Saigon
Nhỏ ngày 10.6.2005
Tú Gàn
Khi Đồng Minh tháo chạy
Trong mấy tuần qua, sau khi nghe các đài BBC, VOA, RFI, RFA, Little
Saigon Radio... và một số báo ở Orange County giới thiệu cuốn “Khi Đồng
Minh tháo chạy” của Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, rất nhiều người đi t́m
để mua, kể cả những người ở trong nước. Nhiều người đă gọi điện thoại cho
chúng tôi hỏi ư kiến về cuốn sách đó. Những người chưa đọc hỏi chúng tôi
cuốn sách viết ǵ và có nên mua hay không. Những người đă đọc rồi hỏi
chúng tôi nghĩ ǵ về cuốn sách đó? Có phải Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng viết
cuốn sách này để biện minh cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu hay không?
Chúng tôi đă được tác giả tặng tác phẩm nói trên trước khi ra mắt lần
đầu ở Orange County và sau khi đọc cuốn sách, chúng tôi đă có dịp thảo
luận với tác giả về một số vấn đề. Nhưng c̣n rất nhiều vấn đề cần được t́m
hiểu hay thảo luận thêm.
VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ
Ông Nguyễn Tiến Hưng du học Hoa Kỳ từ 1958, đậu Tiến Sĩ Kinh Tế và dạy
môn kinh tế tại một số trường đại Học Hoa Kỳ từ năm 1963. Từ 1966 đến
1970, ông là kinh tế gia của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế. Năm 1973, ông về làm
Tổng Trưởng Kế Hoạch của chính phủ VNCH và là Phụ Tá về Tái Thiết của Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu, phụ trách việc điều phối viện trợ kinh tế trên
toàn quốc.
Khoảng một tháng trước khi miền Nam sụp đổ, Tổng Thống Thiệu đă giao
cho ông toàn bộ hồ sơ mật về bang giao Việt - Mỹ trong thời gian từ cuối
1971 tới tháng 4 năm 1975.
Theo lệnh Tổng Thống Thiệu, ngày 14.4.1975, ông đi Washington để cùng
với Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc và Đại sứ Trần Kim Phượng cầu viện lần
chót. Nhưng v́ t́nh h́nh chiến trường biến chuyển quá mau lẹ, khi ông tới
Washington th́ đă quá muộn. Mặc dầu vậy, với những liên hệ riêng tư trong
gần hai mươi năm sống ở Hoa Kỳ, ông t́m cách vận động Quốc Hội Mỹ giúp cứu
văn t́nh thế, nhưng không thành công.
Sau ngày 30.4.1975, khi miền Nam vừa sup đổ, ông công bố hồ sơ mà Tổng
Thống Thiệu đă trao cho ông với những bằng chứng không thể chối căi về sự
phản bội của chính phủ Hoa Kỳ và kêu gọi tới lương tâm của nhân dân Mỹ, từ
báo chí, Quốc Hội, đến Hành Pháp, để họ chấp nhận cứu vớt các người di tản
từ Việt Nam đang đổ ra Biển Đông.
Trong thập niên 1990, ông làm Cố Ván cho Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và
Ngân Hàng Thế Giới (WB) về nhiều dự án chuyển đổi kinh tế và cứu đói giảm
nghèo, kể cả tại Việt Nam sau đổi mới. Hiện ông là Giáo sư trường Đại Học
Howard tại Washington DC.
SƠ LƯỢC NỘI DUNG CUỐN SÁCH
Năm 1986, Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng đă cùng với ông Jerrold L.Schecter
(nguyên Phụ Tá Giám Đốc Báo Chí Toà Bạch Ốc, và Phát Ngôn Viên của Hội
Đồng An Ninh Quốc Gia) viết và xuất bản cuốn The Palace File
(Harper & Row Publishers), sau đó được dịch ra tiếng Việt là “Hồ Sơ Mật
Dinh Độc Lập”. Cuốn sách này đă gây nhức nhối cho chính phủ Hoa Kỳ
không ít. Nhật báo New York Times của Hoa Kỳ đă đưa cuốn này vào danh sách
các tài liệu mà chính giới và ứng cử viên Tổng Thống Mỹ cần phải đọc.
