|
Hai
căn bệnh trầm kha của giáo dục Việt Nam: nói trễ và nói dối |
|
Trần Trung
Đạo |
Sinh viên, học sinh
Việt Nam vẫn nghĩ khẩu hiệu: "V́ lợi ích mười năm trồng cây, v́ lợi ích trăm
năm trồng người" là nguyên tác bất hủ của ông Hồ. Thật ra, câu nói đó lấy ư
từ câu "Nhất niên chi kế, mạc như thọ cốc, thập niên chi kế, mạc như thọ
mộc, bách niên chi kế, mạc như thọ nhân," nghĩa là: "Kế hoạch cho một năm,
không ǵ bằng trồng lúa, kế hoạch cho mười năm, không ǵ bằng trồng cây, kế
hoạch cho trăm năm, không ǵ bằng trồng người" trong văn học Trung Quốc. Dù
sao, sau hơn nửa thế kỷ trồng người, nền giáo dục xă hội chủ nghĩa tại Việt
Nam, ngoài việc sinh ra các t́nh trạng mà Giáo sư Hoàng Tụy gọi là "nguy
kịch" như chạy theo bằng cấp, bằng giả, học giả, làm luận án thuê v.v., c̣n
gây ra hai căn bịnh rất phổ biến trong xă hội Việt Nam, theo tôi, c̣n trầm
trọng và khó chữa trị hơn nhiều, đó là bịnh nói trễ và nói dối.
Trẻ con trung b́nh vào
khoảng hai, ba tuổi là bắt đầu tập nói. Nếu đến bốn tuổi mà chưa nói được,
đứa bé sẽ bị xem như mắc triệu chứng nói trễ (Autism Spectrum Disorders).
Nghe đâu nhà bác học Albert Einstein cũng từng mắc phải triệu chứng này.
Theo các tài liệu y khoa, đây không phải là căn bịnh làm chết người, nhưng
vẫn là một mối lo canh cánh bên ḷng các bậc cha mẹ khi nghĩ đến việc con
ḿnh không biết nói. Chúng ta không hiểu được nỗi ḷng của các em bé, nhưng
chắc các em cũng khổ tâm ghê lắm khi không nói được một cách b́nh thường như
những đứa trẻ khác. Nếu quư vị vào Internet để t́m các tài liệu về triệu
chứng Asperger hay Autism Spectrum Disorders, quư vị sẽ có cơ hội đọc hàng
trăm câu chuyện cảm động của các bà mẹ chia sẻ với nhau niềm vui khi lần đầu
nghe con gọi tiếng "mẹ ơi" gọn gàng, suôn sẻ.
Tôi không biết Việt
Nam có bao nhiêu em bé bị mắc phải triệu chứng nói trễ, tuy nhiên, phát biểu
trễ, trong đó tính chung cả nói và viết, th́ rất đông. Đông đến nỗi, khi có
một em phát biểu được những ǵ em suy nghĩ, ai nấy đều xem đó như một hiện
tượng lạ, không những cha mẹ em mừng, anh chị của em mừng, bà con em mừng,
mà tám chục triệu đồng bào trong nước và cả hai triệu người Việt ở hải ngoại
cũng mừng theo. Đó là trường hợp của em Nguyễn Phi Thanh, học sinh lớp 11A18
trường THPT Việt Đức, Hà Nội. Có một điểm khác nhau giữa bịnh Autism
Spectrum Disorders và nói trễ ở Việt Nam, trong lúc Autism Spectrum
Disorders là do sự phát triển chậm của khu vực nói trong hệ thần kinh trẻ
em, bịnh nói trễ ở Việt Nam là do nền giáo dục xă hội chủ nghĩa gây ra và
tồn tại không chỉ trong trẻ em mà cả trong nhiều người lớn tuổi.
