KẾ-HOẠCH VÂ.N
ĐỘNG
QUỐC-NỘI
G.S Nguyễn
Ngọc Bích
LTS: Sau đây
là bài nói chuyện của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích,
nguyên Giám Đốc Đài Phát Thanh Á Châu Tự Do, tại
buổi Họp Mặt Dân Chủ 2004 đă được
tổ chức tại Washington DC, tiểu bang Maryland, từ
ngày 30 tháng 5 đến mùng 2 tháng 6 năm 2004.
Ta không thể
nói đến vâ.n động quốc-nội nếu
như tiếng nói hay việc làm của ta ở ngoài này
hoàn-toàn không được người dân ở trong nước
biết đến. Có nghĩa đây là một vấn
đề thông tin.
Ta cũng không
thể nói đến vâ.n động người dân
trong nước nếu như tiếng nói hay việc làm
của ta ở ngoài này không hạp nhĩ đối với
các đồng-bào quốc-nô.i. Đây là một vấn
đề tâm-lư: chúng ta có rung cảm cùng một nhịp
độ với đồng-bào chúng ta ở trong nước
không? Chúng ta có chia xẻ cùng một tần-số không?
Cuối cùng, ta
cũng không thể nói đến vâ.n động người
dân trong nước nếu chúng ta không được ḷng
tin của bà con, cô bác là chúng ta có khả-năng xoay
đổi t́nh-thế. Tóm lại, đây là một vấn
đề chữ tín và một sự đánh giá chúng ta
ở ngoài này do người dân trong nước,
đă.c-biệt là do các thành-phần dân-chủ ở
trong nước. Nếu chúng ta được đánh
giá là “có thể tin được và cũng có khả-năng
làm một số chuyện” th́ sự vâ.n động quốc-nội
của ta có thể xem là có kết-quả.
Vậy ta hăy thử
dựa trên ba tiêu-chuẩn trên xem khả-năng vâ.n
động quốc-nội của ta đến đâu.
Nó có đem lại kết-quả không? V́ nếu không
th́ cũng không thể có kế-hoạch về mặt
này được.
Tăng cường
thông tin
Như chúng ta
đều biết, sức mạnh và sự trường-tồn
của một chế độ đô.c-tài đều dựa
vào sự bưng bít thông tin, không cho người dân so
sánh được cuộc sống của họ với
thế-giới bên ngoài, không cho họ đối-chiếu
thông tin mà Nhà nước cung-cấp cho họ với những
nguồn tin khác. Song t́nh-h́nh này ở Việt Nam, từ
1975 sau khi miền Bắc đă xâm-chiếm xong miền
Nam, đă đổi thay rất nhiều khi người
miền Bắc vào và trông thấy những thành tựu
không thể chối căi được của miền Nam
(kinh-nghiệm Bùi Tín, Dương Thu Hương, Chế
Lan Viên v.v.). Cái không-gian thông tin này c̣n mở rộng hơn
nữa sau khi Đảng CS buộc ḷng phải “đổi
mới hay là chết” (Trường Chinh) vào năm 1986,
và nó không ngừng mở rộng trong những năm gần
đây khi số người ngoa.i-quốc và kiều-bào
càng ngày càng vào Việt Nam một cách đông đảo
(lên đến hàng triệu người mỗi năm)
cũng như số người Việt Nam đi ra nước
ngoài (để đi học, đi du-lịch, đi công-vụ,
làm ăn buôn bán) ngày càng nhiều, đă.c-biệt giờ
này khi đi sang các nước ASEAN không c̣n cần thị
thư.c/chiếu khán nữa. Ngay phong trào xuất cảng
lao động hay các phụ nữ Việt Nam đi lấy
chồng ngoa.i-quốc cũng tăng cường rất
nhiều nhịp độ thông tin hai chiều về trong
nước.