Có thể nói, cuốn “Khi Đồng Minh tháo chạy” (KĐMTC) là
cuốn “Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập” (HSMDDL) được viết lại với một số tài
liệu mới được tác giả nghiên cứu và bổ túc thêm. Trong bài tựa của cuốn
KĐMTC, tác giả cho biết về sự khác biệt giữa hai cuốn sách này như sau:
Trong khi HSMDĐL hướng trọng tâm vào những bí ẩn xoay quanh Hoà Đàm
Paris, th́ cuốn KĐMTC đào sâu hơn các bằng chứng cụ thể phơi bầy sự tráo
trở đổi ngược chính sách khi đại cường đồng minh Mỹ bắt tay được với Trung
Quốc, tới những biến chuyển trong thời gian sau Hiệp Định, dẫn đến sự suy
sụp kinh tế, quân sự và chính trị của tiểu quốc Việt Nam Cộng Hoà;
Trong khi HSMDĐL được viết cho độc giả quốc tế, nhất là những người
trong chính quyền, báo giới Mỹ, và các nhà nghiên cứu lịch sử, th́ cuốn
KĐMTC nhắm vào đại chúng, nhứt là người Việt Nam. Với lối hành văn trong
sáng, vắn gọn, Giáo sư Hưng đă viết lại lịch sử theo lối kể chuyện, kiểu
như cuốn của David McCullough về Tổng Thống John Adams (đă thành một cuốn
sàch bán chạy best-seller), để nghiền ngẫm về một giai đoạn lịch sử rất
đau thương của những người sinh trưởng ở Miền Nam Việt Nam;
Hơn cuốn trước, cuốn KĐMTC c̣n thuật lại thật chính xác tấm thảm kịch
vào giờ VNCH hấp hối, tiết lộ những bí mật động trời chưa được phơi bầy:
thí dụ như việc Sàig̣n đă tới sát bên bờ vực thẳm, nhưng đă tránh được
thảm hoạ như một phép lạ; rồi lời nguyền rủa tàn nhẫn của ông Ngoại Trưởng
kiêm Cố Vấn Henry Kissinger đối với nhân dân Miền Nam: "Sao chúng không
chết phứt đi cho rồi?".
Về tên cuốn sách “Khi Đồng Minh tháo chạy”, tác giả cho biết:
“Nhân ngày đánh dấu mười năm sụp đổ Miền Nam (30 tháng 4, 1985), tờ New
York Times đăng câu phê phán cuối cùng của Đại Sứ Martin: "Rút cuộc,
chúng ta chỉ lo tháo chạy. Ư chí dân tộc của Hoa Kỳ đă sụp đổ" (In the
end, we simply cut and ran. The American national will had collapsed). Tôi
xin mượn một phần câu ông nói làm đầu đề cho cuốn sách này.”
Về nội dung quyển sách, tác giả đă tóm lược như sau: Sách gồm năm phần
chính:
Phần I: bàn về thời điểm và cách thức Mỹ tháo gỡ khỏi chiến trường Việt
Nam;
Phần II: nói đến thân phận một tiểu quốc muốn cố gắng vượt ra khỏi sự
lệ thuộc;
Phần III: kể lại những ǵ đă xảy ra tại Washington và Sàig̣n sau khi
quân đội Mỹ rút hết cho tới khi Miền Nam sụp đổ;
Phần IV: tŕnh bày diễn tiến vào giờ hấp hối, việc một số chính trị gia
Mỹ đă không muốn cứu vớt người Việt Nam, đặc biệt là về cơ nguy Mỹ-Việt
suưt bắn nhau; phần này cũng thuật lại một cố gắng cuối cùng của tác giả
đặt trách nhiệm tinh thần cho Hoa Kỳ đ̣i hỏi phải giúp cho ít nhất một
triệu người tỵ nạn;
Phần V: nh́n lại lịch sử để ghi nhận cho con cháu những khó khăn, chống
đối lớn lao cha ông chúng đă gặp lúc ban đầu; phần này thâu tóm một nguyên
nhân chính làm sụp đổ Miền Nam, cũng như những bài học rút ra từ cuộc
chiến cho những thế hệ tương lai của Việt Nam và các đồng minh của Hoa Kỳ
hiện đại.
"Thay Lời Kết," chúng tôi đề cập tới thiện tâm của nhân dân Hoa Kỳ, v́
sau cùng, cánh tay của đại đa số đă rộng mở, tiếp nhận đoàn người tỵ nạn
trong một thời gian trên hai thập niên.
Về lư do viết thêm cuốn “Khi Đồng Minh tháo chạy”, trong cuộc phỏng vấn
của đài VOA, tác giả cho biết:
“Tôi có 4 động cơ chính khi viết sách này. Thứ nhất, tôi muốn đặt lại
vai tṛ và trách nhiệm của Hoa Kỳ. Do cơ duyên lịch sử run rủi, tôi đă
được chứng kiến những ǵ đă xảy ra đang sau hậu trường bang giao Việt Mỹ
vào những ngày tháng cuối cùng; và nghĩ là đă đến lúc viết ra một cách
trung thực những ǵ ḿnh đă chứng kiến để soi sáng cho lịch sử.