Nhận xét của em Phi
Thanh về đề thi "Giới thiệu vẻ đẹp của tác phẩm Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc"
đă được báo chí trong và ngoài nước đăng tải khá nhiều, tôi chỉ trích một
đoạn ngắn: "Em nghĩ, đứng trước một tác phẩm văn học bao giờ cũng có ư kiến
trái ngược khen-chê, hay-dở nhưng dường như học sinh bọn em chỉ có quyền
thích, chỉ có quyền khen hay mà không có quyền nói lên chính kiến của ḿnh,
và việc phê b́nh văn học h́nh như chỉ là việc của các nhà phê b́nh. Phải
chăng v́ tư tưởng bảo thủ này mà suốt 63 năm qua, văn thơ của chúng ta chưa
được "mới"? Nh́n ra, chỉ ra cái hay của một tác phẩm văn học đă khó, nhưng
chỉ ra cái hạn chế, thiếu sót của tác phẩm ấy c̣n khó hơn nữa, vậy mà chưa
bao giờ bọn em được tỏ rơ chính kiến của ḿnh trong một bài thi cả, tất cả
chỉ v́ áp lực điểm số."
Tại các quốc gia tiên
tiến, một học sinh lớp 11 viết những câu như thế th́ không có ǵ đặc biệt.
Năm ngoái nơi tôi ở, một học sinh cũng lớp 11 chẳng những viết mà sau đó c̣n
đưa cả Thống đốc và Sở Giáo dục Tiểu bang ra ṭa với tội vi phạm hiến pháp
chỉ v́ số lượng học sinh trong lớp em học đông hơn số lượng mà Bộ Giáo dục
quy định. Việt Nam th́ khác, viết được như Phi Thanh là một biến cố lịch sử,
chưa từng xảy ra, nói chi đến chuyện đưa nhà nước ra ṭa. Học sinh Phi Thanh
viết "Em có thể chắc chắn rằng trong số mười học sinh như em th́ có chín
người cũng không thích tác phẩm này," điều đó cũng có nghĩa em may mắn nói
được c̣n chín em kia vẫn c̣n mắc phải triệu chứng nói trễ.
Sự đồng t́nh của nhiều
người, nhiều giới, trong đó có một số người đang làm công tác giáo dục, về
bài viết của em Phi Thanh, chứng tỏ sự khát khao, chờ đợi của người dân dành
cho một tiếng nói trung thực, một phản ứng tích cực thay v́ rập khuôn một
cách thụ động theo dấu chân của Đảng trên con đường ṃn giáo dục xă hội chủ
nghĩa như năm chục năm qua. Đó là một dấu hiệu tốt. Ít ra, mỗi ngày có thêm
nhiều người ư thức rằng cuộc vận hành của lịch sử là một chuyến tàu không
bao giờ chạy ngược và không dừng lại lâu ở một sân ga nào mà luôn hướng đến
một sân ga mới, mang theo hành khách mới với hành trang và ước vọng riêng
cho thời đại họ. Những khái niệm, phạm trù được xem như là chân lư cách đây
nửa thế kỷ có thể không c̣n đúng nữa. Xă hội ngày nay không phải là xă hội
của năm mươi năm trước. Những suy tư, trăn trở, lo âu, ước vọng, đam mê của
thế hệ trẻ ngày nay cũng hoàn toàn khác với thế hệ cha anh, và v́ thế, mục
đích lẫn phương pháp giáo dục phải thay đổi một cách thích nghi theo nhu cầu
thời đại.
Lấy bài "Văn tế nghĩa
sĩ Cần Giuộc" làm ví dụ. Không ai phủ nhận giá trị lịch sử của tác phẩm, đặc
tính anh hùng cách mạng của nghĩa sĩ Cần Giuộc cũng như tinh thần bất khuất
của cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu, tuy nhiên, buộc các em, các cháu học sinh phải xúc
động theo cách xúc động của ông bà các em khi đọc những câu như "Tiếng phong
hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi
tinh chiên vấy vá đă ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ" hoặc "Chùa
Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm ḷng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn
Lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo ḍng nước đổ" th́
không đúng. Thất bại của hệ thống giáo dục là không làm cho các thế hệ ngày
nay rung động được cái rung động của người xưa bằng ngôn ngữ của thời đại
các em, không làm dấy lên trong ḷng thế hệ măng non một t́nh yêu nước trong
sáng như t́nh yêu nước trong ḷng của các bậc tổ tiên, ông bà các em. Yêu
nước ngày nay đồng nghĩa với yêu chủ nghĩa xă hội, nhưng chủ nghĩa xă hội là
ǵ, giống ai, h́nh dáng ra sao, mập ốm thế nào th́ ngay cả ông Tổng bí thư
cũng không h́nh dung được, nói chi là các em học sinh lớp 11.
