hành chánh _ mặc dù trước đó chúng tôi chỉ tiếp xúc bằng email nhờ sự giới thiệu của đồng môn La Trung Chánh ở miền Đông Hoa Kỳ. V́ không muốn phiền nhiễu anh chị Tâm phải tiếp đón quá nhiều người ở cái xứ gạo châu củi quế nên tôi nài nỉ mời hai anh chị dùng cơm tối với chúng tôi tại một tiệm ăn của thành phố.
 Nhưng anh Tâm nhất quyết khước từ, viện lẽ “nếu không rước được đại huynh về nhà để tâm t́nh th́ sẽ vô cùng ân hận”. Liền theo đó ái nữ của anh chị Tâm là nha sĩ Ngô Thanh Như Thủy đến với xe riêng. Anh Tâm và cháu Thủy đă sẵn sàng hai xe để đưa tám người chúng tôi về tư gia của anh chị ở giữa đường Oslo ra phi trường. Tôi rất ngại ngùng nhưng không làm ǵ hơn được. Trước ngày về hưu anh Tâm vừa làm thông dịch viên vừa giúp việc cho chương tŕnh văn hóa đa dạng của đài truyền h́nh Na Uy. Anh về hưu được hai ngày th́ chúng tôi đến Oslo. Tôi rất mừng cho anh chị đă thành công trong việc sấp xếp cuộc sống và nuôi các cháu đạt thành nơi xứ lạ quê người, nhất là tại một xứ mà ngôn ngữ không phải là Pháp hoặc Anh văn vốn dĩ có phần quen thuộc với người Việt chúng ta hơn.
 Nhà của anh chị Tâm ở ngoại ô, có đầy đủ các pḥng khách, pḥng ăn, và ba pḥng ngủ, diện tích cũng phải trên 2 ngàn feet vuông trên một lô đất rộng răi cở 6 ngàn feet vuông. Sau nhà là khuôn vườn trồng cây xanh thiết kế theo kiểu vườn Nhật, trông rất mỹ thuật và là nơi lư tưởng để gia đ́nh thưởng ngoạn sau buổi cơm chiều. Tôi hơi dài ḍng khi mô tả tổ ấm của anh chị Tâm là để cho thấy đời sống ở Bắc Âu có phần cao hơn Âu Châu lục địa. Tại đây, ví dụ tại thủ đô các nước Pháp, Đức và Anh mà tôi đă đến thăm nhiều gia đ́nh thân thuộc và bạn bè, một gia đ́nh công tư chức với lợi tức trung b́nh khó có thể mua sắm một ṭa nhà khang trang như nhà anh chị Tâm.
 Buổi cơm chiều thịnh soạn giúp cho chủ và khách kéo dài thời giờ hàn huyên tâm sự. Rất may là chị Hà quê quán xă Mỹ Lương, quận Cái Bè thuộc tỉnh Định Tường, trước năm 1975 là đơn vị dân biểu của tôi. Khi lớn lên, chị qua Vĩnh Long học. Cô giáo của chị lại là thân mẫu của anh Thứ trong đoàn của chúng tôi. Trong đoàn c̣n có chị Triều Nghi cũng là nhà thơ như hai anh chị Tâm/Hà nên tuy không quen mà như đă thân t́nh, ai nấy đều tṛ chuyện rất hứng thúù, xoay quanh các đề tài văn nghệ, đời sống đồng bào tỵ nạn ở Bắc Âu và những kỷ niệm vui buồn của tuổi trẻ chúng tôi tại các tỉnh Tiền Giang. Cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi, một gia đ́nh tỵ nạn Cộng sản và một số đồng hương đi du lịch tại một miền giá băng tuyết lạnh ở sát Ṿng Tṛn Bắc Cực quả là một kỷ niệm hi hữu. 
