
ỦY BAN LUẬT GIA BẢO VỆ DÂN QUYỀN
TƯỜNG TR̀NH VỀ 3 HIỆP ƯỚC BẮC VIỆT
LUẬT SƯ NGUYỄN HỮU THỐNG
Cuối thế kỷ vừa qua, giữa lúc trời quang biển lặng, phe lănh đạo Cộng Sản Việt Nam đă kư 3 hiệp ước để nhượng đất, bán nước và dâng biển cho Trung Quốc. Đó là Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung ngày 30-12-1999, Hiệp Ước Phân Định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá ngày 25-12-2000.
Vấn đề phân ranh lănh thổ và lănh hải Bắc Việt đă được giải quyết từ thế kỷ 19. Năm 1885 Việt Nam và Trung Hoa kư Hiệp Ước Thiên Tân để phân định chủ quyền lănh thổ, và hai bên đă vẽ bản đồ, cắm ranh mốc tại miền biên giới. Năm 1887 Việt Nam và Trung Hoa lại kư Hiệp Ước Bắc Kinh để phân ranh hải phận Bắc Việt theo đường Brévié chạy từ Móng Cáy Trà Cổ dọc theo kinh tuyến 108 Đông, phía tây Đường Brévié là đảo Bạch Long Vĩ thuộc Việt Nam, và phía đông là đảo Hải Nam thuộc Trung Hoa.
Hai hiệp ước quốc tế này đă đem lại an ninh lănh thổ cho hai quốc gia từ trên một thế kỷ. Vậy mà ngày nay, mặc dầu không có chiến tranh vơ trang, không có xung đột biên giới, không có tranh chấp hải phận, bỗng dưng vô cớ, phe lănh đạo Cộng Sản đă cùng Trung Quốc mật đàm, mật ước, lén lút thông qua và không công bố Hiệp Ước trước quốc dân.
Sở dĩ họ phải giấu giếm v́ họ biết rằng đây là những hiệp ước bất công, vi phạm pháp lư và vi phạm đạo lư.
Vi phạm pháp lư v́ nó đi trái với các hiệp ước và công ước quốc tế hiện hành như Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, Hiệp Ước Bắc Kinh và Hiệp Ước Thiên Tân.
Vi phạm đạo lư v́ nó đi trái với những mục tiêu của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền như b́nh đẳng, hợp tác, hữu nghị, ḥa b́nh, công lư, tự do, trong đó có tự do kết ước, không bạo hành, không thôn tính, không lấn chiếm.
Bất công là v́, tại miền biên giới, nó đă hợp thức hóa một t́nh trạng đă rồi gây nên bởi sự lấn chiếm bạo hành của các sắc dân thiểu số Trung Hoa.
Thời điểm lấn chiếm khởi sự đầu thập niên 1950 thời Chiến tranh Đông Dương Thứ Nhất. Để tiếp tế vơ khí, quân trang, quân dụng, cung cấp cố vấn và cán bộ huấn luyện cho Bắc Việt, các xe vận tải và xe lửa Trung Cộng đă chạy sâu vào nội địa Việt Nam để lập các căn cứ chỉ huy, trung tâm huấn luyện, tiếp viện và chôn giấu vơ khí. Trong dịp này một số dân công và sắc dân thiểu số Trung Quốc dă kéo sang định cư lập bản tại Việt Nam.
Trong Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai, với các chiến dịch Tổng Công Kích, Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân (1968) và Tổng Tấn Công Xuân Hạ hay Mùa Hè Đỏ Lửa (1972), Bắc Việt đă huy động toàn bộ các sư đoàn chính quy vào chiến trường Miền Nam. Để bảo vệ an ninh quốc ngoại chống sự phản kích của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa và Hoa Kỳ (như trong Chiến Tranh Triều Tiên), Bắc Việt đă nhờ hơn 300 ngàn binh sĩ Trung Quốc mặc quân phục Việt Nam đến trú đóng tại 6 tỉnh biên giới. Trong dịp này các dân công và sắc dân thiểu số Trung Hoa đă di chuyển những cột ranh mốc về phía nam dọc theo lằn biên giới.
Trong Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba (1979), để giành giật ngôi vị bá quyền, Trung Quốc đă đem quân tàn phá 6 tỉnh biên giới, và khi rút lui đă gài ḿn tại nhiều khu vực rộng tới vài ngàn thước vuông để lấn chiếm đất đai.
Ngày nay Bắc Kinh buộc Hà Nội phải hợp thức hóa t́nh trạng đă rồi thể theo lời yêu cầu của các sắc dân thiểu số Trung Hoa đă định cư lập bản tại Việt Nam.
