NHỮNG BẢN ÁN TIỀN CHẾ VÀ BẤT CÔNG ÁP ĐẶT CHO
TRẦN DŨNG TIẾN, TRẦN KHUÊ VÀ PHẠM QUẾ DƯƠNG
L.S. Nguyễn Hữu Thống
Ngày 28-12-2002, sau chuyến vào Nam thăm Trần Khuê, Phạm Quế Dương đă bị bắt giữ tại sân ga Saigon trên đường về Hà Nội.
Ngày hôm sau, 29-12-2002, Trần Khuê cũng bị bắt giữ tại tư gia.
Gần một tháng sau, ngày 22-1-2003, đến lượt Trần Dũng Tiến bị bắt giữ tại Hà Nội.
Tháng 3-2003, Ban Tuyên Giáo Thành Ủy Hà Nội phổ biến tờ thông báo nội bộ dưới tiêu đề “Những hoạt động vi phạm pháp luật của Phạm Quế Dương, Trần Khuê và Trần Dũng Tiến”.
Theo tờ thông báo nội bộ nói trên và bản cáo trạng tiên khởi, 3 nhà cách mạng lăo thành Phạm Quế Dương, Trần Khuê và Trần Dũng Tiến đă bị truy tố về tội gián điệp chiếu Điều 80 khoản 1 Bộ Luật H́nh Sự mà h́nh phạt có thể đến tử h́nh. Ba vị là những thành viên sáng lập và đă xin đăng kư Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng ngày 2-9-2001. Phạm Quế Dương và Trần Khuê là hai phát ngôn viên của Hội.
Ngày 2-8-2002, 3 vị lại đứng ra thành lập Nhóm Dân Chủ gồm 21 nhân sĩ Bắc Hà thuộc các thành phần cách mạng lăo thành, cựu chiến binh và trí thức trẻ như Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Vũ B́nh v...v... Trước đó, ngày 2-9-2000, Nguyễn Vũ B́nh đă tiên phong đệ đơn xin thành lập Đảng Tự Do Dân Chủ. Đây là việc khởi động phong trào đấu tranh cho Dân Chủ và Nhân Quyền, đấu tranh phối hợp trong một tổ chức, có lănh đạo và trách nhiệm. Đây cũng là con đường tất yếu của phong trào đấu tranh công khai, ôn ḥa, hợp pháp và bất bạo động nhằm giải thể chế độ độc tài Cộng Sản và thiết lập chế độ dân chủ pháp trị.
Từ tháng 01-2002 đến tháng 12-2003, Ṭa Án Hà Nội đă bắt giữ, truy tố và kết án các nhà trí thức trẻ trong nhóm Dân Chủ về các tội danh giả tạo và lố bịch như tuyên truyền chống nhà nước hay gián điệp, và đă phạt Lê Chí Quang 4 năm tù, Phạm Hồng Sơn 5 năm tù, Nguyễn Vũ B́nh 7 năm tù và Nguyễn Khắc Toàn 12 năm tù.
Sau vụ đàn áp 4 nhà trí thức trẻ trong Nhóm Dân Chủ, từ tháng 12-2002 tới tháng 7-2004, Đảng Cộng Sản lại bắt giữ, truy tố và kết án 3 nhà cách mạng lăo thành trong Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng về tội lợi dụng quyền tự do dân chủ, và đă phạt Trần Dũng Tiến 10 tháng tù ngày 12-11-2003, Trần Khuê 19 tháng tù ngày 9-7-2004 và Phạm Quế Dương 19 tháng tù ngày 14-7-2004 vừa qua.
A. NHỮNG BẢN ÁN TIỀN CHẾ
Trong 3 vụ án nói trên, v́ nhu cầu t́nh thế, Ṭa Án đă nhiều lần sửa cáo trạng và cải tội danh để tuyên những bản án tiền chế. Trước áp lực quốc tế và quốc nội, đặc biệt là đối với 3 cựu đảng viên Cộng Sản thâm niên có uy tín và hậu thuẫn, Đảng Cộng Sản đă chùn tay. Chính sách cố hữu của họ là
mềm nắn rắn buông. Dầu sao, với bản chất quanh co và trí trá, Đảng Cộng Sản đă không có can đảm và phục thiện để nh́n nhận sự sai trái và tính độc đoán của việc bắt giữ. Họ loanh quanh sửa cáo trạng và cải tội danh để có thể phóng thích các bị can vài ba tuần lễ sau phiên xử. Đây hiển nhiên là những bản án tiền chế.
