Tại
sao phải có nghị quyết về Việt kiều?
Wednesday, March
31, 2004 5:50:51 PM -
NGÔ NHÂN DỤNG
Bản nghị quyết “về công tác đối
với người Việt Nam ở nước ngoài”
được hầu hết các tờ báo ở trong nước
đăng lên, chứng tỏ đây là một kế
hoạch tuyên truyền có quy mô rộng lớn, từ trên
Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam là
cơ quan quyền lực cao nhất ban xuống. Do đó,
người Việt ở ngoại quốc cần
phải bày tỏ ư kiến để đồng bào
trong nước biết phản ứng và thái độ
của gần 3 triệu người Việt Nam trước
chiến dịch tuyên truyền này.
Trước hết, người Việt Nam ở trong và
ngoài nước lúc nào cũng thương yêu, giúp đỡ
lẫn nhau. Người Việt ở nước ngoài lúc
nào cũng thiết tha muốn giúp đồng bào nghèo
khổ trong nước, muốn xây dựng quê hương
tiến bộ, giàu mạnh, dân chủ, tự do. Đó là
một sự thật, được phát khởi tự
nhiên từ tấm ḷng của những người cùng máu
mủ; nhờ phúc ấm tổ tiên để lại nên
biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Đúng ra, dân tộc Việt Nam chúng tôi không cần đến
một nhóm người gọi tên là Bộ Chính Trị,
vốn không được ai kính trọng; không những
thế c̣n bị nhiều người khinh rẻ;
đưa ra một chính sách chiếu cố và bày đặt
ra những công tác với mục đích thao túng đời
sống người Việt ngoài nước, giống như
họ vẫn làm với đồng bào trong nước.
Nếu nước ta được sống trong một xă
hội tự do, dân chủ th́ việc đóng góp
của Việt kiều vào đời sống đồng
bào trong nước sẽ gia tăng hàng chục, hàng trăm
lần và tốt đẹp hơn nữa. Và nếu có
tự do th́ việc đồng bào trong nước
hỗ trợ Việt kiều sống ở nước
ngoài cũng tự động gia tăng hàng chục, hàng
trăm lần. Điều này chúng ta sẽ thấy rất
dễ dàng khi nh́n vào thí dụ ở các quốc gia khác.
Nhưng ngay hành động ban bố ra một chính sách
của Đảng Cộng Sản, việc đặt định
ra những kế hoạch công tác của đảng
đó đối với người Việt ở nước
ngoài, đặt ra những bổn phận của người
trong nước cũng như người nước ngoài,
hành động này đă bắt nguồn từ một
quan niệm sai lầm. Đó là chủ trương từ lâu
đời vẫn coi Đảng Cộng Sản là cha, là
mẹ của cả nước, là chủ nhân ông
của toàn thể dân tộc, có quyền sai bảo
những người sống ở trong cũng như ngoài
lănh thổ Việt Nam. Chúng tôi hoàn toàn phản đối
quan niệm hủ lậu, lỗi thời, và tác hại
đó.
Bất cứ quốc gia nào có kiều dân ở nước
ngoài th́ người trong nước và ngoài nước
cũng t́m cách liên lạc và hỗ trợ lẫn nhau, v́
hai khối người có nhiều nhu cầu khác
biệt, có những khả năng dị biệt có
thể bổ túc lẫn nhau. Khi quốc gia được
sống tự do th́ những công tác hỗ trợ này
tự động diễn ra, v́ nhu cầu của mọi
người, không cần ai “chỉ đạo”
hết. Một quy tắc đơn giản của hệ
thống thị trường là khi người ta
được trao đổi tự do với nhau th́
việc trao đổi sẽ diễn ra v́ cả hai bên
đều thấy ḿnh có lợi. Điều này càng đúng
trong trường hợp tương giao giữa người
cùng máu mủ sống ở trong hay ngoài nước.
Có những người Ấn Độ xuất cảng cà
ri, hương liệu, cho tới các cuốn phim, các h́nh
tượng thần thánh từ nước họ sang bán
ở Hoa Kỳ. Có những người Ấn khác
học xong một nghề kỹ sư ở M.I.T. rồi
về nước làm việc hoặc đầu tư.
Tất cả các hành động đó tự phát mà không
cần một đảng nào chỉ đạo cả. Chính
phủ Ấn Độ từ thời Đảng Quốc Đại
đến thời Đảng Dân Tộc Ấn không cần
đưa ra một nghị quyết nào để
khuyến khích người Ấn Độ ở nước
ngoài đầu tư vào trong nước, hoặc
khuyến khích người trong nước phải giúp người
ở ngoài bảo vệ văn hóa, phong tục. Tại
sao họ không cần đến một nghị quyết?
V́ khi chính phủ Ấn Độ công nhận mọi người
Ấn hoặc người ngoại quốc có quyền
tự do đầu tư, quyền tư hữu được
bảo vệ không lo bị các quan chức, công an cướp
giật, không lo bị cả guồng máy tham nhũng bóc
lột, th́ ai có tiền tự nhiên thấy cơ hội
là họ đầu tư. Chính phủ Ấn Độ cũng
không cần làm nghị quyết về việc bán sách báo,
mở mạng lưới và cung cấp văn hóa
phẩm cho các kiều dân. V́ khi hàng triệu người
Ấn Độ ở nước ngoài có nhu cầu đó
tự nhiên có những người Ấn Độ ở
trong nước đem ra cung cấp.