 Trên đường đi đến Thụy Điển, chúng tôi dừng nghỉ đêm tại  Karlskoga là nơi mà ông Alfred Nobel đă dựng lên nhà máy sản xuất chất nổ khoảng giữa thế kỷ 19. Thời kỳ này Âu Châu rất cần chất nổ để chế tạo ḿn dùng vào các công tác phá nổ đá núi, xây cầu, đào mỏ, đào hầm xuyên núi, v.v... nên ngoài Thụy Điển ra, Alfred Nobel c̣n lập các xưởng khắp trên 20 nước như Anh, Pháp, Đức, Ư, v.v... Nhà máy sản xuất thuốc nổ cùng các loại cơ sở kỹ nghệ khác với 355 môn bài sáng chế của ông Nobel đă giúp ông trở nên giàu có nhất Âu Châu. Đến khi ông qua đời hồi cuối thế kỷ 19, ông để lại chúc thư dành tài sản khổng lồ của ông để lập ra Giải Thưởng Nobel ban phát hàng năm các giải thưởng Nobel về Ḥa B́nh, Văn Chương, Vật Lư, Hóa Học, và Y Học. 
 Thụy Điển đất rộng người thưa như Na Uy, rừng núi mênh mông nhưng không có những fjord đẹp và hùng vĩ như Na Uy. Tuy nhiên phải nói thủ đô Stockholm là một đô thị ngoạn muc với những công thự và phố xá muôn màu trải rộng sát mặt nước cửa biển và kinh đào chằng chịt, khiến cho du khách trông thấy như có hai thành phố, một sáng rực trên nền trời xanh, và một lộn đầu rung rinh trên mặt nước, do đó người Âu Châu gọi Stockholm là “Venise của miền Bắc”. Dinh thự đền đài cũng khá nhiều nhưng không cổ kính bằng đền đài trong Âu Châu lục địa. Mỗi năm, giải Nobel được tổ chức vào ngày 10 tháng 12 dương lịch là ngày giỗ của Alfred Nobel, nhưng không hiểu tại sao Giải Nobel Ḥa B́nh th́ được tổ chức tại Na Uy c̣n 4 giải c̣n lại th́ được phân phát tại Stockholm.
 Thụy Điển có 9 triệu dân, gấp đôi dân số Na Uy (4.4 triệu) và Đan Mạch (5.5 triệu).  Nhưng cả ba nước đều theo chế độ quân chủ lập hiến, theo đó nhà vua chỉ trị v́ tượng trưng, c̣n quyền cai trị đất nước nằm trong tay Chánh Phủ và Quốc Hội do dân bầu. Cả ba nước Na Uy, Thụy Điển và Đan Mạch có một nền văn hóa chung gọi là văn hóa Viking chớm nở từ Thụy Điển và phát triển trong hai thế kỷ 9 và 10 khi dân tộc này nổi danh về thủy chiến, hải tặc cùng khai thác thuộc địa chiếm được ởø hướng Nam như Anh Quốc và miền Bắc nước Pháp, cũng như ở hướng Đông đến tận Hắc Hải của Nga Sô. Đến thời kỳ cực thịnh ở thế kỷ 14, ba nước nhập thành một vương quốc nhưng đến thế kỷ 16, Thụy Điển ly khai khỏi vương quốc cho đến đầu thế kỷ 19 lại xâm chiếm Na Uy. Tuy nhiên đến  năm 1905, Na Uy dành được độc lập. Từ đó, ba nước trở thành 3 quốc gia riêng biệt cho đến ngày nay.
 Cả ba nước rất giàu về hải sản. Nhưng nếu Na Uy và Thụy Điển lại giàu thêm về lâm sản th́ Đan Mạch rất mạnh về kỹ nghệ biến chế nông sản, máy móc dụng cụ, hóa chất, v.v... . Riêng Na Uy lại c̣n có một tài nguyên vô cùng phong phú về dầu thô và khí đốt giúp cho nước này thiết lập một quỹ dự trữ gọi là Quỹ Dầu Hỏa lên đến 700 tỷ mỹ kim đang được đầu tư khắp thế giới. Nói chung, cả ba nước đều có một nền ngoại thương hết sức hùng hậu nhờ xuất cảng đủ các loại nông, lâm, hải và khoáng sản thô, hoặc biến chế.
