Làm Sao Tạo
Nên
Phát
Triển Toàn Bộ ?
Ngô
Văn Tuấn
Nguyên
Thủ tướng Vơ Văn Kiệt đă viết: “…chúng ta phải nghiêm khắc nhận trách nhiệm
về ḿnh, để nghiêm túc nh́n nhận những sai lầm chủ quan là nguyên nhân tất
yếu. Có vậy mới đủ quyết tâm đi tới. Do chậm đổi mới về tư duy, chúng ta tự
trói ḿnh trong những công thức đă bị cuộc sống vượt qua, đất nước lâm vào
cuộc khủng hoảng trầm trọng và kéo dài, gây nhiều khó khăn, thiếu thốn cho
nhân dân vốn đă từng chịu đựng bao gian khó, hy sinh trong ngót nửa thế kỷ”
(1).
Đây là
lời nghiêm khắc nhận sai lầm của một vị cựu Thủ tướng nước Cộng ḥa Xă hội
chủ nghĩa Việt Nam: Vơ Văn Kiệt. Lời nh́n nhận khuyết điểm của ông, đối với
hầu hết người Việt Nam đánh giá cao và có thể xem đó là lời chân thành từ
cuộc chiến Việt Nam, giữa hai bên cộng sản và quốc gia. Có những vấn đề sâu
thẵm trong cuộc chiến, sau hơn 30 năm rồi mới nhận thức được: tất cả đều là
người Việt Nam !!!
Muốn
thoát được thế chậm tiến và cục bộ, muốn thoát được cặp mắt của quốc tế nh́n
vào bằng sự thương hại, và Việt Nam thực sự được phát triển lên mạnh mẽ,
người Việt Nam nên suy nghĩ và nhận thức đúng đắn về cuộc diện mới trong
đầu thế kỷ 21 này. Không ai thương chúng ta bằng chính chúng ta. Nhưng cũng
không ai thù ghét chúng ta bằng chính chúng ta. Giữa thương yêu và thù hận
là trạng thái b́nh thường của con người. Người Việt Nam hăy dồn hết những
b́nh thường của con người vào những ǵ cao cả hơn, đó là dân tộc và tổ quốc
Việt Nam.
Đúng
vậy. Chỉ có dân tộc và tổ quốc Việt Nam là trên hết, là con đường tiến tới
về phía trước, và dựng xây t́nh thương bao dung rộng mở hơn. Có được t́nh
thương bao dung giữa người Việt Nam và người Việt Nam, mới có thể phát triển
được toàn bộ, và người dân có thể đóng góp tất cả công sức ḿnh cho dân tộc
và tổ quốc.
Công
việc quan trọng trong hiện tại là nhà nước Việt Nam đang vận động cổ vũ cho
những người Việt ở hải ngoại trở về đóng góp và xây dựng cho sự phát triển
của đất nước. Đóng góp cho sự phát triển và phú cường của dân tộc và tổ quốc
Việt Nam là bổn phận và trách nhiệm của mọi người Việt Nam trong và ngoài
nước, cộng sản và không cộng sản. Ai cũng biết số lượng thành đạt của người
Việt Nam ở hải ngoại, gọi là “thành phần chất xám” càng ngày càng tăng đến
khoảng 400.000-500.000 người. Đó là số lượng rất lớn nhân tài, những người
hữu dụng cho nền tảng xă hội, công nghiệp, nông - lâm - ngư nghiệp,… đặc
biệt là những nước nghèo và đang phát triển như Việt Nam.
Nhưng
có thể nói là chưa có yếu tố chính yếu, động lực tối cần thiết để thu hút
nhân tài. Số người ở hải ngoại về nước làm việc chỉ nhỏ giọt. Đó là không kể
những người Việt Nam làm cho những công ty ngoại quốc được có mặt ở Việt
Nam. Và những người về Việt Nam có tính cách thăm lại thân nhân, quê hương,
du lịch, … th́ nhiều. Nhưng họ đều có chung nhận xét, chế độ cộng sản hiện
tại chưa thể nào phát triển một cách trọn vẹn được.
Có
nhiều yếu tố đ̣i hỏi đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam nên sáng suốt và
khách quan nhận định. Phải nhận định một cách khách quan, và sửa đổi triệt
để mới có thể phát triển được trọn vẹn. Những đề nghị sau đây là phần đầu,
và c̣n những phần kế tiếp, nếu muốn nhân dân ngoài và trong nước tin tưởng:
1.
Đừng nên nói những việc không đúng sự thật. Nói được th́ phải làm được.
Muốn
cho sự thu hút nhân tài dễ dàng và cho sự phát triển được trọn vẹn, nhà nước
Việt Nam cần nên làm cho dân chúng tin tưởng, và cần nhất là thực hiện được
những điều ǵ đă nói ra. Nói ra được, mà làm không được, hoặc làm nửa chừng
rồi bỏ, hoặc chỉ hứa hẹn, th́ làm sao dân chúng tin tưởng được. Dân chúng
trong nước không tin tưởng nhưng không dám nói, hay nếu có cũng dùng lời nhẹ
nhàng, kín đáo, mà không dám đụng đến công an, đảng viên, cán bộ… Các người
trong nước như những chuyên viên, kư giả… họ lúc nào cũng nói tốt, v́ đó là
nghề nghiệp, nồi cơm của họ. C̣n người ngoài nước th́ tự do, muốn nói ǵ th́
nói, nhiều khi lại c̣n thêu dệt thêm.