Nền giáo dục vẹt như
thế tồn tại trong xă hội Việt Nam từ bao nhiêu năm qua đă giết chết mọi mầm
mống sáng tạo tự nhiên trong con người. Tôi nhớ những ngày c̣n học ở Đại học
Kinh tế sau 1975 như một sinh viên chế độ cũ chuyển sang, ngồi nghe một cán
bộ giảng dạy tŕnh bày về toàn bộ lịch sử phát triển của nhân loại từ vượn
đến người không khác ǵ một câu chuyện khoa học giả tưởng. Lư do, trong suốt
bài giảng ông không dựa vào một kết quả nghiên cứu khoa học hay một công
tŕnh khảo cứu giá trị nào, mà chỉ lập lại gần như nguyên văn bài viết dài
chưa đến hai mươi trang, "Quá tŕnh chuyển biến từ vượn thành người" của
Engels, trong Tuyển tập Mác-Engels. Trong vỏn vẹn hai chục trang sách thôi,
Engels đă phác họa toàn bộ nguồn gốc nhân loại như đă chính mắt ḿnh trông
thấy. Rằng ngày xửa ngày xưa, có một bầy vượn đi kiếm ăn, v́ nhu cầu thực
phẩm nên phải leo trèo, hai chân trước v́ vậy đă phát triển để thích nghi
với việc hái nên dần dần biến dạng ra cái mà chúng ta gọi là hai tay. Trong
lúc hai chân sau v́ sử dụng như là những điểm tựa nên vẫn được gọi là hai
chân v.v. Và thủy tổ con người đă h́nh thành không khác ǵ một cuốn phim
hoạt họa thế đó. Tuy nhiên, tác phẩm nầy, cùng với các tác phẩm kinh điển
khác của các lănh tụ Đảng, được đảng viên các cấp tôn kính tuyệt đối, và là
nền tảng của hệ thống giáo dục tại Việt Nam. Bất cứ tác phẩm nào viết về
nguồn gốc loài người được xuất bản tại các quốc gia cộng sản đều trích dẫn
hay tập trung chung quanh câu chuyện kể lại từ hai chục trang nầy. Lư do là
v́ Engels viết. Mặc dù không phải là nhà khảo cổ học hay nhân chủng học,
nhưng Engels, người bạn vĩ đại và cảm động của Mác, viết th́ phải được xem
như là chân lư, không cần thiết phải chứng minh. Từ những người làm công tác
giáo dục, nhà văn, nhà báo, cho đến các lănh đạo đảng và nhà nước, đều say
mê trích dẫn các tác phẩm của Mác, Engels, Lenin một cách chân thành và
trịnh trọng. Không một giáo án, giáo tŕnh, diễn văn, tham luận, tuyên ngôn,
tuyên cáo nào mà không trích dẫn vài câu nói của họ. Văn bản nào không có
trích dẫn những "lời dạy" của các lănh tụ cộng sản th́ văn bản đó bị coi như
không có giá trị ǵ. Sự nô lệ trí thức, v́ vậy, như là một loại vi trùng
sinh sôi và lan rộng trong từng con người, qua nhiều thế hệ, xói ṃn và tàn
phá tính khai phóng, làm thui chột tính sáng tạo trong con người.
