30 năm sau,
Giao Chỉ viết về Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu: Niên trưởng ra đi – chân lư
khôn cùng
Giao Chỉ –
San Jose 2005, Jun 09, 2005
Tháng 6-2005, nhân dịp Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng trở lại San Jose ra mắt
tác phẩm mới Khi Đồng Minh Tháo Chạy, chúng tôi xin luận bàn về niên trưởng
Nguyễn Văn Thiệu.
Ông Thiệu ra đi không để lại hồi kư Suốt 30 năm lưu vong, trừ một thời gian
xuất hiện ngắn tại San Jose, ngoài ra ông hoàn toàn kín tiếng và sống ẩn
dật. Không tiếp xúc với báo chí, không để lại các di sản cho lịch sử. Đặc
biệt về vấn nạn số một của quốc gia là câu chuyện bang giao với Hoa Kỳ trong
các năm cuối cùng không hề được ghi lạị Niên trưởng Nguyễn Văn Thiệu ôm lấy
chuyện đau ḷ̣ng của đất nước như chuyện của riêng ông. “Mối sầu ôm xuống
tuyền đài chưa tan.”
V́ vậy, mọi dữ kiện bên trong hậu trường, chúng ta chỉ c̣̣n trông cậy vào
hai tác phẩm của tác giả Nguyễn Tiến Hưng. Từ cuốn Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập
lại xuất bản năm 1986 cho đến cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy xuất bản năm
2005.
Nói về cuộc đời và lịch sử, người Ba Lan đă có câu ví von rất đặc biệt. Họ
nói là chân lư của lịch sử cũng như một củ hành. Càng bóc vỏ càng hăng, và
sau cùng là khuôn mặt đầy nước mắt.
Củ hành đă làm ta cay mắt hay là người viết sử khóc cho nỗi đoạn trường của
cả một dân tộc.
Hai mươi năm trước, tác giả Nguyễn Tiến Hưng ra mắt cuốn Hồ Sơ Dinh Độc Lập
tại San Jose vẫn có người chống đối ông Nguyễn Văn Thiệu đă đến đặt vấn đề.
Hai mươi năm sau, những sôi nổi của thời sự đă lắng đọng. Ông Thiệu không
c̣̣n nữạ Cuốn sách thứ hai của giáo sư Nguyễn Tiến Hưng được đón nhận nồng
nhiệt ở khắp nơi.
Cuốn sách nhắc lại một câu hỏi của 30 năm trăn trở. Tại sao Việt Nam Cộng
Ḥa lại xụp đổ. Và câu trả lời dứt khoát: Bởi v́́ đồng minh tháo chạỵ
Trong suốt 21 năm chia đôi đất nước từ 54 đến 75, miền Nam xây dựng hai nền
Cộng Ḥ̣a hoàn toàn lệ thuộc vào Hoa Kỳ từ mọi phương diện. Từ quân sự,
chính trị, xă hội, kinh tế đến văn hóa và giáo dục.
Đặc biệt là chiến tranh càng khốc liệt th́́ sự lệ thuộc càng nặng nề. Nhu
cầu chiến phí quân viện trở thành yếu tố then chốt vượt lên trên cả tinh
thần chiến đấu và đường lối hành quân.
V́́ vậy, khi Hoa Kỳ rút quân, kư hiệp ước đem tù binh về và làm ngơ cho Bắc
Việt để lại 150 ngàn quân chiến đấu ở lại trong Nam với một hậu phương Hà
Nội an toàn. Các đường giây tiếp liệu đầy đủ với ống dẫn dầu dọc theo Trường
Sơn. Số phận miền Nam đă được Kissinger dự đoán là sẽ chỉ cầm cự được một
năm rưỡị Kissinger đă nói như vậy ngay sau khi kư hiệp ước Paris tháng
1-1973.
Đây là thời gian tính từ lúc quân lực Hoa Kỳ chính thức rời khỏi Việt Nam
chỉ để lại văn pḥ̣ng tùy viên cạnh ṭ̣a đại sứ. Theo sách của ông Hưng th́́
đây là ngày 29 tháng 3-1973.
Từ hơn nửa triệu quân tham chiến, nay chỉ c̣n lại 150 binh sĩ ở lại canh gác
ṭ̣a đại sứ và 58 ngàn tử sĩ đem về. Cho đến khi ông đại sứ cuối cùng ra đi
bằng trực thăng vào sáng 30 tháng 4-1975.