Những
việc đó kéo dài đến hiện nay có thể như bức tường dầy mù mịt che kín đảng và
nhà nước. Từ Phan Thúy Thanh đến Lê Dũng, lần lượt là phát ngôn viên của Bộ
Ngoại giao Việt Nam chỉ được phép nói những ǵ mà nhà nước cộng sản cho
phép, mà không dám nghĩ điều đó đúng hay không đúng. Thí dụ,
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Lê Dũng nói ở Việt Nam
không có vấn đề đàn áp tôn giáo, không có việc cưỡng bức bỏ đạo, và không
có ai bị giam giữ v́ lư do tôn giáo. "Việc ban hành và đưa vào thực hiện
những văn bản pháp quy mới đây về tôn giáo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
các chức sắc, tín đồ tôn giáo, trong đó có đồng bào các dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên, thực hành đức tin của ḿnh phù hợp với pháp luật." Nhưng nhiều
tổ chức tôn giáo nói chính văn bản pháp quy mới là để tăng cường
sự kiểm soát của nhà nước đối với sinh hoạt tôn giáo. (2)
Đây là
vấn đề mà các nước trên thế giới đều biết, đó là nhân quyền và tôn giáo Việt
Nam. Sự kiểm soát gắt gao của nhà nước đối với các sinh hoạt tôn giáo ở
trong nước không c̣n là hiện tượng lạ. Từ lâu cộng sản Việt Nam đă cho thành
lập các tôn giáo yêu nước để thay thế hoặc triệt tiêu các tôn giáo nào ngoài
sự chi phối của đảng và nhà nước cộng sản. Nhưng việc làm này chỉ uổng phí
công sức. V́ tôn giáo là linh hồn, là tinh thần, là niềm tin của con người,
nhất là con người Việt Nam. Con người rất cần thiết để tĩnh tâm và hướng về
chỗ linh thiêng hơn.
Do đó
khi nhà nước muốn nhân quyền, tôn giáo có thể ḥa hợp với chế độ hiện tại,
th́ phải cho đối thoại và thực hành nhiều hơn nữa. Nhưng không phải chỉ có
một chiều, mà nhiều chiều hướng khác nhau. Làm được như vậy là nhà nước tạo
nên sự dung ḥa và hợp tác cần thiết. Khi có sự Dung Hợp rồi th́ mọi chuyện
khác sẽ tuần tự đến mà thôi.
2.
Phải đối xử công bằng và b́nh đẳng với người Việt Nam ở hải
ngoại.
Từ lâu
tất cả ai ai cũng biết, những người Việt Nam ở hải ngoại đều bị đảng và nhà
nước cộng sản Việt Nam đối xử như người nước ngoài, mà không xem thuần túy
là người Việt Nam. Do đó nếu muốn người Việt Nam ở hải ngoại, đặc biệt là
thành phần trí thức và doanh nghiệp, từ nay trở về Việt Nam được đối xử một
cách công bằng và b́nh đẳng để đóng góp xây dựng đất nước, yêu cầu đảng và
nhà nước nên trước nhất rơ ràng hơn về chính sách và thực hiện các kế hoạch,
công tác một cách tích cực và thành khẩn hơn.
Ngày
13-5-2005 Thứ trưởng Bộ Ngoại
giao Nguyễn Phú B́nh, Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, đă
cho đăng cuộc phỏng vấn của điện báo Đảng cộng sản
Việt Nam về “Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị tạo nên chuyển biến mới trong
công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”. Trong đó, có đoạn như: “… Thứ
ba, công tác vận động cộng đồng được thúc đẩy mạnh mẽ theo tinh thần đại
đoàn kết dân tộc, lấy mục tiêu độc lập dân tộc, dân giàu nước mạnh, xă hội
công bằng dân chủ và văn minh làm điểm tương đồng, chấp nhận những quan điểm
khác nhau miễn là không trái với lợi ích chung của dân tộc; không phân biệt
quá khứ, chính kiến hướng tới tương lai, mọi người Việt Nam ở trong và ngoài
nước miễn là mong muốn đóng góp vào mục tiêu trên th́ đều có chỗ đứng trong
khối đại đoàn kết dân tộc…..” (3)….
Lời
nói nghe rất hay, nhưng quan trọng là thực hiện. Đảng và nhà nước cộng sản
hăy thực hành các biện pháp này trước, người Việt Nam ở hải ngoại đang trông
về các biện pháp đó. Nếu đảng và nhà nước thực hiện được, người Việt Nam ở
hải ngoại hoan nghênh và sẽ đóng góp sức lực vào công cuộc tái thiết và phát
triển đất nước.