Trong lúc bịnh nói trễ
dù sao cũng tùy trường hợp mỗi người, bịnh nói dối là cả một hệ thống, dối
có chủ trương, dối có sách vở, dối có tổ chức. Đó chính là một hậu quả tai
hại khác của nền giáo dục xă hội chủ nghĩa tại Việt Nam nói riêng và các
nước xă hội chủ nghĩa nói chung. Vài ví dụ về hậu quả tai hại của tính nói
dối tại nước cộng sản đàn anh Trung Quốc. Trong tác phẩm Cuộc đời riêng tư
của Chủ tịch Mao Trạch Đông (The Private Life of Chairman Mao), bác sĩ Lư
Chí Thỏa kể lại nhiều câu chuyện về bịnh nói dối tại Trung Quốc trong giai
đoạn Bước tiến nhảy vọt và Công xă nhân dân. Một lần, Mao đi thăm tỉnh Hồ
Bắc, để chứng minh tỉnh ḿnh vượt chỉ tiêu lúa gạo, viên bí thư tỉnh chỉ thị
nông dân dời cả những thửa ruộng nằm sâu trong làng ra sát đường rầy xe lửa
để gây cho Mao ấn tượng là mùa màng đang dư dả. Lúa được dời, nhiều khi
trồng quá sát nhau đến nỗi dân địa phương phải đặt quạt điện bốn góc ruộng
để thổi không khí vào cho thông, nếu không lúa sẽ chết trước khi xe lửa của
Mao chạy ngang. Một phụ tá của Mao nói riêng với bác sĩ Lư rằng tất cả các
con số thống kê lúa gạo đều là giả v́ không có đất nào có có thể thu hoạch
được mỗi mẫu hai chục hay ba chục ngàn cân thóc. Tương tự, sản phẩm được sản
xuất từ những nhà máy luyện kim của công xă mà bác sĩ Lư gọi mỉa mai là "ḷ
luyện kim sau hè" đều vô dụng. Sắt thành phẩm tŕnh lên Mao chẳng qua là sắt
thật, mang đến từ nhà máy luyện kim hiện đại. Không cần phải là nhà khoa
học, nhà kỹ thuật, mà những người b́nh thường với một chút kiến thức căn bản
cũng biết rằng những nồi niêu xoong chảo dù nấu chảy ra cũng không thể biến
chúng trở lại thành sắt thép. Thế nhưng các ủy viên trung ương đảng, các ủy
viên bộ chính trị và gia đ́nh họ cũng tích cực tham gia xây dựng các "nhà
máy luyện sau hè," đến nỗi đêm nào khu vực Trung Nam Hải, nơi ở và làm việc
của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, cũng sáng rực v́ lửa của nồi nấu
chảy các đồ dùng bằng thiếc, kẽm trong nhà. Tất cả các lănh tụ cao cấp đều
không ai dám b́nh luận điều ǵ. Tiếng nói duy nhất phát ra trong giai đoạn
nầy là của Mao. Cho đến một ngày, chính Mao cũng cảm thấy có điều ǵ đó bất
ổn đang xảy ra và thắc mắc, "Tại sao Anh, Mỹ, Liên-Xô phải xây dựng những
nhà máy luyện kim khổng lồ và tốn kém, chẳng lẽ họ ngu hơn dân Trung Quốc?"
Thật ra chính Mao mới là người ngu và cả nước phải ngu theo. Hậu quả của sự
ngu xuẩn và dối trá đó là cảnh chết đói oan uổng của trên 30 triệu dân Trung
Quốc.
V́ hoàn cảnh, con
người phải lừa dối nhau để tồn tại. Điều đó đôi khi c̣n có thể thông cảm.
Thế nhưng một tác phẩm văn học xây dựng trên sự lừa dối và nhằm mục đích lừa
dối người khác là một điều không thể chấp nhận được. Rất tiếc, việc h́nh
thành một đội ngũ của những người viết dối để phục vụ cho chế độ, cũng là
một trong những đặc điểm của nền giáo dục xă hội chủ nghĩa.
Để chứng minh cho tính
nói dối trong văn học Việt Nam, tôi xin giới thiệu đến độc giả một đoạn văn
của nhà văn Lê Lựu viết về thành phố Boston, nơi tôi đang sống, trích trong
tác phẩm Một thời lầm lỗi và Trở lại nước Mỹ của ông, do nhà xuất bản Thanh
Niên xuất bản năm 2000.