Bất công là v́ tại miền bờ biển, Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ đă không tuân theo những tiêu chuẩn của Ṭa Án Quốc Tế, theo đó sự phân ranh hải phận phải căn cứ vào các yếu tố địa lư, như mật độ dân số và chiều dài bờ biển. Ngày nay dân số Bắc Việt đông gấp 6 lần dân số đảo Hải Nam, và bờ biển Bắc Việt dài gấp 3 lần bờ đảo Hải Nam phía đối diện Việt Nam. Tại miền bờ biển hễ đă có đất th́ phải có nước; có nhiều đất hơn th́ được nhiều nước hơn; có nhiều dân hơn th́ cần nhiều nước hơn. V́ vậy hải phận Việt Nam phải lớn hơn hải phận Trung Hoa (63% và 37% theo Hiệp Ước Bắc Kinh). Và cũng v́ vậy vùng biển này có tên là Vịnh Bắc Việt.
Ngày nay phe Cộng Sản đă dùng đường trung tuyến thay thế cho đường Brévié với tỷ lệ lư thuyết 53% và 47%. Như vậy Việt Nam đă mất ít nhất 10% hải phận Bắc Việt, khoảng 12.000 km2.
Tại miền biên giới, v́ bản đồ chưa được công bố, nên chúng ta không biết rơ những giải đất nào Việt Nam đă nhượng cho Trung Quốc. Theo giới am hiểu Việt Nam đă mất khoảng 800 km2 dọc theo biên giới, trong đó có những quặng mỏ và những địa danh như Ải Nam Quan, Suối Phi Khanh tại Lạng Sơn, Thác Bản Giốc tại Cao Bằng...
Cuối năm 2001 khi có vụ cắm ranh mốc tại miền giới tuyến, đồng bào các giới vô cùng phẫn uất. Các nhà trí thức trẻ trong nhóm Dân Chủ như Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ B́nh, Nguyễn Khắc Toàn đồng thanh tố cáo phe lănh đạo Cộng Sản đă nhượng đất, bán nước, dâng biển cho ngoại bang, đồng thời lên án chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc. Để trả đũa, Đảng Cộng Sản đă truy tố họ về các tội giả tạo, cưỡng ép như truyền chống nhà nước hay gián điệp, và đă kết án Lê Chí Quang 4 năm tù, Phạm Hồng Sơn 5 năm tù, Nguyễn Vũ B́nh 7 năm tù, và Nguyễn Khắc Toàn 12 năm tù.
V́ đồng bào trong nước không c̣n quyền được nói nên chúng ta phải nói thay cho họ.
Tháng 4 vừa qua, Việt Nam và Trung Quốc đă kư Nghị Định Thư để bổ sung Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá. Mục đích để tạo một t́nh trạng đă rồi và làm áp lực buộc Quốc Hội Việt Nam phải phê chuẩn Hiệp Ước vào tháng 6 tới đây. Tháng 5 vừa qua, Ủy Ban Đối Ngoại Quốc Hội đă lập phúc tŕnh yêu cầu phê chuẩn Hiệp Ước Phân Định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá.
Cũng nên ghi nhận rằng năm 1997, Việt Nam đă kư Hiệp Ước Phân Định Vịnh Thái Lan, nhưng đă không kư hiệp ước hợp tác đánh cá với Thái Lan. Câu hỏi đặt ra là tại sao và trong trường hợp nào Hà Nội đă kư 3 hiệp ước với Bắc Kinh để nhượng đất, bán nước, dâng biển, cho Trung Quốc và gây tai họa vô lường cho đất nước và đồng bào?
A. NGUYÊN NHÂN
Kinh nghiệm cho biết, các quốc gia láng giềng chỉ kư hiệp ước phân
định lănh thổ hay lănh hải sau khi có chiến tranh vơ trang, xung đột biên giới hay tranh chấp hải phận.
Trong cuốn Biên Thùy Việt Nam (Les Frontières du Vietnam), sử gia Pierre Bernard Lafont có viết bài “Ranh Giới Hải Phận của Việt Nam” (La Frontière Maritime du Vietnam). Theo tác giả, năm 1887, Việt Nam và Trung Hoa đă kư Hiệp Ước Bắc Kinh để phân chia hải phận Vịnh Bắc Việt theo đường kinh tuyến Greenwich 108 Đông chạy từ Trà Cổ Móng Cáy xuống vùng Cửa Vịnh. Đó là đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa tại Vịnh Bắc Việt. V́ đă có sự phân định Vịnh Bắc Việt theo Hiệp Ước Bắc Kinh, nên từ đó hai bên không cần kư kết một hiệp ước nào khác. Do những yếu tố địa lư đặc thù, Việt Nam được 63%, Trung Hoa được 37% (Vũ Hữu San: Vịnh Bắc Việt, Địa Lư và Chủ Quyền Hải Phận, 2004).