Hiểu rơ tầm
quan-trọng của thông tin vào trong nước này, một
cuộc vâ.n động qui-mô lập ra các đài phát
thanh hướng vào Việt Nam đă được
khơi động từ thập niên 80. Bản thảo
đầu tiên về Dự-án Đài Á-châu Tự do
được viết ra vào Lễ Tạ Ơn 1983 (cuối
tháng 11 năm ấy), một số tổ-chức của
người Việt, chủ-yếu là ở Hoa-kỳ
(Nghi.-hội Toàn-quốc Người Việt tại Hoa-kỳ,
Tổ-chức Phục Hưng Việt Nam, Tổng-liên-hội
Người Việt Tự do, Ủy-ban Đôngđương
vâ.n động cho Đài ACTD, Hô.i-nghi. Liên-kết NVTD
v.v.), đă tham-gia vâ.n động để cuối cùng
dự-án đó, sau khi được nghiên cứu dưới
thời ông Reagan (cuối thập niên 80), thành luật dưới
thời ông Bush cha (1994), được chính-quyền
Clinton ủng-hộ để đưa vào ngân-sách
(1995), đă thành sự thật (tháng 3-1996). Ban Viê.t-ngữ
được thành-lập vào cuối năm đó và bắt
đầu phát thanh vào Đêm Giao thừa Tết Đinh
Sửu (5-2-1997).
Tầm quan trọng
của đài phát thanh vào Việt Nam được chúng
ta quan-niệm từ rất sớm và không phu.-thuộc
vào những quyết định của chính-phủ Mỹ.
Bằng-chứng là ngay từ khi chính-quyền CS ở
Liên-Xô chưa sụp đổ và mới chỉ nới
rộng thông tin dưới thời Gorbachev, hai tổ-chức
của người Việt ở Mỹ đă cô.ng-tác
để dựng ra Đài Tiếng Nói Tự Do từ Mạc
Tư Khoa (c̣n được biết dưới tên vắn
gọn là Đài Irina, xong đổi thành Đài Nadezhda,
trước khi tắt tiếng). Trong hơn một năm
hoa.t động (1991-92), đài này và hai người chịu
trách-nhiệm chính về nó, Irina Zisman và Lan Hương,
đă được khắp cả thế-giới biết
đến và c̣n gieo lại một ấn-tượng
kinh-hoàng đối với chính-quyền ở trong nước
khi một sớm một chiều, một đài đồng-minh,
đài mạnh nhất trong thế-giới CS, từ thủ
đô của Tổ-quốc xă-hô.i-chủ-nghĩa,
chĩa các làn sóng cực mạnh về Việt Nam để
đưa ra những tiếng nói tự dọ
Khởi đi từ
kinh-nghiệm đó, một lô các đài phát thanh khác cũng
được lập ra ở hải-ngoại để
phát vào trong nước: Chân Trời Mới, Diễn
Đàn Tự Do (đài này ngưng hoa.t động sau khi
Đài ACTD phát sóng), Tiếng Quê Hương, VNTD, Tiếng
Nước Tôi v.v. ngoài những đài như Veritas đă
có từ lâụ
Một tiến-bộ
kỹ-thuật đáng kể trong truyền-thông xuyên-lu.c
đi.a là sự xuất hiện của Internet bên cạnh
các đài phát thanh quốc-tế. Chỉ xin lấy một
tỷđụ: Gần như ngay từ đầu, Ban Viê.t-ngữ
của Đài ACTD đă đưa hết các bài và tin tức
của ḿnh lên Internet hàng ngày. Như vậy, bất cứ
ai cũng có thể vào t́m lại các tin tức và tài-liệu
cũ phát thanh trong hơn 7 năm qua một cách rất
nhanh chóng, chỉ cần đưa con chuột đi bấm
vài ba bấm là ra. Một tỷđụ nữa: Mới
đây, một Website tại Hà-nội đă b ị đóng
cửa chỉ v́ cho post lại 29 trang tin tức về
Cao-nguyên Trung-phần lấy từ Website của BBC.