Thứ hai: tôi muốn nói lên tiếng nói về phía Việt Nam. Rất nhiều sách đă
được viết về thời gian kết thúc cuộc chiến, phần nhiều rất là thiên lệch,
nhất là sách của các tác giả người Mỹ, họ viết theo quan điểm của họ.
Thứ ba: tôi nghĩ đặc biệt đến giới trẻ Việt Nam, họ rất hoang mang,
không hiểu rơ lịch sử, không đủ tài liệu để đọc. Nhiều em học sinh và sinh
viên viết những bài essay về Việt Nam dựa trên tài liệu của thư viện hoặc
Internet, tôi thấy có nhiều bài rất ngây ngô, thiên lệch. Tôi nghĩ rằng
nếu tiếp tục để các em viết như thế này th́ lịch sử sẽ không được trung
thực. V́ thế tôi đă cố gắng ghi lại các tài liệu bằng tiếng Anh và để
trong phần phụ lục cho các em tham khảo. Ví dụ như câu của Tiến Sĩ
Kissinger: “biết ơn không phải là đặc tính của người Việt Nam”, nếu chúng
ta để các em trích câu đó vào các bài của ḿnh th́ làm sao đúng được.
Lư do sau cùng: tôi nghĩ rằng tôi có trách nhiệm với chính cá nhân tôi
sau khi có cơ hội được gần Tổng Thống Thiệu và Đại sứ Martin trong những
ngày tháng cuối cùng, và sau năm 1975, đă được tiếp xúc rất nhiều với
hai nhân vật này, đă được nghe và ghi lại nhiều điều tâm huyết.”
NHỮNG Đ̉N PHÉP PHỦ PHÀNG
Trong cuốn cuốn KĐMTC, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng nói rằng ông đă “đào
sâu hơn các bằng chứng cụ thể phơi bầy sự tráo trở đổi ngược chính sách
khi đại cường đồng minh Mỹ bắt tay được với Trung Quốc”. Các vấn đề chính
sau đây đă được nêu ra:
- Những tranh chấp gay cấn về một số điều khoản quan trọng trong hiệp
định Paris.
- Hoa Kỳ xử dụng những đ̣n phép để ép buộc VNCH chấp nhận những điều
khoản bất lợi. Viện trợ trở thành con tin.
- Sự phản bội của Hoa Kỳ và phản ứng của Tổng Thống Thiệu.
Ngoài ra, trong cuốn KĐMTC, tác giả đă nhấn mạnh đến sự thái độ khiếm
nhả của Kissinger khi thúc buộc VNCH kư kết những điều khoản bất lợi và sự
bất nhẫn của ông ta khi thúc đẩy kết thúc cuộc di tản khỏi miền Nam càng
sớm càng tốt với lời nguyền rủa "Sao chúng không chết phứt đi cho
rồi?". Trong khi đó, Đại Sứ Martin đă cố t́nh kéo dài thời gian di tản
để giúp những viên chức VNCH đă từng hợp tác với Mỹ có thể chạy thoát được
càng nhiều càng tốt.
Đây là những vấn đề đă được Frank Snepp mô tả khá kỹ trong cuốn “Decent
Interval.” và chúng tôi cũng đă tŕnh bày trong nhiều bài trên Saigon Nhỏ,
nhất là bài “Tiển đưa Tông Tông” đăng trên Saigon Nhỏ số ra ngày
5.10.2001, khi tiển đưa Tổng Thống Thiệu về bên kia thế giới.
Thật ra, trong 20 năm tham dự vào cuộc chiến Việt Nam, Hoa Kỳ đă hai
lần ép buộc VNCH kư vào những hiệp ước hoàn toàn bất lợi, lần thứ nhất do
Averell W. Harriman thực hiện và lần thứ hai do Henry Kissinger.
Trong cả hai lần, Hoa Kỳ đều đă xử dụng những đ̣n phép phủ phảng như nhau
và đưa tới những kết quả nghiêm trọng gióng nhau.
Tổng Thống John F. Kennedy mới lên nhận chức ngày
21.1.1961, mặc dầu chưa nắm vững t́nh h́nh và chưa có chút kinh nghiệm nào
trong việc đối phó với Cộng Sản Việt Nam, ông đă nghĩ ngay đến việc giải
quyết vấn đề Đông Dương theo phương thức của ông. Kennedy chủ trương phải
h́nh thành một nước Lào độc lập và trung lập, và coi đó là “vấn đề số
phận của chính họ.” Công việc này đă được giao cho Harriman thực hiện.