Đó là lư do tại sao chiến sử Hoa Kỳ lại có một chương viết về hội chứng Việt
Nam.
Thực ra, ngay sau khi trận chiến Mùa Hè 72 vẫn c̣̣n vang tiếng súng và hiệp
định Paris chưa bước vào giai đoạn kết thúc th́́ Ngũ Giác Đài đă chuẩn bị
cho Việt Nam Cộng Ḥ̣a cải tổ lại hệ thống Tiếp Vận.
Một toán chuyên viên cao cấp của Bộ Lục Quân đă được phái qua Sài G̣n để
cùng với Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục Tiếp Vận Việt Nam thực hiện chương tŕnh
tái tổ chức quy mô việc yểm trợ cho toàn thể quân lực. Thành lập các liên
đoàn yểm trợ trực tiếp, xây dựng các tổng kho, đồng loạt hóa việc bảo tŕ
quân du.ng.
Vào thời gian đó, chúng tôi vừa thụ huấn xong khóa Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp
tại Đà Lạt th́́ được bổ nhiệm đứng đầu tổ chức Pathfinder II với các giới
chức quản trị cao cấp của Ngũ Giác Đài gửi qua Việt Nam.
Việc cải tổ tuy hoàn tất và thành công nhưng cũng chỉ gọi là hợp lư hóa các
đường lối yểm trợ chiến trường với điều kiện phải được tiếp tục nhận quân
viện.
Một cách không chính thức ủy ban Pathfinder II chúng tôi lúc đó cùng với đại
tá Sheriff vốn là một chuyên viên Tiếp Vận chiến lược của Ngũ Giác Đài đă
ước tính là khi Mỹ rút quân th́ Việt Nam Cộng Ḥ̣a cần ít nhất hai tỷ Mỹ kim
một năm mới có thể tồn tạị Xin hiểu rằng đây là trị giá ngân sách của năm
1972.
Tuy nhiên, những bàn tính bên lề của ủy ban không bao giờ có cơ hội tŕnh
lên cho hội nghị hỗn hợp Việt – Mỹ v́́ bị coi là các đề nghị không tưởng.
Vào những ngày cuối của cuộc chiến chỉ cần xin Quốc Hội Hoa Kỳ tháo khoán
300 triệu Mỹ kim mà cũng không được cứu xét.
Qua năm 1973, hiệp định Paris kư kết th́́ t́́nh trạng Tiếp Vận của Việt Nam
đă vô cùng thiếu hụt. Một số lớn bom đạn dầu xăng và tiềm lực Tiếp Vận đă
dốc hết vào trận Mùa Hè 1972. V́́ vậy đến cuối 1974 dự trữ Tiếp Vận đă rất
bi đát. Phi cơ nằm trong băi đáp v́́ không có cơ phận thay thế. Quân xa
thiếu xăng, đại bác thiếu đạn. Tinh thần binh sĩ đă nao núng v́́ không được
yểm trợ phi pháo và tản thương đầy đủ.
Tại Bộ Tổng Tham Mưu chúng tôi vẽ sơ đồ tŕinh bày cho phái đoàn Quốc Hội
Hoa Kỳ những đường biểu diễn với các tỷ lệ nghịch đầy máu lê..
Đường biểu diễn các con số tử vong lên cao khi tiếp tế đạn dược, nhiên liệu
và thuốc men đi xuống.
Thay v́́ can thiệp viện trợ th́́ kết quả của các bài ca đau thương đó là sự
quyết tâm của Hoa Kỳ bỏ rơi luôn cho nhẹ gánh.
Đó là lư do Kissinger nói ra lời tàn nhẫn bất hủ mà tác giả Nguyễn Tiến Hưng
đă trích diễn trên b́ộ sách: “Sao chúng không chết phứt đi cho rồị”
Sự thực không phải chỉ một ḿinh Kissinger nghĩ như vậy mà chính cả Nixon và
tiếp theo là Johnson, cùng với phần lớn Quốc Hội Hoa Kỳ cũng nghĩ như thế.
Trong hoàn cảnh của thời điểm đầu thập niên 70, Kissinger chỉ là bàn tay đao
phủ của nước Mỹ. Dù cho bắt nguồn từ bất cứ lư do nào th́́ người dân Mỹ nói
chung đều muốn bỏ Việt Nam bằng mọi giá. Quốc Hội Mỹ quay lưng lại Việt Nam
là chỉ làm theo dân sự Hành pháp từ tổng thống xuống đến các Bộ Quốc Pḥng,
Ngoại Giao thảy đều cùng đồng ḷ̣ng tháo chạỵ
Lẽ dĩ nhiên chúng ta không phủ nhận là một số lớn các tướng lănh, các sĩ
quan cao cấp Hoa Kỳ, các cố vấn Mỹ đă từng sát cánh với Việt Nam Cộng Ḥa
đều nhận thấy sự phản bội vô trách nhiệm của hành pháp và lập pháp Hoa Kỳ.