Dựa lên trên
sự tăng cường thông tin này, chủ-yếu là
qua con đường phát thanh và Internet, không thể nói
là người Việt hải-ngoại đă không có
ảnh-hưởng trong cuộc vâ.n động đối
với dư-luận quốc-nội đươ.c. V́ nếu
không th́ những tiếng nói dân-chủ ở trong nước,
đă.c-biệt là ở Hà-nội như các ông Hoàng
Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Phạm Quế Dương,
Hoàng Tiến, các tiếng nói phụ nữ như
Dương Thu Hương, Bùi Thị Kim Ngân (chị Nguyễn
Vũ B́nh), Vũ Thúy Hà (chị Phạm Hồng Sơn),
bà mẹ Lê Chí Quang v.v. đă không lên tiếng trên các
phương-tiện truyền thanh nàỵ
Đồng
điệu?
Trong cuộc
đấu tranh cho dân-chủ Việt Nam, một câu ta thường
nghe thấy là: Ở bên nhà không ai biết ǵ về những
Nguyễn Vũ B́nh, Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, Hoàng
Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Phạm Quế Dương, mà
họ có biết (nghe phong-thanh về những nhân-vật
kia) th́ họ cũng chẳng quan-tâm. V́ họ cho là cuộc
sống hàng ngày của họ cũng đủ chật vật
rồi, đâu có thời giờ mà để ư đến
những chuyện “trời ơi, đất hỡi”
đó.
Nói cách khác, những
“thông điệp” của các thành-phần dân-chủ
này, cũng như những khiếu nại của các
lănh-tụ tôn-giáo như các HT Huyền Quang và Quảng
Độ nhân danh Giáo-hội PGVN Thống nhất, hoặc
Cha Nguyễn Văn Lư (“Tự do tôn-giáo hay là Chết”),
Cụ Lê Quang Liêm (bên Phâ.t-giáo Ḥa Hảo), hay những bất
b́nh của các đồng-bào Thượng (đă nổ
ra hai lần trên qui-mô lớn vào tháng 2-2001 và mới
đây vào đầu tháng 4-2004) vẫn, theo như quan-niệm
trên, bị xem là “lạc điệu” trong ḍng sống
triền miên của dân-tộc.
Nếu quả
thật là như thế th́ triển-vọng tự do
dân-chủ của Việt Nam xem c̣n rất xa vời. Nhưng
sự thực có đúng như thế không?
Ta hăy lấy một
thí dụ, vụ nôngđân nổi lên ở Thái-b́nh vào
mùa Xuân và mùa Hè 1997. Họ nổi lên v́ đất
đai của họ bị thu dụng cho những mu.c-tiêu
không lợi ích ǵ đến họ, v́ bị trăm thứ
thuế bất công, v́ bị cường-quyền
(nghĩa là những cán-bộ đi.a-phương của
Đảng) chèn ép. Cùng là người Thái-b́nh, ông Phạm
Thế Duyệt (ủy-viên Bộ Chính-trị Trung-ương)
và tướng Trần Độ đă có những cách
đọc rất khác về t́nh-h́nh và ư-nghĩa của
biến-cố đó.
Ông Duyệt, người
được Đảng cử về nghiên cứu vấn
đề, cho rằng đó chỉ là việc làm sai quấy
của đôi ba cán-bộ đi.a-phương và khi phạt
th́ phạt lấy lệ mấy cán-bộ này trong khi bỏ
tù th́ bỏ tù mút mùa mấy người bị coi là
“kẻ xấu” lơ.iđu.ng t́nh-h́nh để gây
ba.o-loa.n. Ông Trần Độ th́ cho là những “điểm
nóng” như Thái-b́nh đầy dẫy và có nguy-cơ
đe dọa đến sự tồn vong của chế
độ. Ai đúng, ai sai? Ông Trần Độ đă nằm
xuống, những vụ khiếu kiện của nôngđân
vẫn tiếp-tục xảy ra, từ Nam chí Bắc, thậm
chí chính-quyền phải ra luật cấm biểu t́nh
ở gần nhà ông Nông Đức Mạnh, c̣n người
t́m cách giúp nhữ ng nôngđân này, cư.u-chiến-binh
Nguyễn Khắc Toàn, th́ đang nằm tù mọt gông
v́ tội “gián điệp.”