TRƯỜNG HỢP TRẦN DŨNG TIẾN
Theo bản cáo trạng tiên khởi, cùng với Phạm Quế Dương và Trần Khuê, Trần Dũng Tiến bị truy tố về tội gián điệp chiếu Điều 80 Khoản 1 Bộ Luật H́nh Sự mà h́nh phạt có thể đến tử h́nh.
Các bị can bị trách cứ đă hoạt động nhằm “phục vụ các âm mưu chống phá nhà nước, mượn danh nghĩa thành lập phong trào đấu tranh chống tham nhũng để tập hợp lực lượng nhằm lật đổ chế độ”.
Trong hiện vụ Trần Dũng Tiến chỉ phổ biến một số bài viết tố cáo những hành vi tham nhũng lạm quyền của nhà cầm quyền. Anh nêu đích danh Tổng Bí Thư Đỗ Mười, Chủ Tịch Nước Lê Đức Anh và Bộ Trưởng Nội Vụ Lê Minh Hương với những thái độ và hành vi bao che tham những trong vụ Năm Cam.
Quyền tố cáo lạm quyền được bảo vệ bởi Điều 74 Hiến Pháp và Điều 2 Công Ước Dân Sự Chính Trị.
Ngoài ra Trần Dũng Tiến c̣n đ̣i truy tố Nguyễn Khoa Điềm, Trưởng Ban Thông Tin Văn Hóa Trung Ương về tội phản bội tổ quốc. V́ trong bài chúc văn 100 câu đọc ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2000, ông này đă cắt bỏ 2 câu quan trọng nhất nói về chiến công Điện Biên Phủ (để giành độc lập) và chiến công Giải Phóng Miền Nam (để thống nhất đất nước).
Ngày 16-10-2003, Trần Dũng Tiến bị truy tố ra ṭa không phải về tội gián điệp, mà về tội lạm dụng quyền tự do dân chủ trong trường hợp nghiêm trọng chiếu Điều 258 Khoản 2 với h́nh phạt từ 2 năm đến 7 năm tù. Tuy nhiên Ṭa đă đ́nh hoăn nội vụ. Và trong phiên xử sau cùng ngày 12-11-2003, một lần nữa, Ṭa lại cải tội danh theo Điều 258 Khoản 1 với h́nh phạt nhẹ hơn, từ 6 tháng đến 3 năm tù. Và ṭa đă kết án Trần Dũng Tiến 10 tháng tù để có thể phóng thích anh ngày 22-11-2003 (10 ngày sau phiên xử : anh bị bắt giữ ngày 22-1-2003).
TRƯỜNG HỢP TRẦN KHUÊ
Theo cáo trạng tiên khởi, Trần Khuê bị truy tố về tội gián điệp chiếu Điều 80 Khoản 1 Bộ Luật H́nh Sự với h́nh phạt từ 12 năm đến tử h́nh. Sau đó Công Tố Viện (Viện Kiểm Sát Nhân Dân) dă sửa cáo trạng và đề nghị giảm h́nh phạt c̣n từ 7 năm đến 15 năm tù về tội gián điệp trong trường hợp ít nghiêm trọng chiếu Điều 80 Khoản 2.
Trung tuần tháng 6, 2004 sau khi được thông báo đă có cáo trạng chính thức, 2 luật sư Đàm Văn Hiếu và Trần Lâm đă từ Bắc vào Nam yêu cầu được tiếp xúc với bị can và tham khảo hồ sơ. Tuy nhiên ṭa án đă không chấp thuận với lư do viện dẫn là hồ sơ chưa hoàn tất và tội danh c̣n phải cải sửa.