Chúng ta có thể t́m thấy nguyên nhân các Hiệp Ước Bắc Việt trong lời thú nhận sự lệ thuộc củaViệt Nam đối với Trung Quốc:
“Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí, mà c̣n là người thầy tin cẩn đă cưu mang chúng ta nhiệt t́nh để chúng ta có ngày hôm nay. V́ vậy chủ quyền Hoàng Sa thuộc Việt Nam hay thuộc Trung Quốc cũng vậy thôi !” ( Báo Saigon Giải Phóng tháng 5-1976).
Về mặt chiến lược toàn cầu, năm 1949, sau khi thôn tính lục địa Trung Hoa, mục tiêu của Quốc tế Cộng Sản là nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Triều Tiên.
Qua năm sau 1950, với sự yểm trợ của các chiến xa Liên Xô và chí nguyện quân Trung Quốc, bỗng dưng vô cớ, dầu không bị khiêu khích, và cũng không tuyên chiến, Bắc Hàn kéo quân xâm chiếm Nam Hàn. Mục đích để giành yếu tố bất ngờ. Tuy nhiên âm mưu thôn tính không thành do sự phản kích của quân lực Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc. Từ 1951, cuộc chiến bất phân thắng phụ đưa đến ḥa đàm. Hai năm sau Chiến Tranh Triều Tiên kết thúc bởi Hiệp Định Đ́nh Chiến Bàn Môn Điếm ngày 27-7-1953. Đây là một hiệp ước thuần túy quân sự.
Thất bại trong chiến tranh Triều Tiên, Trung Cộng tập trung hỏa lực và kéo các đại pháo từ mặt trận Bắc Hàn xuống mặt trận Bắc Việt. Với chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Cộng chiếm được Miền Bắc Việt Nam do Hiệp Định Đ́nh Chiến Genève ngày 20-7-1954. Cũng như Hiệp Định Bàn Môn Điếm, Hiệp Định Genève chỉ là một hiệp ước thuần túy quân sự.
Theo định luật có vay có trả, ngày nay Hà Nội phải thực hiện lời cam kết đền ơn trả nghĩa người thầy bằng sự nhượng đất biên giới cho Trung Quốc như đă tŕnh bày ở trên.
Từ 1959, mục tiêu chiến lược của Đảng Cộng Sản Việt Nam là “giải phóng Miền Nam” bằng vơ lực. Qua năm sau, 1960, chiến tranh Đông Dương Thứ Hai được chính thức phát động với sự thiết lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Để chống lại Việt Nam Cộng Ḥa, Hoa Kỳ và Đồng Minh, Hà Nội hoàn toàn trông cậy vào sự yểm trợ của Liên Xô và nhất là Trung Quốc. Về tương quan lực lượng, phe Quốc Tế Cộng Sản không thể qua mặt được Hoa Kỳ và Thế Giới Dân Chủ. Do đó một lần nữa, Hà Nội cần sự cưu mang tận t́nh của người thầy phương Bắc. Muốn được cưu mang cũng lại phải cam kết ïđền ơn trả nghĩa người thầy. Tháng 9, 1958, qua lời Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước cam kết nhượng cho Trung Quốc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cóù 3 lư do được viện dẫn trong cam kết này:
a) V́ Hoàng Sa, Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 17-7 (Quảng Trị-
Cà Mâu) nên thuộc hải phận Việt Nam Cộng Ḥa. Đối với Hà Nội nhượng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc trong thời điểm này chỉ là bán da gấu!
b) Sau này do những t́nh cờ lịch sử, nếu Bắc Việt thôn tính được Miền Nam th́ mấy ḥn đảo san hô tại Biển Đông đâu có ăn nhằm ǵ so với toàn thể lănh thổ Việt Nam?
Thấm đ̣n tại Triều Tiên, Liên Xô và Trung Quốc ư thức rằng Hoa Kỳ đầu thập niên 60 không phải là Pháp đầu thập niên 50. Và ngay từ khi chiến tranh bùng nổ, cán cân lực lượng đă nghiêng về Thế Giới Dân Chủ.
c) Giả sử cuộc “giải phóng Miền Nam” không thành, th́ việc Trung
Cộng chiếm Hoàng Sa Trường Sa thuộc lănh hải Việt Nam Cộng Ḥa cũng có tác dụng làm suy yếu phe quốc gia về kinh tế, chính trị, chiến lược và chính nghĩa.
Trong bản tường tŕnh tháng 2, 2001 đăng trên Tạp Chí Cộng Sản
Hà Nội thú nhận rằng ngay từ đầu thập niên 70, Việt Nam và Trung Quốc đă tiến hành đàm phán về những vấn đề (nhượng) lănh thổ, phân định (lại) lănh hải, và thiết lập (thêm) vùng đánh cá chung tại Bắc Bộ.