Trong
cuộc phỏng vấn của điện báo Người Viễn Xứ, Gs. Trần Thanh Vân (Giám
đốc Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Pháp) đă trả lời
rằng: “Tôi thấy Chính phủ cần có những chính sách cụ thể và thống nhất trong
việc thu hút nhân tài. Dù ta rất cởi mở, thân thiện, trân trọng nhưng phải
bằng những việc làm thiết thực. Các nhà khoa học kiều bào ít nhiều đều có uy
tín với giới khoa học trên thế giới. Vậy khi kêu gọi họ về nước th́ không
thể xem họ như những người được đào tạo ở trong nước. Cần phải trao cho họ
một vị trí xứng đáng, có ‘thực lực’, và như vậy họ mới xem đó như một vinh
hạnh, mới thấy được trân trọng. Bên cạnh đó, điều kiện làm việc và nghiên
cứu cũng rất quan trọng đối với các nhà khoa học. Chất xám của họ phải có
điều kiện để thể hiện. Chẳng hạn với một nhà khoa học trẻ, mất bao nhiêu năm
tu nghiệp ở nước ngoài, tốn kém khá nhiều tiền của, trở về nước lại không
được làm đúng với chuyên môn của ḿnh th́ họ sẽ dễ nản ḷng và thấy phí hoài
cho vốn tri thức của ḿnh.” (4)
Ngoài ra có ông Hoài
Nguyên (Cali, Mỹ) cũng viết trên điện báo Người Viễn Xứ: “Tại
sao Chính phủ Việt Nam không nghĩ rằng, công bằng cho mọi người Việt Nam dù
sống trong hay ngoài nước, đều có quyền b́nh đẳng như nhau và quyền có tài
sản như những người Việt Nam
tại quê nhà ? Nếu như Việt kiều có quyền có tài sản tại Việt Nam th́ họ sẽ
về Việt Nam nhiều hơn và họ sẽ bỏ tiền vào Việt Nam nhiều hơn, tạo công ăn
việc làm nhiều hơn và tinh thần ḥa giải dân tộc sẽ lên cao hơn, sẽ có nhiều
người cùng nh́n về tương lai hơn và cùng ủng hộ khép lại quá khứ, đưa đất
nước Việt Nam ngày một giàu mạnh, thanh b́nh hơn.
Thiết
nghĩ, người Việt Nam sống ở nước ngoài có quyền có tài sản tại Việt Nam, th́
sẽ có một số người về đ̣i lại tài sản mà họ bị mất đi và do nhà nước quản lư
phân phát cho cán bộ nhà nước, th́ cũng không phải là một gánh nặng cho
chính phủ một khi lợi nhiều hơn hại. Bất quá nhà nước trả lại tài sản hay
đền bù theo giá hiện tại cho những người đă bị nhà nước tịch thu, hay quản
lư chỉ tốn chừng vài chục triệu USD nhưng về mặt chính trị, xă hội, đời
sống, tư tưởng sự đoàn kết và cùng nh́n về tương lai sẽ mạnh mẽ vô cùng, đem
lại hàng tỷ USD trong tương lai. Vậy tại sao Chính phủ không thực hiện những
điều cần thiết - sửa đổi những điều chưa hợp lư trong luật pháp của Việt Nam
hiện nay đối với người dân Việt Nam trong nước cũng như người dân Việt Nam
sống xa tổ quốc…” (5).
Hỏi
tức là trả lời, nhà nước chưa có thời giờ để sửa sai những điều cần thiết,
chưa có thời giờ để nhận thức và sửa đổi những điều chưa và không hợp lư
trong hiến pháp và luật pháp của Việt Nam đối với người dân sống xa đất
nước, và chưa có người dám phê b́nh những việc làm sai trái của nhà nước… !
Nếu
nhà nước nhận chân được sự việc, nhất là sau 30 năm, đừng bao giờ để người
Việt Nam ở hải ngoại cứ nghĩ và cho rằng: đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam
cướp chính quyền, chiếm đoạt tài sản, nhà cửa của họ; xem họ là những người
của ngoại quốc, không c̣n là người Việt Nam; những trí thức ở hải ngoại qua
Việt Nam rốt cuộc cũng không thể chịu đựng nỗi, và những người về đầu tư,
thương măi cũng bị hết luật lệ này đến luật lệ khác, v.v…
Khi
nhận thức ra “khúc ruột ngàn dặm”, mọi sự việc dù trể, nhưng cũng c̣n hơn
không !!!
3.
Khuyến khích các hoạt động hai chiều giữa trong nước và
ngoài nước.