 Để có một ư niệm về tài nguyên hải sản của các quốc gia Bắc Âu này, chỉ cần so sánh chiều dài 21,925 cây số duyên hải (đất liền và các quần đảo) của Na Uy đối với 3,400 cây số của Pháp và 3,500 cây số của Việt Nam. Riêng diện tích của Na Uy cũng đă bằng diện tích của Việt Nam (325 ngàn cây số vuông). Nhưng tổng sản lượng quốc gia của Na Uy trong năm 2003 là 221 tỷ mỹ kim, chia cho 4.4 triệu người dân, vị chi 50,227 mỹ kim cho mỗi đầu người, trong lúc tổng sản lượng của Việt Nam cùng năm là 39 tỷ mỹ kim, nhưng khi chia cho 82 triệu dân th́ mỗi người dân chỉ được 475 mỹ kim.     
 Cũng nhờ lư do nước giàu mà dân ít nên theo thống kê của Ngân Hàng Thế Giới công bố cuối tháng 7 năm 2004, lợi tức từng đầu người trong năm 2003 của Na Uy lên đến 50,227 US$, Thụy Điển 33,421 US$, Đan Mạch 38,618 US$ trong lúc Hoa Kỳ chỉ có 37,074 US$, Nhật Bản 33,858 US$, Pháp 28,300 US$, Thái Lan 2,202 US$, Mă Lai 4,389 US$, c̣n Trung Quốc với lợi tức 1,084 US$, Ấn Độ với lợi tức 562 US$  và Việt Nam với lợi tức 477 US$  đứng vào hạng nghèo thấp nhất thế giới.
 Nh́n sâu vào vấn đề, chúng ta c̣n thấy yếu tố vô cùng quan trọng của chính sách kiểm soát sinh sản của các quốc gia ảnh hưởng rất 1ớn vào mức sống của người dân các nước. Trung Quốc hiện có 1 tỷ 300 triệu dân dự trù đến năm 2050 sẽ gia tăng 10% tức là lên đến mức 1.5 tỷ người. Trong lúc đó, Ấn Độ không chủ trương hạn chế sinh sản gắt gao như Trung Cộng nên dự trù đến năm 2050 dân số của họ từ 1 tỷ 65 triệu sẽ tăng lên 1 tỷ 800 triệu, vượt xa Trung Quốc. Không rơ hai Chính phủ này liệu có đủ sức phát triển thêm tài nguyên để nuôi sống thêm gần 1 tỷ người nữa hay không?
 Ngoài yếu tố kiểm soát sinh sản, c̣n phải nói đến mô h́nh tổ chức kinh tế và xă hội tại các nước giàu ở Bắc Mỹ và Âu Châu chưa được hợp lư là v́ tài sản và lợi tức vẫn c̣n được dùng vào mục tiêu chính khuyến khích tài năng và sáng kiến cá nhân nhưng chưa được dùng để phục vụ quần chúng một cách đồng đều, dù chỉ trên một căn bản tương đối. So sánh một cách tổng quát, kinh tế Hoa Kỳ hơn Âu Châu, nhưng tổ chức xă hội của Hoa Kỳ chưa hẵn đă hơn Âu Châu. Chỉ riêng về quyền lợi và điều kiện làm việc, người lao động Âu Châu được hưởng nhiều quyền lợi, được bảo đảm xă hội hơn ở Hoa Kỳ và có một đời sống thanh nhàn hơn.
 Tại Hoa Kỳ, luật lệ về kinh tế tài chính, thuế vụ, lao động và xă hội nhằm nâng đỡ tài phiệt và chủ nhân hơn là bênh vực công nhân. Lao động Âu Châu làm việc ít giờ trong tuần và được nghỉ phép (vacation) hàng năm nhiều hơn và trong những điều kiện dễ dăi hơn ở Hoa Kỳ. Đặc biệt trong 30 năm gần đây, vũ khí bảo vệ lao động tại Hoa Kỳ là nghiệp đoàn không c̣n bén nhọn và hữu hiệu như trước kia nữa. Một mặt là v́ luật pháp cho phép Tổng Thống Hoa Kỳ can thiệp quá đáng vào các cuộc tranh chấp lao động, làm giảm thiểu sức ép của tổ chức nghiệp đoàn. Thời kỳ Tổng Đoàn Lao Động và Công Kỹ Nghệ Hoa Kỳ (AFL-CIO) được trọng nể trong chính giới và tín nhiệm đối với công nhân không c̣n nữa. Một phần cũng v́ Tổng Thống Hoa Kỳ, các Nghị sĩ và Dân biểu liên bang không c̣n lệ thuộc nhiều vào tổ chức lao động như trước kia nữa mà chỉ cần chi tiền, bỏ ra vài chục vài trăm triệu để truyền thông mang h́nh ảnh và vận động bầu cử vào tận pḥng gia đ́nh hay pḥng ngủ của từng gia đ́nh. 