Trước khi đánh máy lại
đoạn văn của nhà văn Lê Lựu, tôi xin giới thiệu vài ḍng về Boston, để độc
giả chưa đến hay chưa biết nhiều về thành phố lịch sử này của nước Mỹ, có
một khái niệm tổng quát về thành phố. Boston là trung tâm lịch sử và một
trong những thành phố trù phú nhất của liên bang Hoa Kỳ. Nơi đây, từ bốn
trăm năm trước đă có những di dân đầu tiên trên chiếc tàu Mayflower giong
buồm tiến vào vịnh Provincetown, Cape Cod. Tên tuổi và địa danh của những
quận như Concord, Lexington, Bunker Hill đă đi vào lịch sử vẻ vang của cuộc
chiến tranh giành độc lập từ tay đế quốc Anh. Mỗi năm, hàng trăm ngàn người
Mỹ từ khắp nơi đổ về Boston để đi dọc theo con đường vào ngày 18 tháng 4 năm
1775, ông Paul Revere đă từng cỡi ngựa đi qua từ Charlestown Neck đến
Concord, Lincoln, Lexington để báo động "Quân Anh đang đến!" Boston cũng là
thành phố kỹ thuật lớn, với hàng trăm công ty kỹ thuật cao cấp nằm hai bên
các xa lộ chung quanh thành phố, và là trung tâm giáo dục hàng đầu thế giới
với Đại học Harvard, Học viện Kỹ thuật Massachusetts (MIT), Đại học Boston,
Đại học Massachusetts và hàng chục trường đại học tên tuổi khác. Theo thống
kê năm 1990 (thời gian nhà văn Lê Lựu đến thăm), Boston có dân số là 574.282
người, với lợi tức trung b́nh của một gia đ́nh Boston khoảng 40 ngàn Mỹ kim
một năm. Giống như các thành phố lớn khác của Mỹ trong xă hội tư bản, bên
cạnh sự thịnh vượng của thành phố, Boston cũng có những người không nhà. Hai
lư do chính của t́nh trạng không có nơi ở (homelessness) là lợi tức tăng
chậm hơn tiền mướn nhà và giá nhà ở tại Boston quá cao. Mỗi năm, Thị trưởng
Boston công bố một thống kê chính thức về t́nh trạng không nhà của người dân
Boston và các biện pháp ngăn ngừa. Năm 1992, Boston có 4411 người không có
nơi riêng để ở và phải ở trong các khu nhà tạm trú (shelter) do chính phủ
cung cấp với điều kiện sống chật chội và thiếu tiện nghi hơn ở nhà riêng.
Và sau đây là đoạn văn
tả thành phố Boston của nhà văn Lê Lựu sau chuyến viếng thăm Boston của nhà
văn vào năm 1989: "Boston, thủ đô của nền văn hóa sang trọng, lịch lăm nhất
nước Mỹ. Nh́n về Boston, người Mỹ có thể vênh vang ngửa mặt ra bốn phương mà
kiêu ngạo, mà tự tin chỉ cần mặc chiếc quần soóc, chiếc áo may ô, bất kể đàn
ông hay đàn bà có thể nghênh ngang đi khắp trái đất, không thèm nh́n ai. Vậy
mà giữa băo tuyết của đêm mùa đông ngoài trời có hơn 130 ngàn người không
cửa, không nhà. Chị Liliên (bạn của nhà văn và là người làm việc ở trung tâm
cứu trợ người nghèo) nói: Con số này tự tôi và đồng nghiệp của tôi đă đi đếm
suốt đêm. Bằng mọi cách phản đối, kiến nghị lên chính phủ địa phương, chính
phủ liên bang và kêu gọi ḷng từ thiện của nhân dân, đến nay mới kiếm được
chỗ ở cho 54 ngàn người, c̣n 77.600 người vẫn đêm đêm nằm lại vườn hoa và hè
phố. Nhưng trong thực tế sẽ lớn hơn nhiều so với 77.600 v́ mùa đông năm
ngoái chúng tôi chưa đếm lại."
Và trong đoạn sau, nhà
văn Lê Lựu so sánh Boston và Hà Nội: "Ở đất nước ta nghèo túng là thế, ở thủ
đô có số dân bằng số dân Boston, mà đă ai trông thấy, đă ai đếm được con số
một ngh́n người đêm đêm lăn lóc ở lề đường, trong các vườn hoa Hà Nội! Sự
giàu sang ở Hà Nội không thể đem so sánh với Boston. Ai làm công việc đó
được coi như kẻ mắc bịnh tâm thần, kẻ dở hơi. Nhưng sự vất vưởng của con
người Boston đem so sánh với Hà Nội cũng là giữa trời và vực."
