| ||||||
|
Saigon Nhỏ ngày 10.2.2006
Tú Gàn
Tội ác chống nhân loại
Lịch sử nhân loại là lịch sử ăn
thịt người, cá lớn nuốt cá bé. Trong tiến tŕnh lịch sử, gần như dân tộc nào
và quốc gia nào cũng đă phải trải qua những giai đoạn như vậy. Nhưng trong thế
giới văn minh ngày nay, nhất là sau khi tổ chức Hội Quốc Liên rồi Liên Hiệp
Quốc được thành lập, các quốc gia văn minh trên thế giới đă t́m mọi cách để
ngăn chận những tội ác chống nhân loại, xử dụng cả luật pháp lẫn sức mạnh. Tuy
nhiên, cho đến nay, những tệ trạng này vẫn chưa được loại trừ hoàn toàn. Sự bó
tay của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc hiện nay đối với những vi phạm quyền
con người nghiêm trọng tại những nước như Trung Quốc, Bắc Hàn, một số nước Phi
Châu hay Hồi Giáo... là những thí dụ điển h́nh. Hôm nay, nhân Nghị Hội Âu Châu
đưa ra Nghị Quyết số 1481 lên án chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại,
chúng ta thử nh́n qua những nổ lực chống lại loại tội ác này.
CÁC BIỆN PHÁP TRỪNG PHẠT
Năm 1945, sau khi Thế Chiến II
vừa chấm dứt, mọi thủ tục đă được tiến hành một cách nhanh chóng để trừng phạt
những kẻ chủ trương gây chiến và diệt chủng. Ngày 8.8.1945 bốn cường quốc là
Mỹ, Anh, Nga và Pháp họp tại London đă kư một thỏa ước thành lập Ṭa Án
Quân Sự Quốc Tế (International Military Tribunal) tại Nurember nhằm đưa
những thành phần phạm tội ác chống nhân loại trong Thế Chiến II ra xét xử,
nhất là nhóm Đức Quốc Xă (Nazi). Sau đó, 19 quốc gia khác tuyên bố công nhận
thỏa ước này. Ṭa Án Quân Sự Quốc Tế nằm ngoài thẩm quyền của Liên Hiệp Quốc.
Theo điều 3 của bản Hiến Chương Ṭa Án Quân Sự Quốc Tế, ṭa này có nhiệm vụ
truy tố và xét xử 3 loại tội phạm sau đây:
(1) Tội chống ḥa h́nh (crimes
against peace).
(2) Tội phạm chiến tranh (war
crimes).
(3) Tội phạm chống nhân loại
(crimes agianst humanity).
Ngoài ra, việc lập các kế
hoạcch hay âm mưu thực hiện ba loại tội phạm nói trên, cũng bị trừng phạt.
Kể từ ngày 20.11.1945, Ṭa Án
Quân Sự Quốc Tế bắt đầu các phiên xét xử dưới quyền chủ tọa của Thẩm Phán
Hoàng Gia Anh Geoffrey Lawrence. Trong giai đoạn đầu đă có 24 lănh tụ Đức Quốc
Xă bị truy tố về tội phạm chiến tranh. Những người điều khiển Gestapo, cơ quan
mật vụ của Đức Quốc Xă, đều bị bắt và bị truy tố.
Cũng vậy, sau khi nạn diệt
chủng xẩy ra ở Nam Tư cũ (nay là Serbia và Montenegro) đă bị dẹp tan, ngày
25.5.1993, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đă quyết định thành lập Ṭa Án
H́nh Sự Quốc Tế về Nam Tư cũ (The International Criminal Tribunal for the
former Yugoslavia – ICTY) để trừng phạt những kẻ chịu trách nhiệm về những vi
phạm nghiêm trọng các tội ác chống nhân loại xẩy ra trên lănh thổ Nam Tư cũ từ
1991.
Tiếp theo, ngày 8.11.1994 Hội
Đồng Bảo An cũng đă quyết định thành lập Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế về Rwanda
(The International Criminal Tribunal for Rwanda) để trừng phạt những kẻ vi
phạm các tội phạm chống nhân loại ở Rwanda.