Harriman là một chuyên viên về Liên Sô và Cộng Sản Đông Âu, nhưng không có
chút kinh nghiệm nào về Cộng Sản Đông Dương. Ông cho rằng trung lập hóa
Lào sẽ cắt đức đường xâm nhập của Bắc Việt vào Nam nên quyết định thực
hiện chủ trương đó bằng mọi giá. Tổng Thông Ngô Đ́nh Diệm và ông Ngô Đ́nh
Nhu đă phản đối chủ trương này rất dữ dội. Sau nhiều cuộc tranh luận gay
cấn và kéo dài, cuối cùng Harriman đă nói với Tổng Thống Diệm: “Thưa
Tổng Thống, tôi có “cảm nghiệm tường tận” (fingertips feeling) rằng Liên
Sô sẽ thi hành các thỏa ước này và làm cho những người khác tuân theo thỏa
ước đó. Tôi không thể đưa ra cho ngài bất cứ bảo đảo nào, nhưng có một
điều rơ ràng là: nếu ngài không kư hiệp ước này, ngài sẽ mất hết viện
trợ. Ngài
phải chọn.”
Harriman cho rằng việc thuyết phục Sài G̣n khó hơn việc thuyết phục Hà
Nội nhiều. Ngày 23.7.1962, Hiệp Ước Ḥa B́nh tại Lào đă được kư kết. Nhưng
sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ rút khỏi Lào, Bắc Việt chẳng những không ngưng
xâm nhập mà c̣n gia tăng mức độ xâm nhập táo bạo hơn. V́ thế, các nhà quân
sự gọi đường ṃn Hồ Chí Minh là Xa Lộ Harriman (The Averell Harriman
Highway). Chính những sự chống đối chính sách Harriman của chính phủ Ngô
Đ́nh Diệm đă đưa Harriman đến quyết định lật đổ và giết chết Tổng Thống
Ngô Đ́nh Diệm.
Trong cuốn “The Secret History of the CIA” của Joseph J. Trento
mới xuất bản (2005) có ghi lại cuộc phỏng vấn ông William R. Corson, một
nhân viên CIA cao cấp tại Sài G̣n năm 1963. Ông Corson cho biết chính
Harriman đă ra lệnh lập đổ và giết chết Tổng Thống Ngộ Đ́nh Diệm và ông
Ngô Đ́nh Nhu. Ông ta đă tự ư hành động, khộng hề tham khảo ư kiến
của Tổng Thống Kennedy hay Bộ Trưởng Tư Pháp. Phật Giáo trở thành công
cụ.
Dầu sao, những sự kiện đưa tới quyết định bỏ rơi miền
Nam vẫn c̣n nhiều bí ẩn. Trong lời nói đầu của cuốn KĐMTC, Giáo sư Nguyễn
Tiến Hưng cũng xác định như vậy. Ông nói: Một tác giả nổi tiếng khác, ông
Leslie Gelb trong cuốn The Irony of Vietnam: The System Worked, đă viết:
"Câu chuyện về chính sách Việt Nam dưới thời Richard Nixon và Gerald Ford
là một chủ đề quan trọng…, nói về việc Hoa Kỳ đă rút ra chứ không phải đă
nhảy vào Việt Nam như thế nào… (thế nhưng) những
nguồn tài liệu cần thiết để phân tích giai đoạn từ sau 1968 chắc sẽ không
có được trong một thời gian nữa."
Trong tháng 3 vừa qua, cơ quan CIA đă công bố thêm 174 văn kiện mới
được giải mă, nhưng chúng tôi thấy đây chỉ là những văn kiện phân tích về
t́nh h́nh quân sự và viện trợ của khôí Cộng Sản cho Bắc Việt từng năm cho
đến ngày miền Nam mất mà thôi, chứng không có văn kiện nào nói đến những
thảo luận về việc bỏ rơi miền Nam của chính phủ Hoa Kỳ. Trong khi chờ đợi
những tài liệu mật c̣n lại được giải mă, chúng tôi xin có một vài nhận
định như sau:
KHÔNG
CÓ CHUYỆN THÁO CHẠY
Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng cho biết ông đă đặt tên cuốn sách của ông là
“Khi Đồng Minh tháo chạy” dựa trên câu nói của Đại Sứ Martin:
"Rút cuộc, chúng ta chỉ lo tháo chạy. Ư chí dân tộc của Hoa Kỳ đă sụp
đổ" (In the end, we simply cut and ran. The American national will
had collapsed). Nhưng sau 15 năm sống ở Mỹ và nghiên cứu về chính sách của
Mỹ, chúng tôi tin rằng không hề có chuyện “Đồng Minh tháo chạy” (cut and
run) như Đại Sứ Martin đă nói. Chúng tôi tin rằng đây chỉ là một kiểu cách
làm ăn của người Mỹ, hay nói đúng hơn đây là kiểu cách làm ăn của Tư
Bản Mỹ. Cách làm ăn đó sẽ được lặp đi lặp lại nhiều lần. Cuộc chiến
tranh Việt Nam trước đây và cuộc chiến tranh Iraq hiện nay cho chúng ta
thấy rơ điểu đó.