Nếu những dữ kiện của
nhà văn Lê Lựu viết ra là đúng th́ Boston, thành phố đầy kiêu hănh của nước
Mỹ, trong mùa đông đă có gần một phần tư dân số phải chịu cảnh màn trời
chiếu đất. Số người do chị Liliên nào đó và các bạn chị đếm cao hơn con số
do Thị trưởng Boston công bố gấp 30 lần! Con số của chị Liliên chỉ cần đúng
một nửa thôi, chẳng những Thị trưởng Boston mất chức, Thống đốc bang
Massachusetts mất chức, mà cả Tổng thống Mỹ cũng phải từ chức v́ nạn đói năm
Ất Dậu ở Việt Nam h́nh như đang tái diễn ngay tại quốc gia cường thịnh nhất
thế giới này. Chị Liliên (tạm cho là một nhân vật có thật), trong tư cách là
người làm việc cho một cơ quan xă hội và hẳn nhiên am tường t́nh trạng không
nhà, đào đâu ra con số vô cùng khủng khiếp và phi lư đến thế? H́nh ảnh 130
ngàn người lay lắt trong một thành phố với diện tích 125 cây số vuông như
Boston, ngay cả đạo diễn các phim chiến tranh thế giới, chắc cũng không nghĩ
ra. Boston, nếu quả thật như vậy, không c̣n là thành phố cảng tuyệt vời và
là quê hương của John F. Kennedy, George Herbert Walker Bush, Quincy Adams,
John Quincy Adams, Henry Wadsworth Longfellow, Ralph Waldo Emerson, Emily
Dickinson mà là Rwanda, Bangladesh, Ethiopia.
Và cho dù chị Liliên
là người có thật và thích bịa chuyện đi nữa, trong tư cách một nhà văn đă
viết nhiều tác phẩm, mang quân hàm Đại tá Quân đội Nhân dân, không phải lần
đầu tiên viếng thăm Mỹ, nhà văn Lê Lựu cũng nên có một thái độ nghi ngờ dữ
kiện cần thiết, một lư trí trưởng thành để cân nhắc và đánh giá những ǵ nhà
văn nghe, nhà văn thấy, trước khi cầm bút viết lại câu chuyện và in thành
sách. Và "một thời lầm lỡ" in thành sách rồi, khi tái bản vào năm 2000, nhà
văn cũng nên xét lại những đoạn viết dối quá lố lăng để khỏi làm tṛ cười
cho độc giả, nhất là các em du học sinh đang theo học tại Boston. Nhưng
không, nhà văn vẫn nghĩ rằng những dữ kiện lạ lùng đó là sự thật và in lại
mà không cần cắt bỏ. Nếu tác phẩm hay đoạn văn đó được dịch sang tiếng Anh,
độc giả Mỹ sẽ nghĩ sao về tư cách và tŕnh độ kiến thức phổ thông của một
nhà văn Việt Nam? Chắc chắn họ sẽ vô cùng thất vọng. Người Mỹ bỏ tiền mua vé
máy bay cho nhà văn, lo chỗ ăn chỗ ở, đưa đón, hướng dẫn tham quan, tiếp
xúc, thảo luận, không phải để nhà văn ca ngợi nước Mỹ hay chửi cha mắng mẹ
họ, nhưng chính là để nhà văn được thấy sự thật và mang về lại Việt Nam sự
thật của đời sống Mỹ, con người nước Mỹ, và qua trung gian nhà văn, các thế
hệ trẻ Việt Nam có cơ hội hội nhập vào thế giới trong tinh thần cảm thông và
đối thoại. Nhà văn may mắn được đi tham quan nước ngoài, lẽ ra nên mang về
lại nhà những tin tức khách quan, những cái mới, cái hay cái đẹp đang xảy ra
phía bên kia ô cửa của ngôi trường nhỏ hẹp, để giúp cho sinh viên học sinh
cơ hội được nh́n xa hơn, rộng hơn đến những chân trời văn minh của nhân
loại. Nếu không được như Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, th́ nhà văn cũng
không nên đào sâu thêm hận thù, ganh ghét trong ḷng người dân hai nước.
Đọc xong tác phẩm Một
thời lầm lỗi và Trở lại nước Mỹ, các em học sinh Việt Nam có thể nghĩ rằng
không chỉ Việt Nam nghèo nàn, mà ngay cả một siêu cường cỡ Mỹ cũng đang khốn
đốn v́ miếng cơm manh áo; không phải chỉ Việt Nam có những kẻ khố rách áo
ôm, mà nước Mỹ cũng đầy những cảnh đầu đường xó chợ.