Nói là đàm phán cho có vẻ b́nh đẳng, nhưng đây chỉ để hiện thực những lời cam kết từ thời Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên v́ tham vọng bá quyền và bản tính trí trá, Việt Cộng đă bị người thầy kết án là “vong ân bội nghĩa”. Khẩu hiệu này được vẽ bằng sơn đỏ phía nam núi đá Lạng Sơn khi Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba bộc phát năm 1979. Từ 1989, với sự giải thể Cộng Sản tại Đông Âu, sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc tại Căm Bốt và sự tan ră của Liên Bang Sô Viết năm 1991, Việt Cộng lâm vào t́nh trạng cô lập, kiệt quệ. Với mục đích cũng cố chính quyền với bất cứ giá nào, Đảng Cộng Sản Việt Nam phải muối mặt dẹp tự ái và liêm sỉ để một lần nữa quay về thần phục Bắc Kinh. Từ 1988 họ để Trung Cộng chiếm 8 đá nổi và đá ch́m tại Trường Sa. Từ 1992, họ để Trung Cộng chiếm khu dầu khí Vạn An phía tây băi Tứ Chính thuộc thềm lục địa Việt Nam.
Sau khi tái lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh, năm 1993 Hà Nội xin thực thi những cam kết với Trung Quốc bằng việc soạn thảo các hiệp ước (Tạp Chí CS 02/2001).
V́ những lư do thầm kín nói trên, dân chúng không hiểu tại sao, bỗng dưng vô cớ, Việt Cộng đặt bút kư 3 hiệp ước Bắc Việt để nhượng đất biên giới, bán nước Biển Đông và dâng cá dâng dầu cho Trung Cộng.
Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung đă được Ban Thường Vụ Quốc Hội phê chuẩn để có hiệu lực chấp hành từ tháng 6, 2000.
Theo giới am hiểu th́ 2 hiệp ước Vịnh Bắc Việt cũng sẽ được phê chuẩn vào tháng 6 năm nay.
Lần này Hà Nội buộc phải ăn ở phải đạo trong cương vị một chư hầu khiếp nhược của Bắc Kinh. Mục đích để củng cố quyền lực và giữ chặt cái ghế địa vị đă quá lung lay.
B. HẬU QUẢ
Theo Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá hai bên sẽ thiết lập một vùng đánh cá chung rộng 60 hải lư, mỗi bên 30 hải lư, từ đường trung tuyến biển sâu nhiều cá, khởi sự từ vĩ tuyến 20 (Ninh B́nh, Thanh Hóa) đến vùng Cửa Vịnh tại vĩ tuyến 17 (Quảng B́nh, Quảng Trị).
Tại Quảng B́nh, biển rộng chừng 120 hải lư. Theo đường trung tuyến Việt Nam được 60 hải lư, trừ 30 hải lư cho vùng đánh cá chung, ngư dân chỉ c̣n 30 hải lư gần bờ, khoảng 25% hải phận.
Tại Thanh Hóa, biển rộng chừng 170 hải lư. Theo đường trung tuyến
Việt Nam được 85 hải lư, trừ 30 hải lư cho vùng đánh cá chung, ngư dân chỉ c̣n 55 hải lư gần bờ, khoảng 32% hải phận.
Theo nguyên tắc hùn hiệp, căn cứ vào số vốn, số tầu, số chuyên viên kỹ thuật gia và ngư dân chuyên nghiệp, Trung Quốc sẽ là chủ nhân ông được toàn quyền đánh cá ở cả hai vùng, vùng đánh cá chung và vùng hải phận Trung Hoa. Như vậy tại vĩ tuyến 20, đảo Hải Nam sẽ có 115 hải lư về phía tây, cộng thêm 200 hải lư vùng đặc quyền kinh tế đánh cá về phía đông thông sang Thái B́nh Dương. Với số dân 7 triệu, đảo Hải Nam sẽ có 315 hải lư để đánh cá, so với 55 hải lư cho 42 triệu dân Bắc Việt. Đây là sự bất công quá đáng!