 Tệ hơn nữa là sau các cuộc khủng hoảng kinh tế cứ lần lượt xảy ra trong ṿng 10 hoặc 15 năm, đường lối quản trị của các đại công ty Hoa Kỳ ngày càng khắt khe, thậm chí tồi tệ tới mức bóc lột trắng trợn giới lao động. Không thiếu ǵ hiện tượng mướn nhân viên làm việc dài hạn nhưng tuyển dụng với tư cách tạm thời để khỏi phải trả quyền lợi (benefits) về bệnh tật, nghỉ phép, hộ sản, hưu trí, v.v.. Đa số các hăng c̣n sa thải những nhân viên sắp có gần đủ thâm niên về hưu, để hăng khỏi phải trả hưu bổng về sau. Ngoài ra c̣n có một thiểu số viên chức lănh đạo lưu manh làm giàu cá nhân bằng cách gian lận về tài chính và chứng khoán của hăng làm cho hàng chục ngàn nhân viên mất hết tiền tiết kiệm đầu tư bằng chứng khoán của xí nghiệp họ đang làm việc. Thật là trắng trợn cảnh người bóc lột người.
 Trên đây là những nhận xét tổng quát để người Việt quốc gia cân nhắc trong việc mang hiểu biết và kinh nghiệm học được tại nước người về áp dụng cho đất nước trong thời kỳ hậu cộng sản.  Có lẽ không đâu mà công bằng xă hội được thực thi khá tốt, không đâu mà cách biệt rất ít giữa giàu và nghèo, không đâu mà đời sống người dân được bảo đảm từ lúc c̣n trong bụng mẹ cho đến khi chết, bằng một hệ thống an sinh xă hội tân tiến vào bậc nhất như tại các nước Bắc Âu, nơi mà người dân được hưởng đầy đủ quyền lợi về thuốc men, chửa trị, bệnh viện, hộ sản, thất nghiệp, nghỉ phép hàng năm, hưu trí, v.v... , dồi dào và hữu hiệu hơn cả Bắc Mỹ và Tây Âu.
 Xin nêu lên một vài ví dụ điển h́nh sau đây. Về quyền lợi  nghỉ  hộ sản tại Na Uy, sản phụ có thể chọn nghỉ 42 tuần với 100% lương hoặc 52 tuần với 80% lương. Số tuần lễ nghỉ hộ sản này có thể trích ra một phần cho người chồng nghỉ ở nhà để phụ giúp chăm sóc trẻ sơ sinh. Ở Hoa Kỳ, sản phụ chỉ nghỉ được 8 tuần lễ có hưởng lương. Một ví dụ khác là tại Na Uy có trung tâm nuôi dưỡng thiếu nhi từ 2 đến 6 tuổi hoàn toàn miễn phí về thực phẩm, quần áo, y tế, v.v... C̣n giáo dục th́ cưỡng bách cho tới lớp 9, hoàn toàn miễn phí về học phí, mua sắm sách vở, phương tiện đưa rước đến trường và về nhà, bảo hiểm y tế về mọi mặt, v.v.. Từ lớp 10 trở lên cho đến hết đại hoc, chỉ c̣n được miễn học phí. Dù vậy cũng đă quá rộng răi rồi v́ Hoa Kỳ và Tây Âu không có đầy đủ những quyền lợi như vậy.