BẮT ĐẦU QUAN TÂM ĐỀN CỘNG SẢN
Tuy đă có nhiều nỗ lực như đă
nói trên, nhưng cho đến nay, nhiều tội ác chống nhân loại rất nghiêm trọng đă
xẩy ra trong các chế độ cộng sản vẫn chưa được Liên Hiệp Quốc và các cường
quốc Tây Phương đụng đến, mặc dầu các chế độ cộng sản ở Trung Âu và Đông Âu đă
sụp để cách đây hơn 15 năm. Những người gây nhiều tội ác chống nhân loại trong
các chế độ này vẫn chưa bị truy tố và trừng phạt v́ nhiều khó khăn thực tế,
tuy các tội ác đó có khi c̣n nghiêm trọng hơn cả những tội ác của nhóm Đức
Quốc Xă.
Hôm 25.1.2006, Nghị Viện Âu
Châu họp tại thành phố Strasbourg ở miền đông bắc nước Pháp, đă đưa ra Nghị
Quyết số 1481 với đa số áp đảo, 99 phiếu thuận và 42 phiếu chống, lên án
chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại, và các chế độ toàn trị cộng sản
đă vi phạm nhân quyền tập thể.
Điều 2 của Nghị Quyết tuyên bố
rằng những chế độ cộng sản toàn trị từng cai trị ở Trung Âu và Đông Âu trong
thế kỷ qua, và hiện vẫn c̣n cầm quyền ở vài nước trên thế giới, tất cả không
loại trừ, có đặc điểm là vi phạm nhân quyền tập thể. Những vi phạm nầy khác
nhau tùy theo nền văn hóa, quốc gia và giai đoạn lịch sử, bao gồm cả những
hành vi sau đây:
- Ám sát và hành quyết cá nhân
hay tập thể, gây chết chốc trong các trại tập trung, để cho chết đói, đày ải,
tra tấn, bắt buộc lao động nô lệ, và những h́nh thức khác về khủng bố thể xác
tập thể,
- Ngược đăi v́ chủng tộc hay
tôn giáo,
- Vi phạm các quyền tự do lương
tâm, tự do tư tưởng, tự do phát biểu và tự do báo chí, ngoài ra c̣n thiếu vắng
đa nguyên về chính trị.
Điều 3 của Nghị Quyết nhận định
rằng các chế độ này đă đưa ra chủ thuyết đấu tranh giai cấp và
nguyên tắc chuyên chính vô sản để biện minh cho tội ác của họ. Sự giải
thích hai nguyên tắc trên đă hợp thức hóa việc “loại trừ” những người bị coi
là có hại cho sự xây dựng một xă hội mới và v́ thế, bị xem là kẻ thù của các
chế độ toàn trị cộng sản. Một số lớn các nạn nhân trong mỗi quốc gia chính là
công dân của các nước đó. Tiêu biểu nhất là các dân tộc của nước Liên Xô cũ
với số nạn nhân đông hơn rất nhiều so với các dân tộc khác.
Sau khi nhận định như trên,
điều 4 của Nghị Quyết thừa nhận rằng, mặc dầu có những tội ác của các chế độ
cộng sản toàn trị, một vài đảng cộng sản (Âu Châu) đă góp phần vào việc thực
hiện dân chủ.
Điều 5 của Nghị Quyết nói đến
việc cần thiết phải điều tra, truy tố và đưa những người vi phạm ra xét xử.
Điều này viết: “Sự sụp đổ của những chế độ cộng sản toàn trị ở Trung Âu và
Đông Âu không được theo dơi trong mọi trường hợp qua một cuộc điều tra quốc tế
về các tội ác do chúng đă vi phạm. Hơn nữa, tác giả của những tội ác nầy chưa
hề bị cộng đồng quốc tế đưa ra truy tố, như trường hợp các tội ác kinh khủng
do Đức Quốc xă vi phạm.”