Hai luật sư ở tuổi ngoài 80 đă phản đối việc này, v́ họ đă phải di chuyển khó khăn với đường sá xa xôi và sức khỏe suy yếu. Họ đă được cơ quan có thẩm quyền trả lời là “cứ yên tâm, có lẽ không cần phải vào Nam biện hộ nữa, v́ Trần Khuê sẽ không bị xử án nặng”. Cuối tháng 6, 2004 sau khi biết ngày xử, gia đ́nh Trần Khuê đă thông báo cho các luật sư hay “họ không cần phải vào Saigon bào chữa nữa, v́ chính quyền cho biết trường hợp Trần Khuê sẽ được giải quyết thỏa đáng” (khỏi cần nhờ luật sư tranh luận và bào chữa trước ṭa). Và ngày 9-7-2004, Ṭa án đă tuyên phạt Trần Khuê 12 tháng tù về tội Lợi Dụng Quyền Tự Do Dân Chủ, cộng thêm 7 tháng tù về tội vi phạm quyết định quản chế hành chánh (quyết định này được tống đạt hồi tháng 10, 2001, 1 tháng sau khi Phạm Quế Dương và Trần Khuê đệ đơn xin thành lập Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng). Trần Khuê bị bắt giữ ngày 29-12-2002. Với án tù 19 tháng, anh sẽ được trả tự do ngày 29 tháng 7-2004 (20 ngày sau phiên xư)û.
Ngoài việc khởi xướng thành lập Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng và Nhóm Dân Chủ 21 người, Trần Khuê c̣n viết bài tố cáo Đảng Cộng Sản đă nhượng đất biên giới cho Trung Cộng. Và trong những năm 2000 và 2001 anh đă xuất bản 2 cuốn Đối Thoại để phê phán chính sách độc tài của Đảng Cộng Sản. Từ đó anh bị theo dơi, trù dập và kết án oan uổng.
TRƯỜNG HỢP PHẠM QUẾ DƯƠNG
Theo cáo trạng tiên khởi, cùng với Trần Khuê và Trần Dũng Tiến, Phạm Quế Dương bị truy tố về tội gián điệp chiếu Điều 80 Khoản 1 Bộ Luật H́nh Sự mà h́nh phạt có thể đến tử h́nh. Tháng 3-2004, ṭa án Hà Nội đă đ́nh hoăn phiên xử v́ lư do hồ sơ chưa hoàn tất và tội danh c̣n phải cải sửa.
Tháng 6, 2004, cũng như trong vụ Trần Khuê, Công Tố Viện đă cải tội danh từ tội gián điệp trong trường hợp nghiêm trọng chiếu Điều 80 Khoản 1 thành tội gián điệp trong trường hợp ít nghiêm trọng, chiếu Điều 80 Khoản 2 với h́nh phạt từ 5 năm đến 15 năm tù.
Rốt cuộc, cũng như Trần Khuê và Trần Dũng Tiến, Phạm Quế Dương chỉ bị truy tố về tội Lợi Dụng Quyền Tự Do Dân Chủ chiếu Điều 258 Khoản 1 với h́nh phạt từ 6 tháng đến 3 năm tù.
Và đúng như dự đoán của mọi người, ngày 14 tháng 7-2004 vừa qua, Ṭa Án Hà Nội đă tuyên phạt anh 19 tháng tù. Bị bắt giữ ngày 28-12-2002, anh sẽ được trả tự do ngày 28-7-2004 (14 ngày sau phiên xử).
Là người chủ xướng và phát ngôn của 2 tổ chức đối kháng, Phạm Quế Dương và Trần Khuê đă bi kết án nặng hơn Trần Dũng Tiến. Nhưng vẫn c̣n nhẹ hơn các nhà trí thức trẻ trong Nhóm Dân Chủ. V́ anh có công xây dựng chế độ với 50 tuổi đảng. Anh làm lính từ năm 15 tuổi và đăø phục vụ quân đội 45 năm với quân hàm đại tá. Chức vụ sau cùng của anh là tổng biên tập tạp chí Lịch Sử Quân Sự.
