ĐT. 714-541-9859, 714-423-0577                      THONG THIEN HOC

Google

Trang Chính

English

Việt Nam


Hoa Kỳ

Sinh Hoạt Cộng Đồng


Thế Giới
Diễn Đàn

Văn Học

B́nh Luận

Kinh Tế
Câu Chuyện ThờiSự

Chuyện Lạ 4Phương

Khoa Học

Sức Khỏe

Ẩm Thực

Nhân Vật

Người / Ngợm

Vui Cười


Biếm Thi

Linh Tinh

Rao Vặt

Nhạc Hoàng Vân

VNCH Foundation

Ca Dao Việt Nam

Thơ Hà Huyền Chi

Hà Phương Hoài

Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

OVERSEAS
FREE VIETNAMESE
COMMUNITIES

RADIO
SAIGON-HOUSTON

                     KẾ-HOẠCH VÂ.N ĐỘNG QUỐC-NỘI

 

G.S Nguyễn Ngọc Bích

 

LTS: Sau đây là bài nói chuyện của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, nguyên Giám Đốc Đài Phát Thanh Á Châu Tự Do, tại buổi Họp Mặt Dân Chủ 2004 đă được tổ chức tại Washington DC, tiểu bang Maryland, từ ngày 30 tháng 5 đến mùng 2 tháng 6 năm 2004.

Ta không thể nói đến vâ.n động quốc-nội nếu như tiếng nói hay việc làm của ta ở ngoài này hoàn-toàn không được người dân ở trong nước biết đến. Có nghĩa đây là một vấn đề thông tin.

Ta cũng không thể nói đến vâ.n động người dân trong nước nếu như tiếng nói hay việc làm của ta ở ngoài này không hạp nhĩ đối với các đồng-bào quốc-nô.i. Đây là một vấn đề tâm-lư: chúng ta có rung cảm cùng một nhịp độ với đồng-bào chúng ta ở trong nước không? Chúng ta có chia xẻ cùng một tần-số không?

Cuối cùng, ta cũng không thể nói đến vâ.n động người dân trong nước nếu chúng ta không được ḷng tin của bà con, cô bác là chúng ta có khả-năng xoay đổi t́nh-thế. Tóm lại, đây là một vấn đề chữ tín và một sự đánh giá chúng ta ở ngoài này do người dân trong nước, đă.c-biệt là do các thành-phần dân-chủ ở trong nước. Nếu chúng ta được đánh giá là “có thể tin được và cũng có khả-năng làm một số chuyện” th́ sự vâ.n động quốc-nội của ta có thể xem là có kết-quả.

Vậy ta hăy thử dựa trên ba tiêu-chuẩn trên xem khả-năng vâ.n động quốc-nội của ta đến đâu. Nó có đem lại kết-quả không? V́ nếu không th́ cũng không thể có kế-hoạch về mặt này được.

 

Tăng cường thông tin

 

Như chúng ta đều biết, sức mạnh và sự trường-tồn của một chế độ đô.c-tài đều dựa vào sự bưng bít thông tin, không cho người dân so sánh được cuộc sống của họ với thế-giới bên ngoài, không cho họ đối-chiếu thông tin mà Nhà nước cung-cấp cho họ với những nguồn tin khác. Song t́nh-h́nh này ở Việt Nam, từ 1975 sau khi miền Bắc đă xâm-chiếm xong miền Nam, đă đổi thay rất nhiều khi người miền Bắc vào và trông thấy những thành tựu không thể chối căi được của miền Nam (kinh-nghiệm Bùi Tín, Dương Thu Hương, Chế Lan Viên v.v.). Cái không-gian thông tin này c̣n mở rộng hơn nữa sau khi Đảng CS buộc ḷng phải “đổi mới hay là chết” (Trường Chinh) vào năm 1986, và nó không ngừng mở rộng trong những năm gần đây khi số người ngoa.i-quốc và kiều-bào càng ngày càng vào Việt Nam một cách đông đảo (lên đến hàng triệu người mỗi năm) cũng như số người Việt Nam đi ra nước ngoài (để đi học, đi du-lịch, đi công-vụ, làm ăn buôn bán) ngày càng nhiều, đă.c-biệt giờ này khi đi sang các nước ASEAN không c̣n cần thị thư.c/chiếu khán nữa. Ngay phong trào xuất cảng lao động hay các phụ nữ Việt Nam đi lấy chồng ngoa.i-quốc cũng tăng cường rất nhiều nhịp độ thông tin hai chiều về trong nước.