Trong điều 7 và điều 8, Nghị
Quyết nhận định rằng sự cảnh giác của lịch sử là một trong những điều kiện để
ngăn ngừa các tội phạm tương tự trong tương lai. Vă lại, sự đánh giá về đạo
đức và sự lên án các tội đă vi phạm đóng một vai tṛ quan trọng trong việc
giáo dục các thế hệ trẻ. Hơn nữa, Nghị Hội tin rằng những sự đau khổ của các
nạn nhân của các tội ác do các chế độ cộng sản toàn trị vẫn đang c̣n sống hay
gia đ́nh của họ đáng được cảm thông, hiểu biết và nh́n nhận.
Điều 9 của Nghị Quyết nhấn
mạnh: “Các chế độ cộng sản toàn trị vẫn c̣n hoạt động tại một số quốc gia trên
thế giới và các tội ác vẫn tiếp tục vi phạm. Quan điểm về quyền lợi quốc gia
không thể được dùng để ngăn chận sự phê b́nh thích đáng đối với các chế độ
cộng sản toàn trị hiện nay. Nghị Viện mạnh mẽ lên án tất cả những sự vi phạm
nhân quyền đó.”
HÀ NỘI PHẢN ỨNG ĐIÊN CUỒNG
Ngay lập tức, nhà cấm quyền Hà
Nội đă lên tiếng bác bỏ Nghị Quyết nói trên. Nhật báo Nhân Dân của Đảng CSVN
trong số ra ngày 27.1.2006, dười đầu đề “Một nghị quyết sai trái”,
đă nói rằng “Có thể khẳng định, chủ nghĩa cộng sản là một thành tựu trí
tuệ văn minh của loài người” và “Liên Xô - Nhà nước xă hội chủ nghĩa
đầu tiên trên thế giới - đă phát triển thành một cường quốc hùng mạnh, là lực
lượng quyết định thắng lợi trong chiến tranh xóa bỏ chủ nghĩa phát-xít quốc
tế, cứu loài người khỏi thảm họa diệt chủng.” Theo bài báo, “Những thực tế
hiển nhiên đó không một thế lực nào có thể phủ nhận.”
Bài báo đă lặp lại những luận
điệu mà chúng ta thường nghe trong thời kỳ c̣n “tiến lên xă hội chủ nghĩa”:
“Gần một trăm sáu mươi năm đă
qua kể từ khi ‘Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản’ ra đời và cùng với bản Tuyên ngôn
bất hủ này là sự lớn mạnh không ngừng của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế đi theo con đường của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Loài người tiến bộ,
với chủ nghĩa Mác, hướng tới mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xă hội
và chủ nghĩa cộng sản, thực hiện khát vọng ngh́n đời là giải phóng dân tộc,
giải phóng xă hội, giải phóng con người. Trước chủ nghĩa Mác, nhiều học
thuyết về chủ nghĩa xă hội không tưởng lần lượt ra đời, nhưng chỉ đến giữa thế
kỷ 19, khi những điều kiện khách quan và chủ quan chín muồi, bằng trí tuệ
thiên tài của Mác, chủ nghĩa cộng sản mới có những luận cứ của khoa học và
cách mạng. Có thể khẳng định, chủ nghĩa cộng sản là một thành tựu trí tuệ văn
minh của loài người, là sự kế tục những nỗ lực t́m giải pháp giải phóng loài
người.”
Mặc dầu khoe khoang như thế,
Đảng CSVN cũng phải thừa nhận những sự thất bại trước mắt và t́m cách biện
bác. Bài báo viết tiếp:
“Từ những năm cuối của thế kỷ
20, phong trào cộng sản quốc tế rơi vào thoái trào sau khi mô h́nh chủ nghĩa
xă hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Cần nh́n nhận, đó không phải là sai lầm
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chủ nghĩa cộng sản. Trên thực tế, một số nước
xă hội chủ nghĩa vẫn tồn tại và phát triển. Những người cộng sản vẫn kiên định
và t́m mọi cách hoàn thiện, bổ sung cho con đường đi tới. Tại một loạt nước ở
châu Mỹ la-tinh, phong trào cánh tả đang phát triển mạnh, trở thành các chính
đảng cầm quyền và mục tiêu phát triển là gắn lợi ích của nhân dân lao động với
sự phát triển của chủ nghĩa xă hội.”