Trong một xă-hội
như vậy, hiển-nhiên là tham-nhũng phải đi
đôi với cường-quyền v́ chỉ có thế
chúng mới che đậy được cho nhau. Đó
là ư-nghĩa của những vụ tầy đ́nh như
Thủy-cung Thăng Long, như Năm Cam, như Lă Thị
Kim Oanh, như sáu ông bà bô.-trưởng mà người
ta đang ầm ầm nói đến ở trong nước
trong lúc này. Người dân có thể không hiểu
nô.i-hàm của dân-chủ là cái ǵ, họ có thể
không biết từng cá-nhân trong các thành-phần dân-chủ
là ai vào mới ai, nhưng họ hiểu rất rơ thế
nào là tham-nhũng, là cửa quyền, là mua quan bán tước,
là mại dâm, HIV/AIDS, là bằng giả, là làm dổm,
là giáođục và y-tế xuống cấp, là măi lộ,
là “cơm tù” và “phở dâm” trên các tuyến
đường xuyên suốt Bắc-Nam.
Thành thử vấn
đề không phải là ta không có chuyện để
chia xẻ với đồng-bào ở trong nước. Vấn
đề là ta có lột được cái áo và lối
suy nghĩ trí-thức và trừu tượng của ta
ở ngoài này để mà nói với người trong
nước (hiểu theo nghĩa viết cũng như trao
đổi với họ) về những vấn đề
thư.c-tế mà họ cảm thấy liên-quan trư.c-tiếp
đến cuộc sống của họ, đến những
quyền lợi thiết thân của họ, của con em họ.
Nói cách khác, liệu ta có nắm bắt được
thư.c-tế ở trong nước, nói được
ngôn ngữ của người dân để mà tránh
được lối nói “giáo-sư” như đ̣i dạy
người ta thay v́ thư.c-sự chia xẻ, xót xa,
đồng-qua n-tâm với họ để mà t́m một
lối ra, một lối thoát không?
Tôn trọng sự
thật, đừng nói khoác
Cái khó nhất
trong sự thông-cảm “trong – ngoài,” đó là khuynh-hướng
(quá dễ hiểu) của nhiều người trong chúng
ta là “đi xa, về nhà nói phét.” “Áo gấm về
làng” là một h́nh-thức nói phét, khoác lác như thế.
Chúng ta dễ cười người CS khi họ mới
vào thành, mắt lúc nào cũng ngước lên (để
nh́n các cao-ốc trong các thành phố miền Nam) song miệng
th́ nói phét theo chỉ-thị: “Ồ, cái ǵ chứ mấy
thứ này ở ngoài Bắc đầy dẫy,” kể
cả “cà chớn... đi đầy đường.”
Song điều chúng ta không để ư là về Việt
Nam từ khi Hà-nội có chính-sách “mở cửa,”
không ít người ngoài này cũng khoác lác kiểu
đó. Mà điều này th́ quá dễ v́ so với Việt
Nam thập niên 80 th́ thế-giới bên ngoài quả là một
trời một vư.c. Nhưng chính v́ sự cách-biệt
quá xa đó mà điều ǵ ta nói nghe ra cũng “như
hoang đường” nên người nghe chỉ dám bán
tín, bán nghi mà thôi. Hê.-luận của điều này là
người ta bắt đầu không tin ḿnh, dù như ḿnh
hoàn-toàn thành-tâm nói thiê.t. Rồi người ta ngờ
vực cả những điều rất thật ḿnh khai
ra hay chia xẻ với người trong nước. Mọi
câu nói của ta trở nên bị diễnđịch sai.