Ngày nay Trung Quốc là quốc gia ngư nghiệp số 1 trên thế giới. Trên mặt đại dương, trong số 10 tầu đánh cá xuyên dương trọng tải trên 100 tấn, ít nhất có 4 tầu mang hiệu kỳ Trung Quốc. Như vậy, trong cuộc hợp tác đánh cá với Trung Quốc, Việt Nam chỉ là cá rô, cá riếc sánh với cá mập, cá ḱnh:
a) Trong số 17 quốc gia ngư nghiệp phát triển trên thế giới có tầu đánh cá lớn trọng tải trên 100 tấn, một ḿnh Trung Quốc chiếm hơn 40 % số tầu, so với 5% của Hoa Kỳ, 3% của Nhật Bản và 2% của Đại Hàn, (Việt Nam không có mặt trong số 17 quốc gia này).
b) Các tầu đánh cá lớn này có trang bị các lưới cá dài với tầm hoạt
động 60 dặm hay 50 hải lư. Do đó đoàn ngư thuyền Trung Quốc không cần ra khỏi khu vực đánh cá chung cũng vẫn có thể chăng lưới về phía tây sát bờ biển Việt Nam để đánh bắt hết tôm cá, hải sản, từ Ninh B́nh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh tới Quảng B́nh Quảng Trị. Chăng lưới đánh cá tại khu vực Việt Nam là vi phạm hiệp ước. Tuy nhiên các đội tuần cảnh duyên hải sẽ ngoảnh mặt làm ngơ. Là cơ quan kinh tài của Đảng, họ sẽ triệt để thi hành chính sách thực dụng làm giàu với bất cứ giá nào, kể cả bằng sự đồng lơa vi phạm luật pháp và vi phạm hiệp ước. Trong cuộc hợp tác này không có b́nh đẳng và đồng đẳng. Việt Cộng chỉ là kẻ đánh ké, môi giới hay mại bản, giúp phương tiện cho Trung Cộng mặc sức vơ vét tôm cá hải sản của ngư dân để xin chia hoa hồng (giỏi lắm là 10% v́ Trung Quốc có 100% tầu, 100% lưới và 95% công nhân viên).
c) Rồi đây Trung Cộng sẽ công nhiên vi phạm Hiệp Ước Hợp tác Đánh Cá cũng như họ đă thường xuyên vi phạm Công Ước về Luật Biển. Chiếu Công Ước các quốc gia duyên hải có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lư để đánh cá. Nhưng cũng có nghĩa vụ phải bảo toàn và dinh dưỡng ngư sinh để dành hải sản cho biển cả và các thế hệ tương lai. Trung Quốc đă trắng trợn và thường xuyên vi phạm Công Ước về Luật Biển trong chính sách “tận thâu, vét sạch và cạn tầu ráo máng” áp dụng từ thời Đặng Tiểu B́nh. Đó là chính sách thực dụng mèo đen, mèo trắng, làm giàu là vinh quang, làm giàu với bất cứ giá nào.
Từ 1/4 thế kỷ theo kinh tế thị trường, với sự phát triển vượt bực về công kỹ nghệ, thương mại, đánh cá và khai thác dầu khí, ngày nay tại vùng duyên hải và thềm lục địa Trung Hoa, các nguồn lợi thiên nhiên như tôm cá, dầu khí đă cạn kiệt. Trong khi đó nhu cầu canh tân kỹ nghệ hóa và nạn nhân măn (của 1 tỷ 380 triệu người) đ̣i hỏi Trung Quốc phải mở rộng khu vực đánh cá và khai thác dầu khí xuống Miền Nam. Với sự sụp đổ của Liên Xô, từ 1992 Bắc Kinh cho Hà Nội tái lập bang giao và nhận bảo trợ. Nhưng vẫn không quên yêu cầu đàn em thực thi nghiêm chỉnh những điều cam kết “b́nh sinh chi ngôn”. Cụ thể là năm 1992 Bắc Kinh đă ngang nhiên chiếm băi dầu khí Vạn An, phía tây băi Thanh Long Tứ Chính của Việt Nam sau khi chiếm 8 đá nổi và đá ch́m tại Trường Sa từ 1988.
d) Với 25 năm kinh nghiệm trong nghề cá, Trung Quốc đă huấn luyện được một đội ngũ công nhân viên đông đảo gồm các kỹ thuật gia giàu kinh nghiệm, các chuyên viên điện tử, và các ngư dân chuyên nghiệp có tay nghề. Trong khi đó về phía Việt Nam chỉ có một số công nhân không chuyên môn để sai phái trong các công tác tạp dịch hay công tác vệ sinh như rửa cá, rửa tầu v...v... Và rồi đây, bên cạnh các lao động nô lệ xuất khẩu tại Đông Nam Á , chúng ta sẽ có thêm một số lao động nô lệ tại Biển Đông trên các tầu đánh cá xuyên dương Trung Quốc.
C. KẾ HOẠCH 4 BƯỚC CỦA TRUNG CỘNG ĐỂ THÔN TÍNH BIỂN ĐÔNG
Năm 1982 với tư cách một trong ngũ cường thuộc Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết, Trung Cộng tham dự Đại Hội Kỳ 3 Liên Hiệp Quốc về Luật Biển và đă hoan hỷ kư Công Ước về Luật Biển. Kư xong Công Ước, Bắc Kinh mới thấy lo! Theo Công Ước các quốc gia duyên hải chỉ có 200 hải lư vừa là vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá vừa là thềm lục địa để khai thác dầu khí. Trong khi đó Hoàng Sa tọa lạc ngoài lục địa Trung Hoa 300 hải lư, và Trường Sa cách Hoa Lục 750 hải lư, nên không thuộc hải phận (thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế đánh cá) của Trung Quốc.