Trong bài “Nghệ thuật ôm cẳng” đăng trên Saigon Nhỏ số ra
ngày 13.2.2003, chúng tôi đă viết: “Đứng đàng sau mỗi đảng là những nhóm
đại tư bản. Các nhóm này chia nhau quyền lợi trong nền kinh tế của nước
Mỹ. Họ không chủ trương thanh toán nhau để tranh giành địa vị và quyền lợi
như dưới thời Việt Nam Cộng Ḥa hay trong chế độ CSVN hiện nay, mà chủ
trương thỏa hiệp (compromise). Họ thỏa thuận với nhau về thời kỳ mà mỗi
nhóm được hưởng, hết nhóm này đến nhóm khác...” Chúng tôi thấy rằng thời
kỳ của mỗi nhóm được hưởng quyền lợi thường kéo dài khoảng 8 năm, tức hai
nhiệm kỳ tổng thống.
Sau khi lật đổ và giết chết Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, ngày 2.8.1964 Hoa
Kỳ tạo ra biến cố tàu Maddox trên Vịnh Bắc Việt để bắt đầu can thiệp trực
tiếp vào chiến tranh Việt Nam, mở màn cho các nhóm Tư Bản Quốc Pḥng làm
ăn. Khi hết thời hạn hưởng lợi của Tư Bản Quốc Pḥng mà cuộc chiến Việt
Nam vẫn chưa giải quyết được, người Mỹ vẫn rút quân. Vấn đề miền Nam có
tồn tại được hay không là tùy thuộc vào chính quyền miền Nam có biết lợi
dụng thời kỳ Mỹ tham gia chiến tranh để tạo cho ḿnh một thế đứng vững
vàng hay không. Hoa Kỳ đă thất vọng về chính quyền miền Nam, nhất là sau
cuộc Hành Quân Lam Sơn 719 vào đầu năm 1981, nên đă quyết định bỏ miền
Nam. Kư giả Daniel Ellsberg có tiết lộ rằng sau khi kư hiệp định Paris
ngày 27.1.1973, Kissinger đă nói với ông rằng sau khi Mỹ rút khỏi miền Nam
khoảng 2 năm, miền Nam sẽ mất!
Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng có vẽ cay cú với ông Kissinger, nhưng chúng
tôi tin rằng viên chức Mỹ nào được trao nhiệm vụ của Kissinger cũng sẽ làm
như ông mà thôi, không thể làm khác hơn được.
Khi thời kỳ của Tư Bản Quốc Pḥng được tái sinh, Hoa Kỳ cũng đă mở
chiến tranh Iraq bằng mọi giá với lư do Iraq có vũ khí tàn sát hàng loạt,
mặc dầu họ thừa biết chuyện đó không có, bất chấp Liên Hiệp Quốc và dư
luận thế giới. Ai cũng thấy người có thẩm quyền phát động và điều khiển
cuộc chiến Iraq hiện nay là Phó Tổng Thống Dick Cheney, người lănh
đạo một nhóm Tư Bản Quốc Pḥng, c̣n Tổng Thống Bush chỉ là con rồi.
Để chuẩn bị chấp dứt thời kỳ của Tư Bản Quốc Pḥng trong ṿng 2 năm
tới, Mỹ đang Iraq hóa cuộc chiến tranh hiện tại gióng hệt như đă
Việt Nam hóa cuộc chiến tranh Việt Nam để “rút lui trong danh dự” như
ngày xưa. Chính quyền Iraq được Mỹ dựng lên có thể tồn tại hay không,
không phải là vấn đề quan trọng.