Cần
nên khuyến khích các hoạt động hai chiều giữa người Việt Nam trong nước và
ngoài nước. Điều đó có nghĩa là người không cộng sản ở nước ngoài, và người
cộng sản ở trong nước, nên giao dịch cho có sự hài ḥa và thông cảm với nhau
nhiều hơn để cùng nhau tạo nên sức bậc đưa đất nước phát triển. Nhưng đến
nay nhà nước Việt Nam chỉ cho sách báo, văn hóa phẩm, văn nghệ, triển lăm,
v.v… được xuất khẩu ra nước ngoài, mà không cho nhập vào những văn hóa phẩm
của người Việt Nam ở hải ngoại. Làm như vậy là nhà nước cấm đoán chiều hướng
tự do ở hải ngoại chuyển tải vào Việt Nam, và làm như vậy nhà nước công nhận
gần như đương nhiên là: Việt Nam hiện tại hoàn toàn không có tự do dân chủ.
Thứ
trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phú B́nh viết trong bài Tiêu Điểm: “3.
Quan tâm hơn nữa đến đời sống tinh thần, tâm linh, văn hóa của người Việt
Nam ở nước ngoài. Thường xuyên cung cấp cho bà con những thông tin về t́nh
h́nh mọi mặt ở trong nước và những sản phẩm văn hóa mà kiều bào mong muốn
được hưởng thụ thông qua các kênh thông tin như đài truyền h́nh, báo điện
tử, trang web, sách báo…; Đồng thời, khuyến khích các hoạt động giao lưu hai
chiều về văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao giữa các tổ chức, cá nhân
người Việt Nam trong nước và ngoài nước, giúp cho cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài luôn giữ được bản sắc văn hóa riêng của dân tộc” (6). Và “… chấp
nhận những quan điểm khác nhau miễn là không trái với lợi ích chung của dân
tộc; không phân biệt quá khứ, chính kiến hướng tới tương lai…” (7).
Hoạt
động giao lưu văn hóa hai chiều là điều rất tốt. Nhưng tại sao lại có sự cấm
đoán chiều thứ hai là những văn hóa phẩm ở hải ngoại chính thức đem về trong
nước ? Những sách báo (lăng mạn, đồi trụy), phim ảnh (khiêu dâm, t́nh dục) ở
trong nước là lành mạnh ? Nhà nước có biết những thứ đó bây giờ đă trở thành
gần như tự nhiên rồi không ? Hiện nay nếu có đi dạo phố những thành phố lớn
ở Việt Nam, không dám nói là hầu hết các tỉnh, đều thấy các sách báo, video,
dvd, v.v… bán đầy ở đó. Bán không được chính thức th́ bán lậu…
Dĩ
nhiên có luật pháp, nhưng luật pháp làm sao kiểm soát nổi số lượng quá nhiều
như vậy. Do đó, những văn hóa phẩm lành mạnh, học làm người, sách báo… là
những thứ cần thường xuyên phổ biến với dân chúng. Tốt nhất là cho tự do báo
chí, v́ như vậy báo chí mới có thể phanh phui, vạch trần những điều xấu xa,
bẩn thỉu, hối lộ, tham nhũng, phản luân thường đạo lư, v.v… và những chuyện
thương tâm, nghèo khó, v.v… Những điều vạch trần tệ nạn của xă hội, là chỉ
mong đóng góp phần nào của báo chí truyền thông mà thôi. C̣n xử lư các việc
là do phần hành của nhà chức trách.
Những
điều mà Thứ trưởng Nguyễn Phú B́nh đă viết, là những bức xúc, trăn trở của
người Việt Nam phải sống xa quê hương. Giờ đây người Việt Nam ở hải ngoại
muốn phổ biến những văn hóa phẩm bằng ngôn ngữ thân thương mà bấy lâu nay
vẫn ấp ủ… Nơi hải ngoại khi viết ra những tác phẩm, muốn t́m người đọc để
thưởng thức là chuyện không phải dễ dàng.
Như
vậy, nếu nhà nước chấp thuận cho văn hóa phẩm ở bên ngoài vào Việt Nam, sẽ
mở ra một luồng gió mới vào làm tươi mát lại những cỏ khô gần bốc cháy. Đó
chính là tạo ra một nhịp cầu để nhân dân cùng thi đua trong nhiệm vụ mới.
Bất cứ điều ǵ có thể làm cho nhân dân từ sự cởi mở đạt đến chỗ phóng
khoáng, là bước đầy sáng tạo ra muôn ngàn ư kiến mới mẽ, và làm giàu cho
Việt Nam trong tương lai.
4.
Tham nhũng là quốc nạn, làm sao triệt tận gốc ?
Đến
ngày hôm nay ai cũng biết tham nhũng ở Việt Nam là quốc nạn !!! Tham nhũng
đă đục phá, xói ṃn những ǵ xây dựng được mang lại lợi ích tốt đẹp cho đất
nước. Tham nhũng đă tạo nên những đường dây từ trên xuống dưới, từ dưới
xuống trên, và chằng chịt thêm các tệ nạn khác. Và những tệ nạn này đă và
đang gây ra biết bao cảnh trái luân thường, bất công, không c̣n ǵ là đạo
lư… Nhưng tại sao không thể diệt được ?