Hiểu rơ tầm quan-trọng của thông tin vào trong nước này, một cuộc vâ.n động qui-mô lập ra các đài phát thanh hướng vào Việt Nam đă được khơi động từ thập niên 80. Bản thảo đầu tiên về Dự-án Đài Á-châu Tự do được viết ra vào Lễ Tạ Ơn 1983 (cuối tháng 11 năm ấy), một số tổ-chức của người Việt, chủ-yếu là ở Hoa-kỳ (Nghi.-hội Toàn-quốc Người Việt tại Hoa-kỳ, Tổ-chức Phục Hưng Việt Nam, Tổng-liên-hội Người Việt Tự do, Ủy-ban Đôngđương vâ.n động cho Đài ACTD, Hô.i-nghi. Liên-kết NVTD v.v.), đă tham-gia vâ.n động để cuối cùng dự-án đó, sau khi được nghiên cứu dưới thời ông Reagan (cuối thập niên 80), thành luật dưới thời ông Bush cha (1994), được chính-quyền Clinton ủng-hộ để đưa vào ngân-sách (1995), đă thành sự thật (tháng 3-1996). Ban Viê.t-ngữ được thành-lập vào cuối năm đó và bắt đầu phát thanh vào Đêm Giao thừa Tết Đinh Sửu (5-2-1997).

Tầm quan trọng của đài phát thanh vào Việt Nam được chúng ta quan-niệm từ rất sớm và không phu.-thuộc vào những quyết định của chính-phủ Mỹ. Bằng-chứng là ngay từ khi chính-quyền CS ở Liên-Xô chưa sụp đổ và mới chỉ nới rộng thông tin dưới thời Gorbachev, hai tổ-chức của người Việt ở Mỹ đă cô.ng-tác để dựng ra Đài Tiếng Nói Tự Do từ Mạc Tư Khoa (c̣n được biết dưới tên vắn gọn là Đài Irina, xong đổi thành Đài Nadezhda, trước khi tắt tiếng). Trong hơn một năm hoa.t động (1991-92), đài này và hai người chịu trách-nhiệm chính về nó, Irina Zisman và Lan Hương, đă được khắp cả thế-giới biết đến và c̣n gieo lại một ấn-tượng kinh-hoàng đối với chính-quyền ở trong nước khi một sớm một chiều, một đài đồng-minh, đài mạnh nhất trong thế-giới CS, từ thủ đô của Tổ-quốc xă-hô.i-chủ-nghĩa, chĩa các làn sóng cực mạnh về Việt Nam để đưa ra những tiếng nói tự dọ

Khởi đi từ kinh-nghiệm đó, một lô các đài phát thanh khác cũng được lập ra ở hải-ngoại để phát vào trong nước: Chân Trời Mới, Diễn Đàn Tự Do (đài này ngưng hoa.t động sau khi Đài ACTD phát sóng), Tiếng Quê Hương, VNTD, Tiếng Nước Tôi v.v. ngoài những đài như Veritas đă có từ lâụ

Một tiến-bộ kỹ-thuật đáng kể trong truyền-thông xuyên-lu.c đi.a là sự xuất hiện của Internet bên cạnh các đài phát thanh quốc-tế. Chỉ xin lấy một tỷđụ: Gần như ngay từ đầu, Ban Viê.t-ngữ của Đài ACTD đă đưa hết các bài và tin tức của ḿnh lên Internet hàng ngày. Như vậy, bất cứ ai cũng có thể vào t́m lại các tin tức và tài-liệu cũ phát thanh trong hơn 7 năm qua một cách rất nhanh chóng, chỉ cần đưa con chuột đi bấm vài ba bấm là ra. Một tỷđụ nữa: Mới đây, một Website tại Hà-nội đă b ị đóng cửa chỉ v́ cho post lại 29 trang tin tức về Cao-nguyên Trung-phần lấy từ Website của BBC.