V́ vậy, đầu thập niên 80, Bắc Kinh tập hợp 400 học giả Trung Hoa ngày đêm nghiên cứu thảo luận ṛng ră trong suốt 10 năm, để kết luận rằng “Nam Hải là Biển Lịch Sử của Trung Quốc từ thời Hán Vũ Đế ”.
Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc nằm sát bờ biển Quảng Ngăi 40 hải lư, cách Nam Dương 30 hải lư, cách Mă Lai và Phi Luật Tân 25 hải lư. Nó bao gồm toàn thể vùng biển Hoàng Sa Trường Sa và chiếm trọn 3 túi dầu khí đang khai thác là Tứ Chính (Vanguard) của Việt Nam, Cỏ Rong (Reed Bank) của Phi Luật Tân và Natuna của Nam Dương.
Tuy nhiên về mặt pháp lư, nếu Ấn Độ Dương không phải là đại dương của Ấn Độ, th́ Nam Hải cũng không phải là biển của Trung Hoa về phía Nam.
Vả lại theo Ṭa Án Quốc Tế La Haye, biển lịch sử chỉ là nội hải.
Và thuyết Biển Lịch Sử của Trung Quốc đă bị Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển bác bỏ trong Điều 8: “Biển lịch sử hay nội hải của một quốc gia tọa lạc trong lục địa hay đất liền, bên trong bờ biển hay đường căn bản” (đường căn bản là mực nước thủy triều thấp).
Do đó Biển Nam Hoa hay Nam Hải không phải là Biển Lịch Sử của Trung Quốc v́ nó là ngoại hải và cách lục địa Trung Hoa hơn 2000 cây số.
Và công tŕnh 10 năm nghiên cứu của 400 học giả Trung Hoa chỉ là công “dă tràng xe cát Biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán ǵ”!
Thất bại trong thuyết Biển Lịch Sử, Trung Quốc đề ra kế hoạch 4 bước để thôn tính Biển Đông.
Trong giai đoạn chuẩn bị từ 1988 đến 1995, Trung Quốc tung ra chiến dịch hỏa mù, lấn chiếm bừa băi các đá băi tại Trường Sa, chiếm 8 đá nổi và đá ch́m thuộc hải phận Việt Nam trong đó có đá Chữ Thập (Fiery Cross) và đá Gaven, chiếm băi dầu khí Vạn An, và chiếm 6 đá ch́m và băi ngầm như đá Vành Khăn (Mischief) trong thềm lục địa Phi Luật Tân.
Trong thời gian này, hải quân Trung Quốc thường xuyên tuần thám, phóng hỏa tiễn, thao diễn quân sự, gây tranh chấp bất ổn trên mặt biển, hù dọa sẽ biến Đông Nam Á thành một ḷ lửa Trung Đông. Rồi giở giọng khuyến dụ các quốc gia Đông Nam Á hăy gác vấn đề tranh chấp chủ quyền hải đảo để cùng hợp tác khai thác nghề cá và dầu khí tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
B́nh thường chúng ta chỉ thấy có sự hợp tác khai thác dầu khí giữa hai quốc gia có thềm lục địa chung, như Đại Hàn, Nhật Bản: bờ Phú San chỉ cách bờ Yamaguchi 100 hải lư. Tuy nhiên chúng ta không thấy có sư khai thác chung dầu khí giữa hai quốc gia không có chung thềm lục địa (trường hợp Việt Nam và Trung Quốc tại vùng biển Hoàng Sa-Trường Sa).
Chiếu Điều 121 Luật Biển các hải đảo nhỏ bé như Hoàng Sa-Trường Sa, v́ không có thường dân cư ngụ và không thể tự túc về kinh tế, nên không được hưởng quy chế 200 hải lư để đánh cá và khai thác dầu khí.
Do đó tranh chấp hải đảo tại Trường Sa chỉ là tung hỏa mù. Mục tiêu chiến lược của Trung Quốc là thôn tính Biển Đông về kinh tế, bằng cách đ̣i khai thác chung nghề cá và dầu khí tại các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Cao Miên, Thái Lan, Phi Luật Tân, Mă Lai, Nam Dương v...v...
Cho đến nay chỉ có Việt Nam là con ṃng dễ bắt nhất. Do những cam kết của Đảng Cộng Sản khi xin Trung Quốc cưu mang trong hai cuộc Chiến Tranh Đông Dương (từ đầu thập niên 50 đến đầu thập niên 70).