Năm 1999 để phản kháng việc Đảng Cộng Sản khai trừ Trần Độ, anh trả lại thẻ đảng và trở lại đạo Phật. Với tư cách nhà báo, anh chủ trương báo chí là công cụ thông tin của đại chúng, chống lại quan niệm chính thống theo đó báo chí là công cụ tuyên truyền của Đảng.
Cũng như Trần Khuê và các nhà trí thức trẻ trong Nhóm Dân Chủ, anh lên án Đảng Cộng Sản đă nhượng đất biên giới và bán nước Biển Đông cho Trung Cộng. Anh đứng ra bênh vực những người thấp cổ bé miệng “chống bọn quan lại Cộng Sản bất lương và bất lực”. Anh cũng lên án chế độ quản chế công dân không xét xử áp dụng cho Trần Khuê, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc v...v...
Theo anh muốn chống tham nhũng phải chống độc tài. Muốn đưa Cách Mạng Dân Chủ đến thành công phải đấu tranh kết hợp trong một tổ chức, có lănh đạo và trách nhiệm. Đó là ư nghĩa và lư do thành lập Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng và Nhóm Dân Chủ của 21 nhân sĩ Bắc Hà. Những chiến sĩ dân chủ này xuất đầu lộ diện để công khai đối thoại và đấu tranh trực diện với nhà cầm quyền đ̣i Tự Do, Công Lư, Dân Chủ và Nhân Quyền.
B. NHỮNG BẢN ÁN BẤT CÔNG
Trong mọi trường hợp chúng ta không thể chấp nhận những bản án
tiền chế.
Hơn nữa việc kết án 3 nhà cách mạng lăo thành Phạm Quế Dương, Trần Khuê và Trần Dũng Tiến về tội lợi dụng quyền tự do dân chủ hiển nhiên là bất công.
Đây là một tội bịa đặt giả tạo không thấy trong các bộ h́nh luật của các quốc gia dân chủ trên thế giới. Hơn nữa tại Việt Nam ngày nay v́ không có tự do dân chủ nên không ai có cơ hội để lợi dụng quyền tự do dân chủ!
Về mặt pháp lư, lợi dụng có nghĩa là hưởng dụng, sử dụng hay hành sử. Do đó,
lợi dụng quyền tự do dân chủ không phải là một tội h́nh sự.
Đó chỉ là việc hành sử hợp pháp những quyền tự do dân chủ đă được thừøa nhận và bảo vệ bởi hiến pháp quốc gia và công ước quốc tế:
a) Về mặt văn hóa giáo dục, nếu có điều kiện, sinh viên có thể
lợi dụng quyền tự do đi lại, tự do xuất ngoại và hồi hương
để xuất dương du học, trau giồi các kiến thức khoa học kỹ thuật để một mai trở về phục vụ quê hương.
b) Về mặt chính trị, trong chế độ dân chủ pháp trị, cử tri có thể
lợi dụng quyền tự do bầu cử dùng lá phiếu để lật đổ (trong ṿng ôn ḥa và hợp pháp) các chính phủ độc tài, tham nhũng, bất công hay bất lực.
c) Sau khi Tổng Thống Vincent Auriol kư Hiệp Định Élysée
ngày 8-3-1949 để trao trả độc lập cho Việt Nam, ngày 23-4-1949, qua Quốc Hội Nam Kỳ, đồng bào Miền Nam đă
lợi dụng quyền dân tộc tự quyết để giải tán chế độ Nam Kỳ Tự Trị, và sát nhập Nam Phần vào lănh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất.
d) Năm 1962 bằng cuộc trưng cầu dân ư do Tổng Thống De
Gaulle tổ chức, nhân dân Algérie đă lợi dụng quyền dân tộc tự quyết
để băi bỏ chế độ thuộc địa và thâu hồi chủ quyền độc lập.