TRÁCH
NHIỆM VỀ PHÍA VNCH
Nh́n vào các biện pháp mà Tổng Thống Thiệu đă đưa ra để đối phó với
quyết tâm “tháo chạy” (nói theo Tiến sĩ Hưng) của Đồng Minh, chúng ta thấy
ông quá yếu kém về cả quân sự lẫn chính trị, nhưng lại rất độc đoán, luôn
hành động theo ư nghĩ riêng của ḿnh, bàn hỏi chỉ là lấy lệ. Kết quả, miền
Nam bị mất quá nhanh chóng.
1.- Yếu kém về chính trị: Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng có nhận xét
như sau khi biết Hoa Kỳ muốn bỏ miền Nam Việt Nam:
“Sự bất trung trên trường quốc tế của Mỹ đă có hại cho chính nứơc Mỹ.
Tuy sau Đông Dương, không có hiện tượng các nước khác tại Đông Nam Á sụp
đổ như thuyết domino tiên đoán, nhưng đó chỉ là không có sụp đổ theo "giây
chuyền điạ dư" (geographical domino), nhưng đă có các cuộc tấn công có vẻ
coi thường nước Mỹ tại Angola, Iran, Iraq, Afghanistan, và đó là "giây
chuyền tâm lư" (psychological domino).
“Về phía VNCH, lẽ ra TT Thiệu cũng đă nên uyển chuyển, nhận thức được
sự biến chuyển về chính trị, ngoại giao của đồng minh Hoa kỳ, v́ vậy, phải
điều chỉnh lại chính sách cứng rắn "Bốn Không," t́m giải pháp hoà b́nh
thương nghị. Ngoài ra, để có thế nhân dân, ông c̣n phải làm việc với Quốc
Hội VNCH trên căn bản những ǵ đă trao đổi với Hoa Kỳ, để đại diện nhân
dân Miền Nam có thể vận động với Quốc Hội Mỹ, theo lối giao hảo giữa hai
dân tộc (people-to-people diplomacy).
“Không làm những việc trên kịp thời, Miền Nam Việt Nam trở thành nạn
nhân của những hành vi đen tối, xảo quyệt, làm ngoại giao theo lối 'anh
hùng cá nhân' của Ngoại Trưởng kiêm Cố Vấn Tổng Thống, ông Henry
Kissinger, người đă thán phục và áp dụng mô h́nh của Metternich và
Talleyrand vào đầu thế kỷ 19. Mấy chính khách này đă dùng thủ đoạn, chuyên
chế, sắp xếp lại bàn cờ bang giao giữa các quốc gia Âu châu, và làm mọi
việc trong bóng tối.”
Chúng tôi nghĩ rằng ông Thiệu không có khả năng t́m một giải pháp chính
trị để tránh cho miền Nam khỏi bị mất v́ những lư do sau đây:
Lư do thứ nhất: Ông Thiệu và nhóm tay chân thân tín của ông
không đủ khả năng nhận định t́nh h́nh để nắm vững chính sách và đường lối
của cả Đồng Minh lẫn phe địch.
Ngày 29.3.1973 đơn vị chiến đấu cuối cùng của Mỹ rút khỏi miền Nam,
chấm dứt 10 năm can thiệp bằng quân sự của Mỹ vào Việt Nam. Ngày 5.4.1973
Thượng Viện Hoa Kỳ với 88 phiếu thuận và 3 phiếu chống, chấp thuận tu
chánh án cấm Hoa Kỳ giúp Nam Việt Nam mà không có sự chấp thuận trước và
rơ ràng của Quốc Hội. Ngày 4.6.1973 Thượng Viện Hoa Kỳ lại thông qua đạo
luật cấm xử dụng ngân khoản cho các hoạt động quân sự trên toàn cỏi Đông
Dương. Hạ Viện cũng đă chấp thuận một đạo luật tương tự. Hai đạo luật này
cho thấy Hoa Kỳ sẽ không c̣n can thiệp quân sự vào Việt Nam nữa. Ấy thế mà
Tướng Thiệu lại chơi tṛ “tháo cáy”, bỏ Phước Long, rút khỏi Cao Nguyên và
miền Bắc Trung phần với hoang tưởng rằng Mỹ sẽ sợ và đem quân trở lại Việt
Nam! Điều này chứng tỏ ông không hiểu ǵ về t́nh h́nh ở Mỹ cả.
Tướng Thiệu cũng không hay biết ǵ tập tục vận động hậu trường tại Hoa
Kỳ mà Đài Loan, Indonesia, Do Thái, Nam Hàn... thường xử dụng để Hoa Kỳ
bảo vệ quyền lợi của quốc gia họ. Khi nào thấy có chuyện ǵ khó khăn, ông
mới gởi một phái đoàn qua nói chuyện rồi về. Kết quả thường là chẳng có ǵ
cả. Ông cũng không biết đi t́m nguồn tài trợ ở các cường quốc khác hay t́m
một giải pháp khác cho miền Nam.