Ngoài ra, trong giới ngoại giao, ông đại sứ Martin là trường hợp đặc biệt đă
tận tụy với Sài G̣̣n cho đến ngày giờ chót.
Bây giờ đă 30 năm trôi qua với biết bao đau thương và đoạn trường. Người xưa
đă nói rằng khi bính luận về con người phải chờ đến lúc áo quan đóng lạị
Bây giờ cả 4 vị tổng thống của Nam Việt Nam đều đă qua đờị Từ ông Diệm của
Thừa Thiên, ông Thiệu - Phan Rang, ông Hương - Vĩnh Long và ông Minh - Long
An, tất cả đều ra người thiên cổ. Cả hai nền Cộng Ḥoa đệ nhất và đệ nhị đều
cáo chung. Chúng ta phải đủ can đảm và nhận ra chân lư Sự lệ thuộc của miền
Nam đối với Hoa Kỳ vừa làm mất chủ quyền, và đồng thời hoàn toàn triệt tiêu
sức chiến đấu khi quân viện bị cắt đứt.
Sáng kiến về quỹ tiết kiệm quân đội để dành sức mạnh tự lực cánh sinh lập
xưởng làm bom đạn hoàn toàn bị bẻ gẫy từ trong trứng nước. Mọi sáng kiến
liên lạc trực tiếp với Hà Nội để tím giải pháp chính trị đều bị dập tắt.
Khi cần thay đổi cấp chỉ huy Việt Nam, Hoa Kỳ cho tin báo chí đăng các tài
liệu về tham nhũng. Khi muốn khởi dậy cuộc chỉnh lư hay muốn dập tắt một
cuộc binh chiến CIA cũng sẵn sàng trực tiếp mua chuộc bằng tiền.
Trong 20 năm chiến tranh Nam Bắc, dù đánh lớn đánh nhỏ, tất cả đều theo chủ
trương bảo vệ miền Nam. Địch đánh đâu th́́ đỡ đó. Không bao giờ chủ động và
không bao giờ bàn kế hoạch tấn công ra Bắc.
Bao nhiêu trận khó khăn chúng ta đều vượt qua từ Tết Mậu Thân 68 đến mùa Hè
72. Địch quân thắng th́́ lấn tới, thua th́́ rút về nghỉ. Cho đến khi chúng
ta thua trận cuối cùng 75 là mất tất cả. Chúng ta không c̣̣n chỗ nào rút về
để dưỡng quân. Chúng ta không có hậu phương và cũng không có mật khu. Chúng
ta không thể đánh giặc theo kiểu nhà nghèo, chúng ta không được huấn luyện
để đánh du kích. Và thực ra trong những năm sau cùng hai bên đă đánh trận
địa chiến cấp sư đoàn chứ không c̣̣n là trận chiến du kích lẻ tẻ.
Tính chất xây dựng quân đội hai phe Nam Bắc cũng khác nhau. Bộ đội từ miền
Bắc vào Nam chỉ có một con đường, đánh cho đến chết. Không một ngày phép,
không thư từ vợ con, không có điều kiện để lựa chọn. Sống chết không ai hay
biết.
Lính Cộng Ḥ̣a với hậu phương tiền tuyến, trại gia binh, với t́inh yêu đem
theo và ḥ̣m gỗ trở về. Trước khi thành tử sĩ, người lính đă là một người
b́́nh thường, có giây phút anh hùng và có những lúc mềm ḷ̣ng sợ hăị Và dù
là tướng lănh cũng chỉ là con người, không ai có thể anh dũng được suốt cả
đời .
Trong trận 75, việc rút quân bi thảm của hai quân đoàn mới thấy rằng chính
các điểm mạnh của miền Nam trở thành yếu điểm. Khi lính rút ở đâu là dân ở
đó chạy theo.
Sự sợ hăi, từ bỏ và trốn tránh chế độ cộng sản của dân chúng miền Nam đă
từng là niềm hănh diện của phe quốc gia nay đă trở thành cả một hiểm họa cho
các đơn vị lui binh.