Trong những trường hợp kể trên, lợi dụng các quyền tự do dân chủ không những là quyền lợi chính đáng, mà c̣n là nghĩa vụ cao quư của công dân.
e) Giữa thế kỷ 19, tại Anh Quốc, lợi dụng quyền tự do tư tưởng
và tự do phát biểu, Các Mác đă công bố bản Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản, kêu gọi vô sản toàn thế giới đứng lên dùng vơ trang lật đổ các chế độ tư bản. Mặc dầu vậy, ông ta đă không bị Ṭa Án Luân Đôn truy tố về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ.
Trong hiện vụ, các bị can chỉ phổ biến một số bài viết để tố cáo những hành vi tham nhũng lạm quyền của nhà cầm quyền.
Quyền khiếu nại và khiếu tố là một quyền tự do dân chủ được thừa nhận và bảo vệ bởi Hiến Pháp Quốc Gia (Điều 74), và Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị (Điều 2). Đây cũng là quyền tham gia chính quyền: Tham gia chính quyền trực tiếp bằng cách ứng cử vào các chức vụ công cử, gián tiếp bằng cách bầu lên các đại biểu, hoặc bằng cách đạo đạt các thỉnh nguyện, khiếu nại hay khiếu tố, để góp phần cải thiện đường lối và chính sách quốc gia.
Với việc sử dụng hợp pháp quyền tự do phát biểu, quyền tố cáo lạm quyền và quyền tham gia quản lư Nhà Nươc, các bị can không phạm tội ǵ và phải được ṭa tha bổng.
Ngoài ra các bị can chỉ hành sử ôn ḥa và hợp pháp
quyền tự do lập hội khi đệ đơn xin thành lập Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng. Quyền này được quy định và bảo vệ bởi Hiến Pháp (Điều 69) cũng như bởi Công Ước về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị (Điều 22). Công Ước này Việt Nam đă kư kết tham gia năm 1982, nên có giá trị là một hiệp ước quốc tế và có hiệu lực cao hơn hiến pháp và luật pháp quốc gia.
MỖI CÁI TÓC MỘT CÁI TỘI
Dưới chế độ Cộng Sản tội trạng nhiều như lá cây trong rừng, mỗi cái tóc là một cái tội. Phe lănh đạo Cộng Sản đa nghi, nh́n đâu cũng thấy tội, nh́n ai cũng thấy kẻ thù.
Họ đă bịa đặt ra những tội giả tạo như tội phản động, tội phản cách mạng, tội làm tay sai cho đế quốc, tội địa chủ, tội tư sản v...v... Đó là những
tội chính trị trong chính sách đấu tranh giai cấp, nhằm thiết lập chế độ mệnh danh là vô sản chuyên chính bằng cách tiêu diệt các giai cấp tư sản và tiểu tư sản.
Trong thập niên 60, để đàn áp Phong Trào Xét Lại chủ trương thay thế chính sách đối đầu của Stalin bằng chính sách chung sống ḥa b́nh, Đảng Cộng Sản đă giam giữ và đầy đọa hàng trăm trí thức văn nghệ sĩ tiến bộ bị quy kết về tội
XÉT LẠI CHỐNG ĐẢNG như Hoàng Minh Chính, Nguyễn Kiến Giang v...v...
Trong thập niên 90, với sự lớn mạnh của Phong Trào Dân Chủ, Đảng Cộng Sản đă sửa đổi h́nh luật và gia tăng h́nh phạt trong tội Lợi Dụng Quyền Tự Do Dân Chủ phương hại đến uy tín và quyền lợi của Nhà Nước hay của Đảng. Đó là tội
DÙNG DÂN CHỦ CHỐNG ĐẢNG.
Để đàn áp đối lập, Đảng Cộng Sản đă bịa đặt những tội giả tạo không thấy trong các bộ h́nh luật của các quốc gia văn minh, như tuyên truyền chống chế độ, tuyên truyền chống nhà nước, phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia v...v... Mới đây là tội Lợi Dụng Quyền Tự Do Dân Chủ.