Lư do thứ hai: Ông Thiệu không có đủ cái uy thế như Tổng Thống
Ngô Đ́nh Diệm và ông Ngô Đ́nh Nhu để có thể nói chuyện và t́m một giải
pháp với phía Cộng Sản. Họ coi ông như một công cụ của Hoa Kỳ, không có
quyền hành ǵ.
Chúng tôi nghĩ rằng lúc đó nếu ông Thiệu có uy thế, ông có thể nói chuyện
với Trung Cộng qua trung gian của Mỹ để t́m một giải pháp cho miền Nam
khỏi bị mất, nhưng ông hoàn toàn không có uy thế và suy nghĩ đó.
Đại Sứ Martin đă từng nhận định rằng với tiềm năng c̣n lại, VNCH không
thể giữ được tất cả lănh thổ. Nếu Bắc Việt tấn công, Hoa Kỳ không thể giúp
như đă hứa hẹn. Nhưng miền Nam có một tiềm năng chính trị mới, nếu biết
khai thác khéo léo, có thể giảm thiểu những nguy cơ chính trị của việc cắt
đất.
Lư do thứ ba:
Ông Thiệu rất sợ đảo chánh. Ông là người đă được Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
và ông Ngô Đ́nh Nhu tín nhiệm, đưa về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 để bảo vệ chế
độ, chống lại các cuộc đảo chánh. Nhưng ông đă nghe lời dụ dỗ của CIA, đem
Sư Đoàn 5 bao vây Sài G̣n và sau cùng mở cuộc tấn công vào Dinh Gia Long.
Do đó, ông cũng rất sợ nều ông đưa ra một đề nghị không hợp với ư Mỹ, Mỹ
sẽ yểm trợ cho các tướng khác lật đổ và giết ông. Ông đă tống hai sư đoàn
trừ bị là Nhảy Dù và TQLC ra đóng đồn giữ đất ngoài Quảng Trị mà vẫn không
yên tâm.
2.- Yếu kém về quân sự: Mặc dầu đă tốt nghiệp Khóa I Sĩ Quan
Trường Vơ Bị ở Đập Đá Huế từ năm 1949, đă từng làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 và 5,
và Tư Lệnh Vùng IV Chiến Thuật, ngày 1.1.1965 ông đă được thăng lên Trung
Tướng, nhưng kinh nghiệm quân sự của ông không có bao nhiêu. Ông không có
tầm nh́n chiến lược, nhưng lại không chịu nghe ư kiến của các sĩ quan có
kinh nghiệm. Ông không biết các vị trí chiến lược trên lănh thổ miền Nam
phải được bảo vệ bằng mọi giá nên đă để mất Thường Đức, Phước Long (Chiến
khu Đ) rồi Đức Lập, mở đường cho Cộng quân tràn xuống Sài G̣n bóp họng
VNCH.
Như chúng tôi đă nói ở trên, lần đầu tiên ông mở cuộc hành quân cấp sư
đoàn là đầu tháng 11 năm 1963, nhưng không phải để đánh vào các lực lượng
của Cộng quân, mà đánh vào Dinh Gia Long! Cuộc hành quân này được ông công
bố vào lúc 12 giờ trưa ngày 1.11.1963, mệnh danh là Cuộc Hành Quốc Rừng
Sát, được nói là để lục soát vùng ven đô để tránh Việt Cộng pháo kích
vào đô thành, nhung trong thực tế là đem 3 trung đoàn thuộc Sư Đoàn 5 dưới
quyền của ông về đóng tại cầu B́nh Lợi, Hàng Xanh và Bến Lức để ngăn chận
các việc binh từ ngoài về chống lại đảo chánh. Vào đêm mồng 1 rạng ngày
2.11.1963, ông đă ra lệnh cho Thiếu Tá Vũ Ngọc Tuấn, Trung Đoàn Trưởng
Trung Đoàn 7, đem 2 tiểu đoàn tấn công vào Dinh Gia Long. Sau “trận đánh
oai hùng” này, ông được vinh thăng Thiếu Tướng, c̣n các sĩ quan Sư Đoàn 5
tham dự “cuộc chiến” đều được thăng một cấp. Cuộc hành quân oai hùng này
sẽ được chúng tôi mô tả trong một bài khác.