Nguyên
Tổng bí thư đảng cộng sản Lê Khả Phiêu đă trả lời báo Tuổi Trẻ ngày
25-5-2005: “Theo tôi, cuộc pḥng chống tham nhũng của
chúng ta có kết quả, có răn đe song chưa triệt được tận gốc. Mà chưa triệt
tận gốc th́ nó lại x́ chỗ này, chỗ khác và x́ trầm trọng hơn. Trầm trọng hơn
ở chỗ: tham nhũng không phải một người mà trở thành đường dây từ dưới lên
trên, từ trên xuống dưới. Ḿnh trị chỗ này, chỗ này chựng lại một chút; trị
chỗ kia, chỗ kia chựng một chút. Nhưng số tinh vi đông hơn nhiều, nó che
chắn thành dây, ḿnh khó phát hiện.” (8).
Ts. Lê
Bỉnh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phân bộ Hà Nội, viết trong
bài “Đấu tranh Khắc Phục Tư Tưởng và Lối Sống Thực Dụng” trong tạp chí Xây
Dựng Đảng: “…Song, bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ đảng viên không tích cực
tu dưỡng, rèn luyện, dẫn đến tha hóa về tư tưởng chính trị và đạo đức lối
sống, biểu hiện rơ ở tư tưởng thực dụng và lối sống thực dụng, chỉ lo vun
vén lợi ích cá nhân, xem nhẹ lợi ích tập thể và lợi ích xă hội; chỉ quan tâm
đến lợi ích trước mắt, cục bộ không quan tâm đến lợi ích lâu dài, toàn cục;
tham vọng quyền lực, chạy cấp, chạy chức, chạy quyền, chạy tội…; lợi dụng
chức quyền tham ô công quỹ, chiếm dụng đất đai nhà cửa, vật tư của xă hội;
bất chấp kỷ cương, luật pháp, buôn lậu, trốn thuế; che giấu khuyết điểm,
thổi phồng thành tích, báo cáo sai sự thật với cấp trên để mưu cầu danh lợi,
địa vị; tùy tiện đạt ra chế độ chi tiêu, trang thiết bị ngoài chế độ; lập
quỹ đen, gây phe cánh; đưa người thân vào những cương vị nắm vật tư, tài
chính để dễ bề lũng đoạn. Trong quan hệ với cấp trên
th́ những người đó xu nịnh, bợ đỡ, không dám đấu tranh, đóng góp ư kiến;
trong quan hệ đồng chí, đồng đội, bạn bè th́ chỉ tận dụng những quan hệ nào
có lợi cho bản thân ḿnh, xa lánh những người gặp khó khăn, bất hạnh trong
cuộc sống. Trong quan hệ công tác, mất dần tinh thần tương trợ hợp tác, thay
vào đó là lối tính toán thiệt hơn, vụ lợi, chỉ muốn đề bạt, bổ nhiệm những
người cùng phe cánh để bảo vệ, che chắn cho ḿnh. Trong hoạt động kinh tế,
xă hội th́ say sưa chạy theo dự án, miễn là có dự án để có ‘hoa hồng’ cho
ḿnh, bất chấp hiệu quả kinh tế, xă hội của dự án đó thế nào. Trong quan hệ
với người nước ngoài th́ bị lóa mắt trước sức mạnh của đồng tiền, đă vi phạm
quy tắc, mưu cầu lợi ích cá nhân, làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc,
v.v… Lối sống trên đă làm cho tham nhũng ở nước ta trở thành quốc nạn…” (9)
Và Ts. Nguyễn Sĩ Dũng, Phó chủ nhiệm
Văn Pḥng Quốc Hội, đă viết trên VietNamNet ngày 13-6-2005: “Với mục tiêu
chống tham nhũng, vấn đề quan trọng nhất là lựa chọn được giải pháp lập pháp
vừa có hiệu quả vừa có tính khả thi.
Tôi đă nói về việc làm luật trước đây trên
VietNamNet Nhận định.
Các giải pháp của
chúng ta rất nhiều, nhưng nếu chúng ta không có đủ thời gian, không có đủ
nguồn tài chính, không có đủ tŕnh độ chuyên môn, kỹ thuật để triển khai,
th́ đề ra nhiều giải pháp chưa chắc đă có ích ǵ. Vậy phải xác định, đâu là
giải pháp chính? Đâu là mắt xích trung tâm? Phải gỡ được mắt xích trung tâm
th́ mới hy vọng xử lư được các mắt xích khác.
Tham nhũng là vấn đề rất khó, cả thế
giới cũng chưa nước nào dám tuyên bố là họ đă chống được. Nếu ta bảo sẽ
chống được ngay và triệt để là vấn đề không tưởng.” (10)
Đó chỉ
là dẫn chứng một số nhận định, phê b́nh về t́nh trạng tham nhũng, lăng phí ở
Việt Nam. C̣n rất nhiều, từ trước đến nay có thể chất thành đống về hồ sơ
tham nhũng. Nhất là đă có xem qua những bài vỡ của các điện báo trong nước,
như: VietNamNet, Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Người Lao Động, Tiền Phong, Sài G̣n
Giải Phóng, Xây Dựng Đảng, Tạp Chí Cộng Sản, Đảng Cộng Sản Việt Nam, Người
Viễn Xứ, v.v… Có lẽ đảng và nhà nước Việt Nam đă thử áp dụng các biện pháp
để bài trừ, nhưng vô hiệu. Vô hiệu, v́ những tay tham nhũng gộc đang ẩn núp
dưới tàng cây dù lớn, và bóng mát đă chằng chịt khắp nơi, khắp mọi ngành… mà
không thể nào triệt được tận gốc.