Tỷđụ, khi ta nói là làm việc ở Mỹ cực
lắm, phải đầu tắt mặt tối mới
ra đồng tiền th́ lâ.p-tức người nghe diễnđịch:
A, ông ta đang nói thế để tránh cho ḿnh moi tiền
đây! v.v. Một cái phim như The Daughter of Da Nang, một
chuyện hoàn-toàn thật, cho ta thấy tất cả những
hoàn-cảnh éo le v́ hiểu lầm đó!
Làm sao vượt
được những ngờ vực, hiểu lầm này?
Đó, theo tôi, là cái thách thức khó khăn nhất của
người Việt hải-ngoại khi nói chuyện với
người trong nước. Đành rằng với thời-gian,
với sự trao đổi hai chiều trong cả triệu
triệu trường-hợp, sự hiểu lầm kiểu
này sẽ bớt đi và lúc bấy giờ đôi bên sẽ
đánh giá nhau đúng hơn. Nhưng cho tới ngày
đó, người Việt hải-ngoại cần ư-thức
là có vấn đề dễ bị ngô-nhận này mà
không phải v́ CS tuyên-truyền, hay v́ người ta tin
người CS hơn ḿnh. Điều này chỉ là một
điều rất b́nh-thường mà ngay giữa hai
dân-tộc đă chung đụng với nhau cả hàng trăm
năm, nhu + Mỹ và Pháp, mà vẫn có thể bị hiểu
lầm hoàn-toàn, từ đô.ng-cơ đến hành
động, như chiến-tranh Iraq cho ta thấỵ
Tại v́ chỉ
khi nào người dân trong nước, và nhất là những
thành-phần dân-chủ ở trong nước, những
đồng-minh gần gũi ta nhất trong cuộc đấu
tranh cho tự do dân-chủ của Việt Nam tương-lai,
chỉ khi nào họ hiểu ta và đánh giá ta đúng—nhất
là khả-năng của chúng ta làm được ǵ, và
làm được đến đâu—th́ lúc bấy giờ
bước đi của chúng ta mới nhịp nhàng, mới
có kết-quả cu.-thể. Chứ nuôi dưỡng
ảo-vọng về nhau, chúng ta sẽ chỉ đẩy
nhau vào chỗ bế tắc, tù tội, không lối
thoát.
Vẫn biết,
một số thành-phần dân-chủ ở trong nước,
kể cả một số anh chị em trẻ, sẵn sàng
đem hy-sinh tính-mạng ḿnh cho tự do, dân-chủ của
dân-tộc (như anh Nguyễn Vũ B́nh trong lúc này) song
đó là một cái giá quá đắt cho cá-nhân họ,
và chúng ta phải làm hết sức để đối-phương
không thể đẩy những người như họ
thành trái độn giữa ta và đối-phương.
Anh B́nh cũng như Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn,
Nguyễn Khắc Toàn và nhiều người khác nữa
(kể cả người tù lương-tâm lâu nhất
ở trong ngục tù CS, Giáo-sư Nguyễn Đ́nh Huy)
không phải là những trái banh để cho cô.ng đồng
hải-ngoại “đá qua đá lại” với cường-quyền
ở t rong nước. Họ là những con người
đầy ḷng hy-sinh quả cảm cho lư-tưởng tự
do của đất nước, và chúng ta phải làm hết
sức ḿnh để cứu họ. Chỉ cứu
được họ, người trong nước mới
tin là ta có khả-năng thư.c-sự để mà hướng
về ta (cũng như trong những năm 86-87 ta đă
chứng minh được là ta có thể vâ.n động
và làm việc với các chính-quyền Mỹ, Úc v.v.