Thưa nhà văn, thời đại
của "trăng Trung Quốc tṛn hơn trăng nước Mỹ, đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng
hồ Thụy Sĩ" đă qua xa rồi. Hăy để cho các em có cơ hội được thấy những đổi
thay bên ngoài đất nước. Không có sự so sánh th́ làm sao các em biết nỗ lực
để vươn lên.
Nhà văn cũng không cần
phải bôi đen thành phố lịch sử Boston của Mỹ chỉ để chứng minh cho cái nghèo
nhưng sạch, rách nhưng thơm của Hà Nội như là "giữa trời và vực." Kỹ thuật
tự khen ḿnh bằng cách bêu xấu đối phương không phải tư cách của một người
lương thiện, và tương tự, hạ thấp giá trị của thành phố nhà văn đang thăm
viếng chỉ để biện hộ cho cái mặc cảm nghèo nàn của một thành phố Việt Nam
không phải là cách viết của một nhà văn trưởng thành và thái độ của một con
người lịch sự. Hà Nội không cần nhà văn ca ngợi hay binh vực bằng phương
cách đó. Trong trái tim của mỗi người Việt Nam, dù trong nước hay ngoài
nước, Hà Nội tuy nghèo, Hà Nội tuy xưa, Hà Nội tuy cũ, nhưng Hà Nội vẫn uy
nghi như một trung tâm văn hóa lịch sử bốn ngh́n năm của dân tộc Việt Nam.
Nếu ai nói khác hay khinh thường Hà Nội, không đợi đến nhà văn đứng ra bảo
vệ mà tám chục triệu người, trong đó có kẻ viết bài này, sẽ làm công việc
đó. Ca ngợi Hà Nội như cách của nhà văn chẳng khác ǵ trét bùn lên một bức
tranh tuyệt mỹ.
Độc giả sẽ thắc mắc,
làm thế nào một nhà văn như đại tá Lê Lựu lại có thể viết những chuyện xa
vời thực tế như thế. Câu trả lời chắc sẽ dành cho nhà văn mặc dù những tham
luận, bút kư có khả năng giết người vẫn nhan nhản trong xă hội cộng sản, sá
chi là chuyện vài con số tuyên truyền. Với tôi, câu trả lời rơi vào một
trong hai trường hợp, nếu chị Liliên không nói th́ chính nhà văn đă viết dối
và nếu chị Liliên không biết đếm th́ nhà văn là người không có khả năng phân
biệt sự khác nhau giữa giả dối và thành thật. Và dù trường hợp nào, thủ phạm
cuối cùng chịu trách nhiệm cho sự dối trá vẫn là nền giáo dục xă hội chủ
nghĩa tại Việt Nam.
Chúng ta thường lo âu
về những t́nh trạng chậm tiến về khoa học kỹ thuật, nghèo nàn lạc hậu về
kinh tế, nhưng nghĩ cho cùng, cái nghèo đói trí thức, nghèo đói tinh thần,
nghèo đói đạo đức tại Việt Nam c̣n trầm trọng và thúc bách hơn nhiều. Với óc
cần cù, thông minh của người Việt và cơ hội học hỏi khắp năm châu, chúng ta
không phải quá lo lắng về một nền khoa học hiện đại, một nền kỹ thuật hiện
đại. Điều đáng lo lắng nhất vẫn là làm thế nào để có những con người Việt
Nam biết sống lương thiện và thành thật, làm thế nào có được một nền giáo
dục biết đặt cơ sở trên tinh thần nhân bản, dân tộc và khai phóng thật sự
làm nền tảng cho một xă hội dân chủ pháp trị tiên tiến trong tương lai. Đó
là một cuộc cách mạng tư duy và tâm thức lâu dài.
Mới chỉ năm mươi năm
thôi mà các giá trị luân lư, đạo đức Việt Nam đă suy đồi và băng hoại đến
thế này, nếu đợi đúng "một trăm năm trồng người" xong th́ đất nước sẽ ra
sao?
Trần Trung Đạo