Dựa lên trên sự tăng cường thông tin này, chủ-yếu là qua con đường phát thanh và Internet, không thể nói là người Việt hải-ngoại đă không có ảnh-hưởng trong cuộc vâ.n động đối với dư-luận quốc-nội đươ.c. V́ nếu không th́ những tiếng nói dân-chủ ở trong nước, đă.c-biệt là ở Hà-nội như các ông Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Phạm Quế Dương, Hoàng Tiến, các tiếng nói phụ nữ như Dương Thu Hương, Bùi Thị Kim Ngân (chị Nguyễn Vũ B́nh), Vũ Thúy Hà (chị Phạm Hồng Sơn), bà mẹ Lê Chí Quang v.v. đă không lên tiếng trên các phương-tiện truyền thanh nàỵ

 

Đồng điệu?

 

Trong cuộc đấu tranh cho dân-chủ Việt Nam, một câu ta thường nghe thấy là: Ở bên nhà không ai biết ǵ về những Nguyễn Vũ B́nh, Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Phạm Quế Dương, mà họ có biết (nghe phong-thanh về những nhân-vật kia) th́ họ cũng chẳng quan-tâm. V́ họ cho là cuộc sống hàng ngày của họ cũng đủ chật vật rồi, đâu có thời giờ mà để ư đến những chuyện “trời ơi, đất hỡi” đó.

Nói cách khác, những “thông điệp” của các thành-phần dân-chủ này, cũng như những khiếu nại của các lănh-tụ tôn-giáo như các HT Huyền Quang và Quảng Độ nhân danh Giáo-hội PGVN Thống nhất, hoặc Cha Nguyễn Văn Lư (“Tự do tôn-giáo hay là Chết”), Cụ Lê Quang Liêm (bên Phâ.t-giáo Ḥa Hảo), hay những bất b́nh của các đồng-bào Thượng (đă nổ ra hai lần trên qui-mô lớn vào tháng 2-2001 và mới đây vào đầu tháng 4-2004) vẫn, theo như quan-niệm trên, bị xem là “lạc điệu” trong ḍng sống triền miên của dân-tộc.

Nếu quả thật là như thế th́ triển-vọng tự do dân-chủ của Việt Nam xem c̣n rất xa vời. Nhưng sự thực có đúng như thế không?

Ta hăy lấy một thí dụ, vụ nôngđân nổi lên ở Thái-b́nh vào mùa Xuân và mùa Hè 1997. Họ nổi lên v́ đất đai của họ bị thu dụng cho những mu.c-tiêu không lợi ích ǵ đến họ, v́ bị trăm thứ thuế bất công, v́ bị cường-quyền (nghĩa là những cán-bộ đi.a-phương của Đảng) chèn ép. Cùng là người Thái-b́nh, ông Phạm Thế Duyệt (ủy-viên Bộ Chính-trị Trung-ương) và tướng Trần Độ đă có những cách đọc rất khác về t́nh-h́nh và ư-nghĩa của biến-cố đó.