Sau giai đoạn chuẩn bị là giai đoạn thực hiện. Lộ tŕnh của Bắc Kinh gồm 4 bước như sau:
1) Kư kết Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ để hủy băi Hiệp Ước Bắc Kinh (theo đó Việt Nam được 63% và Trung Hoa được 37% hải phận Bắc Việt). Từ nay, theo đường trung tuyến, hai bên được chia đều 50% (Việt Nam được 53% trên lư thuyết). Như vậy,Việt Nam đă mất 13% hải phận khoảng 15000 km2.
Trên thực tế, Trung Cộng không áp dụng nghiêm chỉnh đường trung tuyến và đă đề ra 21 điểm tiêu chuẩn phân định, theo đó Việt Nam chỉ c̣n 45% so với 55% của Trung Hoa (Vũ Hữu San, sách đă dẫn).
2) Kư kết Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá để thiết lập vùng đánh
cá chung 60 hải lư. Và Việt Nam chỉ c̣n từ 25% đến 32% hải phận Bắc Việt. Với các tầu đánh cá lớn trọng tải trên 100 tấn, với các lưới cá dài có tầm hoạt động 50 hải lư, và nhất là với sự toa rập đồng lơa của đội tuần cảnh duyên hải, toàn thể Vịnh Bắc Việt sẽ biến thành khu đánh cá tự do cho đội ḱnh ngư Trung Quốc mặc sức tận thu, vét sạch, và cạn tầu ráo máng.
3) Từ đánh cá đến khai thác dầu khí chỉ c̣n một bước. Trong Hiệp Ước Phân Định Vịnh Bắc Việt có điều khoản quy định rằng, khi dầu khí được phát hiện, hai bên sẽ khởi sự hợp tác khai thác dầu khí. Dầu khí là do các chất hữu cơ kết tụ trong các thủy tra thạch kết tầng dưới đáy biển. Các chất hữu cơ này được nước phù sa sông Hồng Hà từ Vân Nam và sông Cửu Long từ cao nguyên Tây Tạng đổ ra Biển Đông từ cả triệu năm nay. Do đó dầu khí nếu có, là do các chất hữu cơ từ lục địa Việt Nam, chứ không phải từ Hoa Lục. Mặc dầu vậy, tại Vịnh Bắc Việt, Trung Quốc đă đề ra nhiều dự án thăm ḍ và khai thác dầu khí, như Dự Án Quỳnh Hải bên bờ đảo Hải Nam và Dự Án Vịnh Bắc Bộ về phía Bắc vĩ tuyến 20. Khi dùng danh xưng “Vịnh Bắc Bộ”, Trung Quốc mặc nhiên nh́n nhận rằng đó là vịnh của Việt Nam về phía Bắc. V́ nếu là củaTrung Hoa th́ phải gọi là Vịnh Nam Bộ mới đúng địa lư.
4) Với chính sách vết dầu loang, sau khi thành tựu kế hoạch đánh cá
và khai thác dầu khí chung tại Bắc Việt, hai bên sẽ tiến tới việc hợp tác đánh cá và khai thác dầu khí chung tại miền duyên hải Trung và Nam Việt. Điều đáng lưu ư là vùng lănh hải này thuộc thềm lục địa và khu đặc quyền kinh tế đánh cá 200 hải lư của Việt Nam nên thuộc chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam. Ở đây không có sự trùng điệp hay sự chồng lấn hải phận như trường hợp Vịnh Bắc Việt.
Không ai ngu dại ǵ cho người nước ngoài đến đánh cá và khai thác dầu khí chung tại thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế riêng của nước ḿnh. Chiếu Điều 77 Luật Biển, thềm lục địa thuộc chủ quyền tuyệt đối của quốc gia duyên hải. Mọi sự chiếm cứ bất cứ từ đâu tới cũng đều vô hiệu, nhất là chiếm cứ vơ trang (trường hợp Trung Cộng dùng vơ trang chiếm Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa từ năm 1988).
Bằng kế hoạch thôn tính 4 bước, đế quốc Bắc Kinh đă buộc Hà Nội hiến dâng lănh hải Việt Nam từ Vịnh Bắc Việt đến vùng biển Hoàng Sa Trường Sa theo lời cam kết của Hồ Chí Minh (Phạm Văn Đồng chỉ là kẻ thừa sai, bất lực, không có cả quyền bổ nhiệm một thứ trưởng theo lời tự phán)
Như vậy, thuyết Biển Lịch Sử do Trung Quốc đề ra năm 1982 sẽ được hiện thực hóa trong lộ tŕnh 4 bước. V́ quyền lợi riêng tư, Đảng Cộng Sản Việt Nam đă táng tận lương tâm nhượng đất, bán nước, dâng biển cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.