Ngoài “cuộc hành quân oai hùng và vĩ đại” đó, Tướng Thiệu chưa bao giờ
chỉ huy một cuộc hành quân cấp sư đoàn nào.
“ĐẦU BÉ ĐÍT TO” HAY TỰ SÁT?
Trong cuốn “Khi Đồng Minh tháo chạy”, Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng
có nói qua về bản phân tích của Tướng Murray về ảnh hưởng của viện trợ đối
với vấn đề bảo vệ lănh thổ như sau:
- Nếu mức độ quân viện là 1,4 tỷ th́ có thể giữ được tất cả những khu
đông dân cư của cả bốn Vùng Chiến Thuật.
- Nếu là 1,1 tỷ th́ Quân Khu I phải bỏ.
- Nếu là 900 triệu th́ khó ḷng giữ được QK I và QK 2, hoặc khó đương
đầu với cuộc tấn công của Bắc Việt.
- Nếu là 750 triệu th́ chỉ có thể pḥng thủ vài khu vực chọn lọc, và
khó điều đ́nh được với Bắc Việt.
- Nếu quân viện dưới 600 triệu th́ chính phủ VNCH chỉ c̣n giữ được Sài
G̣n và vùng châu thổ sông Cửu Long.
Chúng tôi tin chắc rằng đây chỉ là một bản phân tích về
chi phí quân sự cần có cho việc bảo vệ lănh thổ, chứ không phải là một kế
hoạch “tái phối trí”. Tuy nhiên, với bảng phân tích này, Tổng Thống Thiệu
đă đưa ra kế hoạch “tái phố trí” được ông gọi là kế hoạch
“Đầu Bé Đít To”.
Tổng Thống Thiệu đă mời Chuẩn Tướng Ted Sarong, một chuyên viên
du kích chiến của Úc, hợp tác với Tướng Đặng Văn Quang lập kế hoạch bỏ
Vùng I và Vùng II và thiết lập một pḥng tuyến mới từ Tây Ninh đến Nha
Trang.
Tôi nhớ trong năm 1974, kế hoạch “Đầu Bé Đít To” của Tướng Thiệu đă
được tiết lộ cho giới chính trị tại Sài G̣n biết. V́ thế, đă có nhiều cuộc
thảo luận về kế hoạch này giữa một vài giới chính trị và quân sự tại miền
Nam. Sau khi nghiên cứu, tất cả đều đă đi đến kết luận: Kế hoạch đó không
thể thực hiện v́ các lư do sau đây:
(1) Nếu phải rút quân ra khỏi Vùng I và Vùng II, sẽ rút cách nào? Muốn
rút êm đẹp, phải có một hiệp định như Hiệp Định Genève năm 1954, nhưng
điều này khó thực hiện được v́ sẽ bị cả quân lẫn dân chống đối và Tướng
Thiệu sẽ bị lật đổ ngay. C̣n nếu rút quân theo kiểu “tái phối trí” về quân
sự, chắc chắn rối loạn sẽ xẩy ra. Cộng quân sẽ lợi dụng và tiến chiếm toàn
miền Nam.
(2) Sau khi rút, khó có thể lập một pḥng tuyến mới từ Nha Trang đến
Tây Ninh v́ thiếu những địa thế pḥng ngự tự nhiên. Bất cứ chỗ nào trên
pḥng tuyến này cũng đều có thể bị địch chọc thủng một cách dễ dàng.
Do đó, kế hoạch lấy Đèo Cả ở Tuy Ḥa làm ranh giới phân chia lại miền
Nam coi như bị hủy bỏ. Không ngờ sau khi Ban Mê Thuột bị mất, Tổng Thống
Thiệu đă tự ư “tái phối trí” theo kế hoạch Ted Sarong – Đặng Văn Quang,
rút quân khỏi Vùng II và Vùng I, đưa về lập tiền đồn tại Tuy Ḥa, làm sụp
đổ cả miền Nam trong ṿng chỉ có 40 ngày! Kế hoạch “Đầu Bé Đít To”
trở thành kế hoạch tự sát!
Cổ nhân dạy rằng “Cùng tắc biến, biến tắc thông”, nhưng
Tổng Thống Thiệu đă không biết biến theo kiểu của một nhà chiến lược và
chiến thuật, mà “biến” theo kiểu đàn bà giận chống đem chén bát ra đập.
Mất nước là chuyện đương nhiên.
Chúng tôi hy vọng cuốn “Khi Đồng Minh tháo chạy” sẽ giúp độc giả
hiểu rơ hơn về Đồng Minh và rút ra được những bài học hữu ích.
Tú Gàn