Muốn
triệt được tham nhũng, và đem lại tinh thần với nguồn sống Việt Nam đầy sinh
khí mới, chúng tôi gồm những người có khả năng, trí thức, có chức
vụ cao và chuyên môn, nhiều kinh nghiệm và nhiệt huyết, đă có nghiên cứu và
tham khảo về các t́nh trạng ở Việt Nam. Chúng tôi rất tự tin, có thể làm
được việc đó, khi được bổ túc thêm những ư kiến từ phía người Việt Nam và
chính quyền ở trong nước.
Diệt
tham nhũng không phải là việc dễ dàng, chúng tôi rất đồng ư với Ts. Nguyễn
Sĩ Dũng, đâu là giải pháp chính ? đâu là mắt xích trung tâm ? Con đường
triệt hạ tham nhũng sẽ phải kéo dài từ tháng này qua năm khác, và có thể
triệt hạ được một phần lớn, chứ không thể triệt được hết. V́ nếu chính quyền
không đủ mạnh, th́ tham nhũng sẽ bộc phát sống trở lại, và như cũ. Do đó đ̣i
hỏi chính quyền của người Việt Nam nên sáng suốt với ư chí và cùng quyết tâm
hỗ trợ cho việc làm này. Chúng tôi có thể thi hành và thực hiện được, v́:
·
Đây là
việc làm cho dân tộc và tổ quốc Việt Nam. Khi công tác hoàn thành, chúng tôi
nhất quyết thối lui, không giữ một chức vụ nào trong chính quyền.
·
Khi muốn
diệt tham nhũng, yêu cầu chính quyền cho người thi hành và thực hiện được sử
dụng quyền hạn lớn hơn mới có thể áp dụng các biện pháp một cách hữu hiệu và
thích nghi.
·
Chính
quyền nên hỗ trợ nhiệt thành và cung cấp các phương tiện, như xác định, nghị
quyết, … khi cần thiết.
·
Phải cho
truyền thông, báo chí và toàn thể nhân dân cùng giúp đỡ khi công tác được
triển khai. Họ là cánh tay nối dài trước và sau các nguồn tin, sự kiện ...
·
V.v….
Đây là
những ưu tư của hầu hết những người Việt Nam có tâm huyết muốn cho đất nước
được phát triển và tiến lên cùng với thế giới trong thế kỷ 21. Thời gian 30
năm qua đă vằng vặt những người Việt Nam ở hải ngoại, vật chất không thiếu,
nhưng tinh thần lại thiếu. Có tiếp xúc và làm việc với những người ngoại
quốc, các tổ chức và cơ quan quốc tế, mới thấy được trong ánh mắt của họ:
nước Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu,
tham nhũng, độc quyền, không có dân chủ, v.v… Như vậy nếu muốn đất nước Việt
Nam thật sự phát triển, th́ trước hết chính quyền nên biết được điều đó, và
phải tận diệt cho được tham nhũng.
5.
Muốn tận diệt tham nhũng, phải có đối lập và triệt để dân
chủ.
Nguyên
Tổng bí thư Lê Khả Phiêu: “Dân chủ trong đảng chưa được phát huy mạnh mẽ
th́ không thể thúc đẩy được dân chủ trong xă hội…”(11).
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh viết trong bài ‘Vấn đề cơ chế quản trị xă hội và nhà
nước’: “Nhược điểm lớn nhất của thể chế chính trị của chúng ta là ǵ ? Là
chế độ đảng trị, chuyên chế và mất dân chủ rất nặng nề. Trong đảng có dân
chủ chưa ? Tôi từ năm 71 đến nay là theo các cụ, đầu tiên là theo cụ Phạm
Văn Đồng, cụ Nguyễn Duy Trinh, theo cụ Đỗ Mười, rồi theo cụ Nguyễn Văn Linh,
sau đó về làm anh nghiên cứu cải cách, thực chất tôi thấy chưa có dân chủ.
Bây giờ nói rất thật là việc phê b́nh, tự phê b́nh trong Bộ Chính trị. Nói
thẳng, nói thật th́ sợ mất ḷng nhau…”; “… rồi đảng cũng tiến tới chấp nhận
có những ư kiến khác nhau, đảng phải chấp nhận sự thảo luận, sự tranh luận.
Hồi tôi làm cho anh Linh, v́ nhiều lư do, rất tiếc lúc bấy giờ đă có hai
quyết định là cho Đảng Dân Chủ, Đảng Xă Hội tự giải thể…” (12)
Chữ
‘rất tiếc’ mà Ts. Lê Đăng Doanh sử dụng ở đây, hàm chứa một nội dung vô cùng
chính xác với t́nh thế hiện tại, v́ ông là người biết đảng cộng sản rất rơ.