Từ nay công dân có quyền sử dụng các quyền tự do dân chủ ghi trong hiến pháp quốc gia và công ước quốc tế,
với điều kiện là việc hành sử này không xâm phạm đến quyền lợi của Nhà Nước, đến uy tín của Đảng hay huyền thoại của lănh tụ Đảng.
Đảng Cộng Sản khai sanh ra Nhà Nước và lănh đạo Nhà Nước (cán bộ Đảng ăn lương của Nhà Nước). Xâm phạm quyền lợi của Nhà Nước là xâm phạm quyền lợi của Đảng, và Đảng sẽ dùng Nhà Nước (qua luật pháp và ṭa án) để trả đũa và trừng phạt.
Việc đáng lưu ư là Điều 258 không đ̣i hỏi bị can phải có ư định phạm pháp.
Nếu do việc sử dụng quyền tự do dân chủ, bị can đă vô t́nh (hay v́ những lư do ngoài ư muốn) gây thiệt hại vật chất hay tinh thần cho Đảng hay cho Nhà Nước, th́ bị can cũng vẫn có thể bị kết án từ 2 năm đến 7 năm tù. Trong Điều 258 quy định “tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà Nước”, không thấy có chữ
“nhằm” (nhằm xâm phạm). Do đó ṭa án có thể giải thích rằng bị can không cần cố ư phạm pháp (xâm phạm lợi ích của Nhà Nước) cũng vẫn có thể bị kết án về tội đại h́nh này. Đây là một
quái đản pháp lư (legal anomaly)
Hơn nữa “lợi ích của Nhà Nước” là một ư niệm quá bao quát và mơ hồ. Vả lại người thẩm định xem lợi ích Nhà Nước có bị xâm phạm hay không lại chính là Nhà Nước hay là Đảng. Chiếu Điều 4 Hiến pháp, Đảng được quyền lănh đạo Nhà Nước, nên thường ra chỉ thị cho Quốc Hội và Ṭa Án trong việc quy định tội trạng và ấn định h́nh phạt.
Sau tội Xét Lại Chống Đảng, H́nh Luật Việt Nam đă ngụy tạo một tội tổng quát khác mệnh danh là tội Dùng Dân Chủ Chống Đảng.
ĐỘC ÁC HƠN LUẬT RỪNG XANH
Nhà cầm quyền Cộng Sản cố t́nh quy định tội danh hết sức bao quát và mơ hồ.
Với mục đích tước đoạt việc sử dụng tất cả các quyền tự do dân chủ của người dân. Tố cáo những hành vi bao che tham nhũng hay đệ đơn xin thành lập Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng cũng cấu thành tội h́nh sự.
Với tội danh này, người dân sẽ vô cùng ngần ngại mỗi khi hành sử (dầu là hợp pháp) quyền tự do dân chủ. V́ họ biết rằng, nếu họ đi trái đường lối chính sách của Đảng, th́ Ṭa Aùn (một công cụ của Đảng) sẽ thẩm định rằng, việc họ sử dụng quyền tự do dân chủ đă gây hậu quả xâm phạm lợi ích của Nhà Nước, chế tài bởi Điều 258 H́nh Luật.
Trong không khí đàn áp khủng bố hiện nay, chúng ta thấy luật pháp Cộng Sản c̣n độc ác hơn luật rừng xanh. Luật rừng xanh chỉ tàn ác. Luật pháp Cộng Sản vừa tàn ác lại vừa thâm độc.
Chiến lược hai mặt của Đảng Cộng Sản là:
1) Một mặt dùng tuyên truyền dối trá, giả nhân giả nghĩa, ban bố
các quyền tự do dân chủ trong hiến pháp quốc gia và công ước quốc tế để giành chính nghĩa tự do dân chủ.
2) Mặt khác, dùng luật pháp và ṭa án để ngăn cản việc hành sử các
quyền tự do dân chủ, đồng thời đàn áp khủng bố những công dân lương thiện có ḷng với đất nước và có dũng cảm đứng lên tố cáo bạo quyền, đ̣i Tự Do, Công Ly,ù Dân Chủ và Nhân Quyền.
Luật Sư NGUYỄN HỮU THỐNG