Ông Duyệt, người được Đảng cử về nghiên cứu vấn đề, cho rằng đó chỉ là việc làm sai quấy của đôi ba cán-bộ đi.a-phương và khi phạt th́ phạt lấy lệ mấy cán-bộ này trong khi bỏ tù th́ bỏ tù mút mùa mấy người bị coi là “kẻ xấu” lơ.iđu.ng t́nh-h́nh để gây ba.o-loa.n. Ông Trần Độ th́ cho là những “điểm nóng” như Thái-b́nh đầy dẫy và có nguy-cơ đe dọa đến sự tồn vong của chế độ. Ai đúng, ai sai? Ông Trần Độ đă nằm xuống, những vụ khiếu kiện của nôngđân vẫn tiếp-tục xảy ra, từ Nam chí Bắc, thậm chí chính-quyền phải ra luật cấm biểu t́nh ở gần nhà ông Nông Đức Mạnh, c̣n người t́m cách giúp nhữ ng nôngđân này, cư.u-chiến-binh Nguyễn Khắc Toàn, th́ đang nằm tù mọt gông v́ tội “gián điệp.”

Trong một xă-hội như vậy, hiển-nhiên là tham-nhũng phải đi đôi với cường-quyền v́ chỉ có thế chúng mới che đậy được cho nhau. Đó là ư-nghĩa của những vụ tầy đ́nh như Thủy-cung Thăng Long, như Năm Cam, như Lă Thị Kim Oanh, như sáu ông bà bô.-trưởng mà người ta đang ầm ầm nói đến ở trong nước trong lúc này. Người dân có thể không hiểu nô.i-hàm của dân-chủ là cái ǵ, họ có thể không biết từng cá-nhân trong các thành-phần dân-chủ là ai vào mới ai, nhưng họ hiểu rất rơ thế nào là tham-nhũng, là cửa quyền, là mua quan bán tước, là mại dâm, HIV/AIDS, là bằng giả, là làm dổm, là giáođục và y-tế xuống cấp, là măi lộ, là “cơm tù” và “phở dâm” trên các tuyến đường xuyên suốt Bắc-Nam.

Thành thử vấn đề không phải là ta không có chuyện để chia xẻ với đồng-bào ở trong nước. Vấn đề là ta có lột được cái áo và lối suy nghĩ trí-thức và trừu tượng của ta ở ngoài này để mà nói với người trong nước (hiểu theo nghĩa viết cũng như trao đổi với họ) về những vấn đề thư.c-tế mà họ cảm thấy liên-quan trư.c-tiếp đến cuộc sống của họ, đến những quyền lợi thiết thân của họ, của con em họ. Nói cách khác, liệu ta có nắm bắt được thư.c-tế ở trong nước, nói được ngôn ngữ của người dân để mà tránh được lối nói “giáo-sư” như đ̣i dạy người ta thay v́ thư.c-sự chia xẻ, xót xa, đồng-qua n-tâm với họ để mà t́m một lối ra, một lối thoát không?

 

Tôn trọng sự thật, đừng nói khoác

 

Cái khó nhất trong sự thông-cảm “trong – ngoài,” đó là khuynh-hướng (quá dễ hiểu) của nhiều người trong chúng ta là “đi xa, về nhà nói phét.” “Áo gấm về làng” là một h́nh-thức nói phét, khoác lác như thế. Chúng ta dễ cười người CS khi họ mới vào thành, mắt lúc nào cũng ngước lên (để nh́n các cao-ốc trong các thành phố miền Nam) song miệng th́ nói phét theo chỉ-thị: “Ồ, cái ǵ chứ mấy thứ này ở ngoài Bắc đầy dẫy,” kể cả “cà chớn... đi đầy đường.” Song điều chúng ta không để ư là về Việt Nam từ khi Hà-nội có chính-sách “mở cửa,” không ít người ngoài này cũng khoác lác kiểu đó. Mà điều này th́ quá dễ v́ so với Việt Nam thập niên 80 th́ thế-giới bên ngoài quả là một trời một vư.c. Nhưng chính v́ sự cách-biệt quá xa đó mà điều ǵ ta nói nghe ra cũng “như hoang đường” nên người nghe chỉ dám bán tín, bán nghi mà thôi. Hê.-luận của điều này là người ta bắt đầu không tin ḿnh, dù như ḿnh hoàn-toàn thành-tâm nói thiê.t. Rồi người ta ngờ vực cả những điều rất thật ḿnh khai ra hay chia xẻ với người trong nước. Mọi câu nói của ta trở nên bị diễnđịch sai. Tỷđụ, khi ta nói là làm việc ở Mỹ cực lắm, phải đầu tắt mặt tối mới ra đồng tiền th́ lâ.p-tức người nghe diễnđịch: A, ông ta đang nói thế để tránh cho ḿnh moi tiền đây! v.v. Một cái phim như The Daughter of Da Nang, một chuyện hoàn-toàn thật, cho ta thấy tất cả những hoàn-cảnh éo le v́ hiểu lầm đó!