Trên quốc lộ, tại phi trường và các quân cảng tràn ngập người chạy loạn.
Lính tráng, gia đính, dân chúng trở thành một khối hỗn loạn nên đă tạo ra
biết bao thảm cảnh kinh hoàng và dễ dàng đi đến đoạn cuối nhanh hơn cả khả
năng tiếp thu của cộng sản.
Và chính v́́ lư do đó mà theo cuốn sách của giáo sư Nguyễn Tiến Hưng ghi
lại, thay v́́ thỏa hiệp giải pháp chính trị th́́ vào ngày 28 tháng 4-2005,
trung ương đảng cộng sản Hà Nội thay đổi ư kiến vào giờ chót, quyết định dứt
điểm Sài G̣̣n.
Trong tài liệu về quân viện ngay từ cuối năm 1974, chính các tướng lănh Hoa
Kỳ dựa vào ngân sách quân viện đă đưa ra ư niệm chỉ có thể giữ đất miền Nam
theo số viện trợ hàng năm nhằm mục đích đưa ra đề nghị bỏ đất, bỏ dân để tái
phối trí.
Một tỷ 500 triệu th́́ giữ tuyến Bến Hảị Một tỷ 100 triệu th́́ cố thủ Đà Nẵng
và Duyên Hảị 900 triệu th́́ đất nước chỉ c̣̣n lại miền ven biển Nha Trang.
Xuống đến 750 triệu th́́ chỉ c̣n lại hai quân khu miền Đông miền Tây và thủ
đô Sài G̣̣n. Sau cùng nếu giải tỏa 300 triệu th́́ chỉ c̣̣n đủ tiền lo di tản
và định cư 100,000 người dân mất nước.
Tuy nhiên đây chỉ là quan niệm lư thuyết theo lối quản trị trên kinh tế học.
Đại công ty Hoa Kỳ có thể cho đóng cửa các chi nhánh không đem lại lợi tức.
Nhưng đem áp dụng vào chiến trường mà tinh thần binh sĩ và dân chúng là yếu
tố then chốt th́́ không thể bỏ đất bỏ dân dù bất cứ ở chỗ nàọ
Đứt giây động rừng. Thuyết đỗ vỡ theo kiểu quân cờ Domino đă thể hiện rơ
ràng vào tháng 4-1975 tại Việt Nam. Sự đổ vỡ của quân khu I và quân khu II
tạo ra một chấn động giây truyền làm cho mọi giải pháp chính trị đều không
có cơ hội thực hiện.
Nhưng trước khi bức màn bi thảm của miền Nam buông xuống th́́ cuốn sách đầy
di sản lịch sử của ông Hưng cho thấy tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă gần như
đơn độc chiến đấu với Hoa Kỳ qua mặt trận ngoại giao từ sau khi khói súng
trận Mậu Thân vừa tạm yên.
Trong 9 năm cầm quyền th́́ ông Thiệu có hơn 4 năm củng cố nội bộ và hơn 4
năm sau là thời gian khổ sở với đồng minh Hoa Kỳ. Đó là điều chúng ta t́́m
thấy trong cuốn sách của giáo sư Nguyễn Tiến Hưng.
Vào những ngày cuối tháng 4-1975, khi đọc diễn văn từ chức Tổng Thống để
giao quyền cho cụ Hương, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu có than thở một cách
hết sức chân thành.
Ông nói rằng: “Trong suốt 9 năm cầm quyền từ Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia cho
đến hai nhiệm kỳ Tổng Thống, tôi chưa bao giờ có được một lúc nào sung
sướng. Năm nào cũng xấu, tháng nào cũng xấu, ngày nào cũng xấu, và giờ nào
cũng xấụ”
Nhưng thực ra, cuộc đời của ông Thiệu là một cuộc đời cực kỳ may mắn. Ông đă
gặp những thời vận rất tốt.
Xuất thân cũng là một sinh viên sĩ quan trung b́́nh như các bạn đồng ngũ.
Sau một thời gian, ông có cơ hội là chỉ huy trưởng ngôi trường Vơ Bị Đà Lạt
lừng danh Đông Nam Á. Một cơ hội không phải người sinh viên nào cũng gặp may
như vậỵ
Trong suốt những năm chinh chiến, từ cấp úy lên cấp đại tá, ông cũng luôn
luôn trong vai tṛ̣ khiêm nhươ.ng. Giữa thời kỳ đảo chánh liên tiếp, các
tướng lănh tranh chấp hỗn loạn rồi đến khi tạm ổn định, Tướng Kỳ xông ra làm
thủ tướng. Trong hàng tướng lănh cao cấp, quay đi quay lại, chợt không c̣̣n
ai, Trung Tướng Thiệu bèn lănh vai tṛ̣ quốc trưởng.