Khi có quyết định để đi đến tự giải thể hai đảng dân chủ và đảng xă hội, là
đă rơi vào thế không c̣n đối lập nữa, và đảng cộng sản trở thành độc quyền
kể từ đó. Theo Ts. Lê Đăng Doanh: “…Tốt nhất là nên có một lộ tŕnh, xây
dựng được một lộ tŕnh để mà định ra hướng đổi mới, định ra hướng kiện toàn,
cải cách thể chế chính trị và đi vào thực chất. Có những bước đi cụ thể và
hành động từng bước một” (13).
Pgs.
Trần Đ́nh viết trong tạp chí Xây Dựng Đảng: “…Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam
cũng xác định: Đảng hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật.
Đảng lănh đạo nhà nước, nhà nước làm hiến pháp và pháp luật nhưng đảng và
nhà nước lại phải tự đặt ḿnh dưới hiến pháp và pháp luật. Nghị quyết Đại
hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đă ghi: Mọi cơ quan, tổ chức, cán
bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật….”
(14)
Trong khi đó ông Robert Broadfoot,
Giám đốc điều hành Tổ chức Tư vấn
về Rủi ro chính trị và Kinh tế (PERC),
cho đài BBC biết: “Khi nói tới Việt Nam thì chúng ta phải chú ý
tới một điều là, trong hệ thống cộng sản chủ nghĩa, đảng cộng
sản được coi là đứng trên pháp luật. Điều này dẫn tới những mâu
thuẫn trong lĩnh vực luật pháp.” (15).
Trong
tam quyền phân lập (lập pháp, hành pháp, tư pháp), hiến pháp và luật pháp là
quyền rất quan trọng mà mọi công dân bắt buộc phải tôn trọng. Đó là quyền
hành xử của xă hội dân chủ, của tổ quốc Việt Nam, chứ không phải của riêng
đảng cộng sản. Bất cứ một người nào khi phạm tội, dù những người có chức vị
cao nhất nước, cũng bị cán cân công lư xử phạt. Do đó trong hệ thống cộng
sản, đảng cộng sản lại tự coi như có quyền trên hiến pháp và luật pháp, là
điều mà người Việt Nam không cộng sản không thể chấp nhận được. V́, điều lệ
đảng cộng sản nói thế này, trong khi các đảng viên làm thế khác. Nhất là
ngày nay Việt Nam đang sửa soạn bước vào cộng đồng thế giới, th́ chắc chắn
những việc mâu thuẫn, trống đánh xuôi kèn thổi ngược, là điều xảy ra thường
xuyên.
Như
vậy, phải có một lộ tŕnh định ra hướng tiến tới, hiến pháp và luật pháp
phải cho minh bạch. Đó là một thể chế chính trị thuần túy đặt lợi ích của
dân tộc và tổ quốc Việt Nam lên trên hết, và phù hợp với các nước trên thế
giới.
Trong
chiều hướng đó có một đảng phái đối lập thực sự là điều vô cùng cần thiết.
Đối lập là để nói lên nguyện vọng đ̣i hỏi, yêu cầu của toàn dân trước các
vấn nạn của đất nước Việt Nam. Một chính quyền dù tốt đẹp đến mấy đi nữa,
lúc nào cũng có bề trái của nó. Bề trái đó đẹp hay xấu, có nói lên được
trước công chúng hay không ? có làm cho chính quyền đương nhiệm lưu ư tới và
có sửa đổi những điều cần thiết hay không ? có đóng góp được ǵ cho sự tiến
triển của đất nước hay không ? v.v… Có cho đối lập trong quốc hội, hoặc hội
họp, hoặc từ tỉnh đến địa phương… được tự do phát biểu những ư kiến, những
nguyện vọng đ̣i hỏi,… th́ đó là việc làm vô cùng đứng đắn, và trong chiều
hướng đi lên của đất nước.
Khi có
đối lập, là phải có “sự khác biệt” trong chính quyền hiện hữu: dám đối thoại
và hành động thực tiễn. Để nhà nước độc quyền, là nhà nước rơi vào thế ỷ
lại, độc tài, xem thường dư luận, coi như không c̣n ai nữa, và nhất là không
thể tiến bộ được. V́ không ai dám nói, phê b́nh những hành động của chính
quyền. Vậy đối lập là tiếng nói đích thực nguyện vọng của nhân dân và làm
cho chính quyền lớn mạnh hơn trước.
Khi
đối lập có tiếng nói chính thức, và qua đối thoại hoặc hành động chỉ trích,
công kích những việc làm sai trái của chính quyền. Nếu chính quyền vẫn tiếp
tục như vậy, th́ hội đồng sẽ cho đ́nh chỉ, bất tín nhiệm hoặc băi nhiệm
chính quyền, và cho bầu cử lại. Chắc chắn chính quyền sẽ phải lo sợ và
nghiêm chỉnh làm cho tốt hơn.