Làm sao vượt được những ngờ vực, hiểu lầm này? Đó, theo tôi, là cái thách thức khó khăn nhất của người Việt hải-ngoại khi nói chuyện với người trong nước. Đành rằng với thời-gian, với sự trao đổi hai chiều trong cả triệu triệu trường-hợp, sự hiểu lầm kiểu này sẽ bớt đi và lúc bấy giờ đôi bên sẽ đánh giá nhau đúng hơn. Nhưng cho tới ngày đó, người Việt hải-ngoại cần ư-thức là có vấn đề dễ bị ngô-nhận này mà không phải v́ CS tuyên-truyền, hay v́ người ta tin người CS hơn ḿnh. Điều này chỉ là một điều rất b́nh-thường mà ngay giữa hai dân-tộc đă chung đụng với nhau cả hàng trăm năm, nhu + Mỹ và Pháp, mà vẫn có thể bị hiểu lầm hoàn-toàn, từ đô.ng-cơ đến hành động, như chiến-tranh Iraq cho ta thấỵ

Tại v́ chỉ khi nào người dân trong nước, và nhất là những thành-phần dân-chủ ở trong nước, những đồng-minh gần gũi ta nhất trong cuộc đấu tranh cho tự do dân-chủ của Việt Nam tương-lai, chỉ khi nào họ hiểu ta và đánh giá ta đúng—nhất là khả-năng của chúng ta làm được ǵ, và làm được đến đâu—th́ lúc bấy giờ bước đi của chúng ta mới nhịp nhàng, mới có kết-quả cu.-thể. Chứ nuôi dưỡng ảo-vọng về nhau, chúng ta sẽ chỉ đẩy nhau vào chỗ bế tắc, tù tội, không lối thoát.

Vẫn biết, một số thành-phần dân-chủ ở trong nước, kể cả một số anh chị em trẻ, sẵn sàng đem hy-sinh tính-mạng ḿnh cho tự do, dân-chủ của dân-tộc (như anh Nguyễn Vũ B́nh trong lúc này) song đó là một cái giá quá đắt cho cá-nhân họ, và chúng ta phải làm hết sức để đối-phương không thể đẩy những người như họ thành trái độn giữa ta và đối-phương. Anh B́nh cũng như Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc Toàn và nhiều người khác nữa (kể cả người tù lương-tâm lâu nhất ở trong ngục tù CS, Giáo-sư Nguyễn Đ́nh Huy) không phải là những trái banh để cho cô.ng đồng hải-ngoại “đá qua đá lại” với cường-quyền ở t rong nước. Họ là những con người đầy ḷng hy-sinh quả cảm cho lư-tưởng tự do của đất nước, và chúng ta phải làm hết sức ḿnh để cứu họ. Chỉ cứu được họ, người trong nước mới tin là ta có khả-năng thư.c-sự để mà hướng về ta (cũng như trong những năm 86-87 ta đă chứng minh được là ta có thể vâ.n động và làm việc với các chính-quyền Mỹ, Úc v.v. để đ̣i hỏi chính-quyền Hà-nội phải thả những tù-nhân “học tập cải tạo” ngơ hầu đưa họ ra đi trong chương-tŕnh H.Ọ) Những năm 90, cô.ng đồng hải-ngoại cũng đă thành công trong việc vâ.n động với các chính-quyền Úc, Mỹ để đ̣i Hà-nội thả một số tù-nhân của lương-tâm nổi tiếng như Vơ Đại Tôn, Nguyễn Chí Thiện, Phạm Đức Khâm, Đoàn Viết Hoạt, và cả một số vị khác không chịu ra khỏi nước mà đă đ̣i ở lại đe ^? ngày nay vẫn tiếp-tục bị đàn áp (như trường-hợp BS. Nguyễn Đan Quế v.v.).