Như vậy là trong số cả ngàn sĩ quan các cấp, niên trưởng Nguyễn Văn Thiệu là
người từ quân đội bước ra tham chính một cách may mắn nhẹ nhàng nhất. Chẳng
phải tranh chấp kèn cựa với aị Ông Thiệu đóng vai long trọng viên và thoát
khỏi mọi trách nhiệm rắc rối mà ông Kỳ đang lănh đủ. Rồi từ vai tṛ̣ quốc
trưởng hậu trường, ông nhẹ nhàng lên ngôi tổng thóáng suốt hai nhiệm kỳ.
Người Mỹ luôn luôn đứng bên cạnh ông. Đó là người bạn trai Hoa Kỳ hết sức
trung thành với cô gái Việt Nam dễ thương không đ̣i làm hôn thú.
Cho đến năm 1975, với những lá thư cam kết của Nixon bỏ trong túi áo, ông
Thiệu quyết định rút bỏ Vùng 1 và Vùng 2, đánh ván bài tháu cáy hy vọng Hoa
Kỳ quay lại cứụ Đây là h́nh ảnh bà mẹ trẻ giận dỗi người t́́nh nên đành đoạn
đem con bỏ chợ để dọa dẫm, ngóng chờ anh chàng quay lại. Ván bài gây tai hại
cho cả miền Nam v́́ Mỹ ra đi không trở lại.
Rồi tiếp đến là 30 tháng 4. Trong khi tất cả mọi người quân dân chánh đều
hoảng loạn muốn t́́m cách chạy thoát ách cộng sản, th́́ số mệnh lại một lần
nữa đưa đẩy để ông Thiệu ở vào hoàn cảnh mà sự ra đi lại là một hành động hy
sinh cho đất nước.
Ông đă may mắn khi rời quân đội bước vào chính trường. Ông lại may mắn rời
đất nước để đóng vai người tỵ nạn số một của miền Nam. Ông được Hoa Kỳ hộ
tống qua Đài Loan uống trà với Tổng Thống Tưởng Kinh Quốc luận bàn thế sự
rồi qua Anh quốc một thời gian trước khi về định cư ở Boston, Hoa Kỳ.
Và sau cùng ông đă may mắn trong cách rời bỏ cuộc đời trong một chuyến đi
nhẹ nhàng vào miền vĩnh cửu. Ông mất về bệnh tim về lúc tuổi thọ đă cao
không hề vất vả nhiều về bệnh tật.
Một năm sau, vào ngày giỗ đầu của ông, tại San Jose lễ tưởng niệm đă diễn ra
vô cùng long tro.ng. Vị cựu Đệ Nhất Phu Nhân được nghênh đón với đầy đủ lễ
nghi quân cách. Trong số hàng trăm người hiện diện có cả nhiều cựu chiến sĩ
Việt Nam Cộng Ḥ̣a đă bị ông bỏ lại để phải trải qua nhiều năm trong ngục tù
cộng sản. Họ vẫn đến với ông với tấm ḷ̣ng thương tiếc và ngưỡng mô..
Với những sai lầm lớn lao trong vai tṛ̣ lănh đạo mà niên trưởng Nguyễn Văn
Thiệu đă trách nhiệm, di hại đến biết bao nhiêu cái chết đau thương tức
tưởi. Nhưng tại sao có những nạn nhân vẫn c̣̣n có người coi ông như thần
tươ.ng.
Phải chăng v́́ chúng ta đều biết rơ là mặc dù mang trách nhiệm chính về việc
rút quân nhưng đáp số của sự xụp đổ nằm ở Hoa Thịnh Đốn chứ không phải Sài
G̣̣n.