ĐỘI NGŨ HÀNH KHẤT GIA TĂNG
Với đà này th́ không cần đến 15 năm như thời hạn quy định trong Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá, chỉ sau dăm ba năm, toàn thể hải sản, tôm cá Vịnh Bắc Việt sẽ khánh kiệt và không thể phục sinh trong vài thế hệ. Và hàng triệu ngư dân từ Nam Định Ninh B́nh, Thanh Nghệ Tĩnh đến Quảng B́nh Quảng Trị sẽ lâm vào cảnh khốn cùng, khánh kiệt. Và đội ngũ tha phương khất thực tại các trung tâm đô thị sẽ ngày càng đông đảo. Đại tội của Đảng Cộng Sản Việt Nam là không theo kinh tế thị trường để phát triển miền duyên hải như trường hợp Trung Quốc. Từ trước Thế chiến I, và cho đến 1975, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia giàu thịnh nhất Đông Nam Á. Saigon là ḥn ngọc Viễn Đông và Việt Nam là bao lơn của Thái B́nh Dương. Vậy mà ngày nay, và rồi đây, với sự thôn tính Biển Đông của đế quốc Bắc Phương, các ngư dân và nông dân từ duyên hải lên cao nguyên vẫn không nh́n thấy ánh sáng từ cuối đường hầm.
Cách đây vài năm có một trận băo lớn từ Phi Luật Tân thổi qua. Ngư dân Thanh Hóa được cảnh báo không được đi biển, không được đánh cá ngoài khơi, v́ đi là chết. Vậy mà, rất nhiều ngư dân vẫn đi biển và đă chết trong đại dương. Một số thân nhân chúng ta cũng đă chết trong Biển Đông khi vượt biển t́m tự do. Dẫu sao khi chết đi, họ c̣n có niềm an ủi là đă chết trên đường t́m tự do. Và cái chết của họ đă cảnh tỉnh lương tri nhân loại về thực chất của một chế độ phi nhân mà họ đă khước từ. Trong khi đo,ù các ngư dân Thanh Hóa chết đi mà không có niềm an ủi nào! V́ họ đă chết trong tủi hổ, uất hận, chết để thoát hỏa ngục trần gian, không muốn nh́n thấy cảnh vợ con bỏ làng, bỏ xóm đi tha phương khất thực.
Ngày nay tại Thanh Hóa, con cháu Lê Lợi và Triệu Thị Trinh muốn đi hành khất cũng phải xin giấy chứng nhận hay chứng minh thư của nhà cầm quyền. Nếu không, do chế độ hộ khẩu, họ sẽ bị trục xuất về nguyên quán. Muốn có giấy chứng nhận, họ phải đóng môt loại thuế môn bài giấy phép, gọi là thuế hành khất. Cũng như người lao động nô lệ hay người nô lệ t́nh dục phải đóng thuế đăng kư và thuế lợi tức để được xuất khẩu.
Trong lịch sử 4000 năm của dân tộc, không thấy chính quyền nào tàn nhẫn như nhà cầm quyền hiện nay. Ngay cả dưới thời Bắc thuộc, những viên thái thú như Tô Định nhà Hán, Trương Phụ nhà Minh, cũng không nỡ bóc lột những người cùng đinh mạt hạng trong giới hành khất. Huống chi những nạn nhân này không lười biếng, ỷ lại. Họ đă bị chế độ này tước đoạt mọi phương tiện mưu sinh. Đau xót hơn nữa kẻ bị bóc lột lại là đồng bào và từng là đồng chí của kẻ bóc lột.
Sau 60 năm kinh qua chế độ Cộng Sản, chúng ta ư thức rằng chế độ này không thể sửa chữa được. V́ tương lai dân tộc, v́ quyền sống con người, chúng ta phải đứng lên thiết lập chế độ dân chủ pháp trị với công bằng xă hội và kinh tế thi trường. Cho người dân được hưởng quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc và nhất là quyền sống.
Trong giai đoạn hiện tại, đồng bào trong và ngoài nước hăy đồng thanh lên tiếng phủ nhận Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt và Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá; áp lực quốc hội không phê chuẩn 2 hiệp ước này; biểu dương lực lượng chống chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc; bảo vệ chủ quyền lănh thổ và lănh hải tại Bắc Việt và tại Hoàng Sa Trường Sa. Rồi cùng đứng lên đ̣i Dân Tộc Tự Quyết để giành lại quyền làm chủ quốc gia, làm chủ đất nước.
Có như vậy chúng ta mới cứu được dân, cứu được nước và rửa được mối nhục này.
Làm tại hải ngoại ngày 31 tháng 5, 2004
TM. ỦY BAN LUẬT GIA BẢO VỆ DÂN QUYỀN
LS. NGUYỄN HỮU THỐNG