 Riêng lănh vực bảo hiểm sức khỏe tại Hoa Kỳ rất bê bối. Dưới áp lực tiền tài quá ư mănh liệt của các giới y tế gồm các đại công ty bảo hiểm sức khỏe, các đại công ty dược phẩm, và của lực lượng bác sĩ, nha sĩ, và dược sĩ, Chính phủ thả lỏng cho lệ phí bảo hiểm sức khỏe, lệ phí chăm sóc và nằm bệnh viện cùng giá cả dược phẩm gia tăng phi mă hàng năm. Đặc biệt trong 3 năm qua, tùy công ty bảo hiểm và tùy tư thế và hoàn cảnh của mỗi khách hàng, lệ phí bảo hiểm sức khỏe mỗi năm gia tăng từ 50 đến 100%, trong lúc lương công tư chức chỉ tăng từ 3 đến 4 phần trăm tương xứng với tỷ lệ lạm phát. Chính phủ không kiểm soát bằng cách ấn định một tỷ lệ gia tăng tối đa như ở Bắc Âu.
 Tại các bệnh viện Hoa Kỳ, lệ phí săn sóc trong 2 ngày cho một trường hợp khẩn cấp lên đến năm sáu ngàn mỹ kim là chuyện thường. Ngoài ra mỗi ngày nằm tại ICU (Intensive care unit - pḥng đặc biệt dành cho các trường hợp tối nguy) tốn vào khoảng 4 ngàn mỹ kim. C̣n về dược phẩm, một dược phẩm bào chế y hệt tại Canada và Hoa Kỳ được bán tại Canada với giá 3 mỹ kim trong lúc tại Hoa kỳ, bệnh nhân phải mua với giá trên 20 mỹ kim. Dưới áp lực kim tiền của giới sản xuất tài phiệt Hoa Kỳ, dược phẩm Canada không được nhập cảng vào Hoa Kỳ cho nhân dân được nhờ trong lúc các siêu thị trưng bán hàng trăm loại rượu bia được tự do nhập cảng từ hàng trăm quốc gia khác nhau, giúp cho người dân mua rẻ loại độc dược này (có lời cảnh cáo của Bộ Y Tế Hoa Kỳ trang trọng in trên chai) !! Hàng năm có lẽ độ từ 6 đến 7 chục phần trăm của trên 500 tỷ mỹ kim kinh phí về chăm sóc sức khỏe tại Hoa Kỳ chạy vào túi của tài phiệt nắm ngành y tế. 
 Tuy tổ chức y tế và giáo dục của Hoa Kỳ và Việt Nam khác nhau một trời một vực, nhưng mỗi tổ chức đều có khuyết điểm, lẽ dĩ nhiên cũng không giống nhau. Việt Nam bê bết là v́ quản trị ngu dốt, tồi tệ và tham nhũng. Hoa Kỳ bê bối là v́ chính quyền nhắm mắt làm ngơ trước quyền lực của tài phiệt đế quốc làm giàu trên xương máu của người dân Hoa Kỳ. Mấy đời Tổng Thống Hoa Kỳ khi tranh cử đều hứa với cử tri là họ sẽ chỉnh đốn lại nhưng không một ai đă giữ được lời hứa v́ tài phiệt mọc gốc mọc rễ chằng chịt quá sâu dưới ḷng đất. C̣n ở Việt Nam, quản trị tồi tệ do dốt nát và tham nhũng đều do độc tài đảng trị gây ra. Cho nên một khi cộng sản Việt Nam bị giải thể th́ có thể giải quyết dễ dàng hơn là ở Hoa Kỳ. Đó là niềm an ủi duy nhất cho nhà cầm quyền Việt Nam trong thời kỳ hậu cộng sản.
 Cộng sản VN  có thể sụp đổ trong 5, 7 năm nữa nhưng cũng có thể bất thần sụp đổ trong tháng tới hay tuần tới, như đă xảy ra tại Nga sô và Đông Âu ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Vấn đề không c̣n là Cộng sản sẽ sụp đổ hay không. Mà vấn đề là người quốc gia, trong đó có cộng đồng hải ngoại chúng ta đă sẵn sàng để góp phần vào công việc phục hưng đất nước trong thời kỳ hậu cộng sản hay chưa? 
                                                        Hè 2004
                                                        Nguyễn Bá Cẩn
                                        Cựu Chủ Tịch Hạ Nghị Viện và
                                        Thủ Tướng Chính Phủ VNCH  
 

Xin vui ḷng liên lạc với  butvang@yahoo.com  về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương
Copyright © 2004 Anh Duong Online
Last modified: 08/10/06