Điều quan trọng sau cùng đáng trách là sự che dấụ Lịch sử thất bại Mỹ tại
Việt Nam in hằn dấu vết của sự bưng bít từ Kissinger qua Nixon. Che dấu đồng
minh Việt Nam, che dấu Quốc Hội và che dấu nhân dân Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sự
che dấu đó rút cục được nước Mỹ tha thứ v́́ họ rút chân Hiệp Chủng Quốc ra
khỏi vũng lầỵ
Trong khi đó, tổng thống của chúng ta hết một ḷ̣ng tin tưởng ở hơn 10 lá
thư cam kết giữ riêng trong Hồ Sơ Mật như cô gái nhẹ dạ ăn ở hết ḷ̣ng với
người t́́nh thề non hẹn biển cho đến khi quá muộn. Anh chàng Sở Khanh Nixon
không làm hôn thú, để cho cô gái Phan Rang vốn là người suốt đời ngờ vực
thiên hạ nhưng lại hết ḷng tin tưởng vào mớ thư t́inh cam kết sống chết có
nhaụ
Xem như thế, thực ra chính tổng thống Nguyễn Văn Thiệu suốt bao nhiêu năm
cũng vẫn loay hoay chiến đấu một ḿ́nh mà không hề tiết lộ sự thực cho những
người quan tâm đến vận mệnh đất nước.
Cho đến khi buộc ḷ̣ng giao hồ sơ thư tín tối mật của Mỹ cho một ông giáo sư
kinh tế lạc đường vào lịch sử đi chạy thuốc vào ngày 14 tháng 4-1975 th́ mọi
sự đă trở thành quá muộn màng.
Ông Nguyễn Tiến Hưng được ủy thác lên đường cứu nước vào giờ thứ 25, trong
túi không có tiền, dù là tiền riêng hay công quỹ. Cầm mớ thư t́́nh hết sức
quan trọng lên đường đi Mỹ mà chưa biết đưa ra để cầu cứu ai đâỵ
Ông tiến sĩ về kinh tế học vốn đă từng được gọi là người có tác phong Tây
con, trở thành người đưa thư cuối cùng của Việt Nam Cộng Ḥ̣ạ Sau cùng ông
đă t́́m cách họp báo tại khách sạn May Flower có cái tên định mệnh tại thủ
đô Hoa Kỳ.
Khi mướn pḥ̣ng họp thiếu $50 Mỹ kim phải mượn bạn bè. Với lá thư t́́nh cam
kết của Nixon cho đồng minh Việt Nam, ông Hưng chỉ c̣̣n cơ hội chót để kêu
nài Tượng Thần Tự Do vốn đứng quay ra Đại Tây Dương xin ngoái cổ lại Thái
B́́nh Dương mà vớt thêm 100,000 dân tỵ nạn 75.
Tuy vậy, trong pḥ̣ng họp của “con tàu di dân Hoa Tháng Năm,” lời kêu gọi
của một ông thầy giáo lạc đường vào lịch sử đă mở rộng thêm cánh cửa cho di
dân Đông Nam Á và đồng thời bây giờ ông có thêm vai tṛ̣ luật sư biện hộ cho
vị tổng thống Việt Nam Cộng Ḥa cái tội làm mất nước.
Vị tổng thống ngồi trong Dinh Độc Lập quanh năm sợ CIA nghe lén từ chung
quanh vách tường. Mỗi khi nói chuyện cơ mật lại phải kéo nhau ra đứng ở hành
lang.
Ngày xưa, đă lâu lắm, đầu thập niên 50, các thanh niên trẻ tập trung ở Sài
G̣̣n trước khi lên đường lên Đà Lạt. Trung úy Nguyễn Văn Thiệu hiền lành,
vui vẻ đại diện trường Vơ Bị chào đón anh em. Không ai biết rằng ông trung
úy trẻ này sau này sẽ là chỉ huy trưởng trường Vơ Bị nổi danh của Đông Nam
Á.
Năm 1962, tôi là một đại úy của quân khu I, ngồi ăn cơm ở Câu Lạc Bộ Sư Đoàn
5 Bộ Binh với Đại tá Tư lệnh Nguyễn Văn Thiệu, nghe ông kể chuyện tiếu lâm.
Chuyện quân vụ quanh năm vất vả, nhưng mỗi ngày đều có một niềm vuị Không ai
mà biết rằng vị đại tá chuyên nói chuyện tếu sau này sẽ làm tổng thống Việt
Nam Cộng Ḥ̣a suốt 9 năm mà không có được một ngày vuị
Quả thực định mệnh và chân lư khôn cùng. Lịch sử cứ như là một củ hành, càng
bóc càng cay và sau cùng chỉ c̣̣n lại những nấm mồ và những khuôn mặt đầy
nước mắt. Nước mắt tuôn tràn v́́ ta khóc thương cho thân phận, khóc thương
cho đất nước hay chỉ v́́ ta đă bóc hết củ hành?
Giao Chỉ – San Jose 2005