Hăy kể một thí dụ khác. Người Phi Luật Tân
đang làm việc ở Hoa Kỳ có hàng triệu người,
và có hàng trăm ngàn người đang giữ trẻ,
giúp việc trong nhà và làm lao động ở Hồng Kông,
Đài Loan, Singapore, vân vân. Khi có tiền họ tự động
gửi về giúp gia đ́nh hoặc mở xí nghiệp,
mở cửa hàng sinh lợi. Khi có tin những người
Phi này bị các chủ nhân ở Hồng Kông, Đài Loan
bạc đăi, đánh đập hoặc trả lương
quá thấp, th́ chính phủ Phi Luật Tân ra lệnh
sứ quán của họ can thiệp, giúp các nạn nhân
kiện thưa ra ṭa. Họ làm công việc đó không
phải v́ có một đảng chính trị nào
“chỉ đạo,” v́ một lẽ giản dị là
chính phủ ở Phi Luật Tân thay đổi luôn,
mỗi đời tổng thống có thể thuộc
những đảng khác nhau. Nhưng guồng máy chính
quyền ở một nước như Phi Luật Tân (cũng
c̣n nghèo nàn và cũng chỉ đang xây dựng học
tập lối sống dân chủ,) guồng máy đó coi
việc bảo vệ các kiều bào ở nước ngoài
là bổn phận tự nhiên của họ. Các công
chức được trả lương để làm
những công việc đó mà không cần một
nghị quyết mới nào cả.
Vậy th́ tại sao Đảng Cộng Sản Việt Nam
phải ban hành một bản nghị quyết về công
tác đối với người Việt ở hải
ngoại, ra lệnh cho các báo các đài, các mạng lưới
Internet dưới tay họ phải đăng nguyên văn
đầy đủ, phải phỏng vấn đủ
mọi hạng quan chức để quảng cáo cho cái
nghị quyết này? Lư do chính là v́ nước Việt
Nam không có tự do. Người Việt Nam ở trong nước
không được tự do, người Việt ở nước
ngoài về cũng mất tự do.
Khi một đảng tự chiếm độc quyền
cai trị quốc gia, muốn “lănh đạo” tất
cả mọi mặt từ chính trị, kinh tế đến
văn hóa xă hội, th́ họ tập thói quen bất
cứ việc ǵ cũng muốn làm một cái nghị
quyết để ra lệnh cho cả nước
phải làm. Dần dần, họ không thể quan
niệm được là có những việc con người
ta thường tự động làm lấy, không cần
ai lănh đạo cả! Ngày xưa Đảng Cộng
Sản ở Trung Quốc và Việt Nam c̣n coi việc
dựng vợ gả chồng cho mỗi đảng viên,
rồi mỗi công dân cũng là trách nhiệm của Đảng!
Ngày nay họ đă bắt đầu nới lỏng dây
trói đó nhưng cái thói quen độc quyền lănh
đạo không sao bỏ được!
Vẫn đề chính là mối liên hệ, cộng tác và
hỗ trợ giữa đồng bào ở nước ngoài
với đồng bào trong nước. Nếu nước
Việt Nam được tự do, người Việt
Nam được tự do, th́ người ngoài nước
sẽ đem tiền về đầu tư, tạo công
việc làm cho đồng bào trong nước. Rồi người
trong nước sẽ đem sản vật, từ
thực phẩm cho đến sách báo, băng nhạc ra bán
và được người ở ngoài đón nhận.
Sở dĩ ngày nay vẫn có những phong trào chống
đối các sản phẩm văn hóa từ trong nước
đem ra bởi v́ Đảng Cộng Sản ngăn cấm
không cho các sản phẩm văn hóa từ ngoài đem
về nước. Một nhà tu hành như Ḥa Thượng
Thích Nhất Hạnh đă phải nói với các phóng viên
các báo Los Angeles Times và OC. Register rằng ông đă
được mời sang thuyết pháp ở những nước
cộng sản như Trung Quốc nhiều lần, mà ông
vẫn không được phép về Việt Nam
giảng dạy đạo Phật cho đồng bào ông.
Trong lúc đó th́ sách của ông bán được
ở Nam Hàn hàng triệu cuốn và có sách mới ra
đă đang được dịch sang tiếng Nepal.
Chính sách độc quyền về văn hóa tư tưởng
đó là lư do khiến tất cả mọi người
nghi ngờ các sản phẩm văn hóa do Cộng Sản
đem ra. Người Việt ở nước ngoài không
kỳ thị, nghi ngờ thiện chí và khả năng
của các văn nghệ sĩ sống ở trong nước.
Nhưng khi các tác phẩm của họ được
lọc lựa qua guồng máy tuyên truyền của Đảng
Cộng Sản th́, sau những kinh nghiệm đau đớn
bị Cộng Sản lừa bịp, ai cũng phải
nghi ngờ các ẩn ư của nhóm người độc
quyền và độc ác đó.
Tóm lại, bản “nghị quyết của Đảng
Cộng Sản Việt Nam về người Việt
ở ngoại quốc” chỉ chứng tỏ họ c̣n
khư khư bảo vệ một quan niệm lỗi
thời. Khi nước Việt Nam được tự
do, người Việt Nam được sống dân
chủ th́ mối tương quan trong nước, ngoài nước
sẽ tự động cải thiện và giúp cho cả
dân tộc cùng tiến bộ. Có như vậy đồng
bào trong nước mới sớm có ngày ngẩng mặt
lên mà không hổ thẹn v́ thua kém tất cả các nước
chung quanh.
NGÔ NHÂN DỤNG