 

Một kế-hoạch vâ.n động quốc-nội

 

Một kế-hoạch vâ.n động quốc-nội chỉ có thể thành công nếu ta đưa tất cả những yếu-tố trên đây vào trong bàn tính của ta. Tối đa, ta phải t́m cách tránh cái hào nhoáng, cái làm để tranh công, cái làm lấy lệ chứ không nhắm kết-quả cu.-thể, cái lối nói cho sướng miệng, cái lối sỉ vả đối-phương mà không màng đến những hâ.u-quả phản-tácđụng (như không c̣n ai tin ḿnh nữa, kể cả các đồng-minh của ta). Thà âm thầm mà chắc c̣n hơn là rổn rảng đánh trống thổi kèn song ngược lại, cũng không thể viện cớ cái âm thầm để mà che giấu cái bất lực.

V́ thế nên một kế-hoạch vâ.n động quốc-nội phải có những yếu-tính sau đây:

Nó cần có phương-pháp, khi nổi khi ch́m, khi cần th́ làm toáng lên nhưng khi khác có thể lại phải rất kín đáọ

Nó cần những con người kiên tŕ biết việc để theo dơi vấn đề và có chuyên-môn mà các tổ-chức như chính-quyền các quốc gia Tây-phương hay các NGO về nhân-quyền có thể dựa vào, kiểm chứng với ḿnh. Ở đây, không phải chỉ có vấn đề các tù-nhân lương-tâm mà một bộ như Bộ Xă-hội của Mỹ cũng đă tham-khảo ư-kiến của cô.ng đồng người Việt về vấn đề “human trafficking,” buôn bán đàn bà trẻ em vào nghề mại dâm ở Đông-Nam-Á, chẳng ha.n. Hay Bộ Lao động Mỹ cũng đă làm việc với chúng ta trong trường-hợp các công-nhân xuất cảng lao động sang American Samoạ

Nó cần phải có những đường dây kín đáo với các thành-phần dân-chủ ở trong nước để khi cần, t́m được phương-tiện can-thiệp cho họ. Điều này cũng có nghĩa là ta phải có những liên-hệ thường-xuyên, tín cẩn, sẵn có, 24 giờ trên 24, với các tổ-chức nhân-quyền trên thế-giới, với Quốc-hội các nước (Mỹ, Úc, Canada, Liên-hiệp Âu-châu), với các cơ-quan Liên-hiê.p-quốc về nhân-quyền v.v.

Nó cần phải có một số phương-tiện tối-thiểu để giúp đỡ những thành-phần bị trù ếm, cần thuốc men, bị bao vây kinh tế, bị ti.ch-thu các phương-tiện làm việc...

Và nó cần biết những nhươ.c điểm của đối-phương để nếu cần, đánh cho đau, đánh cho thấm, đánh cho đối-phương hết đường chạy, bị cứng họng không bào chữa lếu láo đươ.c. Một trường-hợp rơ ràng nhất trong mặt trận này là vấn đề tham-nhũng mà chính Đảng CS cũng phải công-nhận là “quốc-nạn,” là “dột từ trên mái nhà dột xuống,” là “kẻ nô.i-thù,” là bất trị, là không giải-quyết đươ.c. Vậy th́ tại sao ta phải nương taỷ

 

Tŕnh bầy tại HMDC 2004
Mount St. Mary’s College
Emmitsburg, Maryland

 

Xin vui ḷng liên lạc với  butvang@yahoo.com  về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương
Copyright © 2004 Anh Duong Online
Last modified: 08/10/06