Được
như vậy, nguồn sống của đất nước Việt Nam sẽ hồi sinh, và chắc chắn nhanh
chóng và mạnh mẽ phát triển. Hầu hết người Việt Nam trong và ngoài nước đều
mong muốn và sẵn sàng phục vụ cho đất nước.
Có
điều kiện để tiến tới dân chủ, và trước tương lai tương đối khả quan của đất
nước, cần phải có quyết tâm nỗ lực nhiều hơn. Sẽ mời gọi các nước trên thế
giới, các cơ quan quốc tế, … đầu tư và hỗ trợ cho Việt Nam nhiều hơn nữa.
Những cơ quan quốc tế của các nước trong Liên Hiệp Âu Châu, Bắc Mỹ, … bấy
lâu nay họ cũng chờ đợi dịp này.
Kết Luận:
Từ
trước đến nay các yêu sách của người Việt Nam ở hải ngoại đ̣i hỏi nhà nước
làm thế này làm thế nọ th́ nhiều, mà không đưa ra các giải pháp, hoặc kế
hoạch nào làm lợi ích cho dân chúng và đất nước Việt Nam. Do đó lần này
không những đưa ra các đề nghị cho nhà nước tham khảo, mà c̣n đưa ra biện
pháp hoạch định tận diệt tham nhũng, và đổi mới thiết thực t́nh trạng hiện
nay để từ đó tiến lên dân chủ. Dĩ nhiên sau biện pháp này, sẽ có biện pháp,
kế hoạch khác.
Nếu
nhà nước Việt Nam nhận thấy đường lối yêu cầu này đứng đắn, tốt hơn hết là
nhà nước nên cho ban hành ngay để triển khai công tác. Cần nhất là ra thông
cáo, hoặc nghị quyết, để xác định hướng đi lên, và cho mọi người Việt Nam
cùng biết là nhà nước Việt Nam hiện nay đang trọng dụng những người này, và
tham nhũng là ưu tiên trước hết phải tận diệt. Đây là việc làm rất quan
trọng, nói lên sự quyết tâm của nhà nước Việt Nam. Chắc chắn nhân dân sẽ
hưởng ứng với nhà nước, và cùng thúc đẩy việc làm này.
Quan
trọng nhất ở lời nói đi đôi với việc làm. Đây là thái độ rơ ràng dứt khoát
muốn tiến lên của đất nước. Và nhất là đối xử với nhân dân Việt Nam bằng
t́nh thương bao dung rộng mở, chứ không phải bằng hăm dọa, lật lọng, quyền
lực…
Cần
nên ra sức kêu gọi mọi người yểm trợ, và cho thành h́nh ngay phong trào tận
diệt tham nhũng. Phải cùng nhau tiêu diệt quốc nạn này, và cùng nhau tiến
lên !!!
Chúng
tôi nói được th́ chắc chắn sẽ làm được.
Ghi chú:
1.
Vơ Văn Kiệt, Đảng gắn bó
máu thịt với dân, Tạp chí Xây Dựng Đảng và Tuổi Trẻ 29-4-2005.
2.
BBC, Việt Nam bác bỏ báo
cáo về nhân quyền, 25-5-2005 của Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế.
3.
Nguyễn Phú B́nh, Nghị
quyết 36 của Bộ chính trị tạo nên chuyển biến mới trong công tác đối với
người Việt Nam ở nước ngoài, Đảng cộng sản Việt Nam 13-5-2005.
4.
Tố Phương, CHÍNH SÁCH
THU HÚT NHÂN TÀI: Chất xám Việt kiều: Nguồn “tài nguyên” vô giá của đất
nước,
Người
Viễn Xứ
21/05/2005.
5.
Hoài Nguyên, Công bằng
cho mọi người, dù đang ở đâu !, Người Viễn Xứ 24-5-2005.
6.
Nguyễn Phú B́nh, Tiêu
Điểm, Đảng cộng sản Việt Nam 13-5-2005.
7.
Nt.
8.
Lê Khả Phiêu, Chống tham
nhũng: Phải tự xem lại bản thân ḿnh !, Tuổi Trẻ 25-5-2005.
9.
Lê Bỉnh, Đấu tranh khắc
phục tư tưởng và lối sống thực dụng, Xây Dựng Đảng 5-2005.
10.
Nguyễn
Sĩ Dũng, Chống tham
nhũng: Đừng quá ôm đồm..., VNN
13-6-2005.
11.
Lê Khả Phiêu, Phát huy
được dân chủ là nguồn lực vô tận, Tuổi Trẻ 22-5-2005.
12.
Lê Đăng Doanh, Vấn đề cơ
chế quản trị xă hội và nhà nước, Tài liệu 9-3-2005.
13.
Nt.
14.
Trần Đ́nh, Phương thức
đảng lănh đạo nhà nước, Xây Dựng Đảng 6-2005.
15.
BBC,
Việt Nam gần đội sổ về hệ thống luật
pháp,
6-6-2005.