để đ̣i hỏi chính-quyền Hà-nội phải
thả những tù-nhân “học tập cải tạo”
ngơ hầu đưa họ ra đi trong chương-tŕnh
H.Ọ) Những năm 90, cô.ng đồng hải-ngoại
cũng đă thành công trong việc vâ.n động với
các chính-quyền Úc, Mỹ để đ̣i Hà-nội thả
một số tù-nhân của lương-tâm nổi tiếng
như Vơ Đại Tôn, Nguyễn Chí Thiện, Phạm
Đức Khâm, Đoàn Viết Hoạt, và cả một
số vị khác không chịu ra khỏi nước mà
đă đ̣i ở lại đe ^? ngày nay vẫn tiếp-tục
bị đàn áp (như trường-hợp BS. Nguyễn
Đan Quế v.v.).
Một kế-hoạch
vâ.n động quốc-nội
Một kế-hoạch
vâ.n động quốc-nội chỉ có thể thành
công nếu ta đưa tất cả những yếu-tố
trên đây vào trong bàn tính của ta. Tối đa, ta phải
t́m cách tránh cái hào nhoáng, cái làm để tranh công, cái
làm lấy lệ chứ không nhắm kết-quả cu.-thể,
cái lối nói cho sướng miệng, cái lối sỉ
vả đối-phương mà không màng đến những
hâ.u-quả phản-tácđụng (như không c̣n ai tin
ḿnh nữa, kể cả các đồng-minh của ta). Thà
âm thầm mà chắc c̣n hơn là rổn rảng đánh
trống thổi kèn song ngược lại, cũng không
thể viện cớ cái âm thầm để mà che giấu
cái bất lực.
V́ thế nên một
kế-hoạch vâ.n động quốc-nội phải có
những yếu-tính sau đây:
Nó cần có phương-pháp,
khi nổi khi ch́m, khi cần th́ làm toáng lên nhưng khi khác
có thể lại phải rất kín đáọ
Nó cần những
con người kiên tŕ biết việc để theo dơi
vấn đề và có chuyên-môn mà các tổ-chức như
chính-quyền các quốc gia Tây-phương hay các NGO về
nhân-quyền có thể dựa vào, kiểm chứng với
ḿnh. Ở đây, không phải chỉ có vấn đề
các tù-nhân lương-tâm mà một bộ như Bộ Xă-hội
của Mỹ cũng đă tham-khảo ư-kiến của
cô.ng đồng người Việt về vấn đề
“human trafficking,” buôn bán đàn bà trẻ em vào nghề
mại dâm ở Đông-Nam-Á, chẳng ha.n. Hay Bộ Lao
động Mỹ cũng đă làm việc với chúng
ta trong trường-hợp các công-nhân xuất cảng
lao động sang American Samoạ
Nó cần phải
có những đường dây kín đáo với các
thành-phần dân-chủ ở trong nước để
khi cần, t́m được phương-tiện can-thiệp
cho họ. Điều này cũng có nghĩa là ta phải
có những liên-hệ thường-xuyên, tín cẩn, sẵn
có, 24 giờ trên 24, với các tổ-chức nhân-quyền
trên thế-giới, với Quốc-hội các nước
(Mỹ, Úc, Canada, Liên-hiệp Âu-châu), với các cơ-quan
Liên-hiê.p-quốc về nhân-quyền v.v.
Nó cần phải
có một số phương-tiện tối-thiểu
để giúp đỡ những thành-phần bị trù
ếm, cần thuốc men, bị bao vây kinh tế, bị
ti.ch-thu các phương-tiện làm việc...
Và nó cần biết
những nhươ.c điểm của đối-phương
để nếu cần, đánh cho đau, đánh cho thấm,
đánh cho đối-phương hết đường
chạy, bị cứng họng không bào chữa lếu
láo đươ.c. Một trường-hợp rơ ràng nhất
trong mặt trận này là vấn đề tham-nhũng mà
chính Đảng CS cũng phải công-nhận là “quốc-nạn,”
là “dột từ trên mái nhà dột xuống,” là “kẻ
nô.i-thù,” là bất trị, là không giải-quyết
đươ.c. Vậy th́ tại sao ta phải nương
taỷ
Tŕnh bầy tại
HMDC 2004
Mount St. Mary’s College
Emmitsburg, Maryland