Riêng về trường hợp của Việt
Nam, bài báo đă đưa ra những thành công ngụy tạo để biện minh:
“Vũ trang bằng học thuyết chủ
nghĩa Mác- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những người cộng sản Việt Nam tháng
8-1945 đă lănh đạo nhân dân giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, đưa đất nước
đi vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xă hội. Từ một
đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị áp bức, bóc lột, bị thực dân, phát-xít đày
đọa, Việt Nam ngày nay đă trở thành một quốc gia độc lập, đang thay da, đổi
thịt từng ngày. Những thành tựu rất to lớn và có ư nghĩa lịch sử qua 20 năm
đổi mới là bằng chứng sống động của chủ nghĩa xă hội hiện thực, khẳng định con
đường đi lên của đất nước, phấn đấu v́ dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng,
dân chủ, văn minh.”
Bài báo đă kết luận như sau:
“Nghị quyết của Nghị Hội Âu
Châu thực chất là mưu toan mới nhằm bôi nhọ các nguyên tắc tiến bộ xă hội, các
tư tưởng nhân văn. Sức sống mănh liệt của Chủ nghĩa cộng sản đă làm cho những
tác giả của nghị quyết nói trên hoảng loạn, cố đấm ăn xôi, ḥng biện minh cho
sự bế tắc và điên đảo của ḿnh.
“Việc Nghị Hội Âu Châu thông
qua cái gọi là nghị quyết 1481 không chỉ là hành động sai trái, lỗi thời, mà
c̣n xúc phạm hàng triệu triệu người trên thế giới đă hy sinh quên ḿnh đấu
tranh cho một thế giới công bằng, b́nh đẳng, ḥa b́nh và hữu nghị.”
Sở dĩ Hà Nội đă phản ứng điên
cuồng như thế v́ Nghị Quyết 1481 của Nghị Viện Âu Châu có liên quan đến các
nhà lănh đạo Đảng CSVN, nhưng các luận điệu được đưa ra chỉ là căi chày căi
cối.
1.- Liên Sô và Thế Chiến II:
Trong các sách giáo khoa cũng như trong bài báo nói trên, Đảng CSVN luôn cho
rằng trong Thế Chiến II, chính lực lượng của Cộng Sản là “lực lượng quyết
định thắng lợi trong chiến tranh xóa bỏ chủ nghĩa phát-xít quốc tế, cứu loài
người khỏi thảm họa diệt chủng” và cho rằng những thực tế hiển nhiên đó
không một thế lực nào có thể phủ nhận. Nhưng những sự xác quyết này lại hoàn
toàn không đúng với thực tế.
Năm 1939, trước khi Thế Chiến
II bùng nổ, hai nước Anh và Pháp đă thuyết phục Stalin gia nhập phe Đồng Minh
chống lại phát-xít Đức, nhưng Stalin đă từ chối đề nghị này. Sau đó, Stalin đă
làm cả thế giới sửng sốt khi quay sang kư với Đức hiệp ước không xâm lược
lẫn nhau!
Tháng 6 năm 1941, sau khi chiếm
gần hết Âu Châu, Đức dùng toàn lực quay lại tấn công Liên Xô. Hồng quân Liên
Xô thua hết trận này đến trận khác, Stalin phải kêu gọi toàn dân tham gia cuộc
chiến tranh bảo vệ tổ quốc. Măi đến năm 1943, khi Đức phải đem quân đối phó
với Hoa Kỳ và Đồng Minh, Liên Xô mới lấy lại thế chủ động, đánh bại Đức ở mặt
trận Stalingrad và đẩy lui quân Đức ra khỏi bờ cơi.
Vào tháng 4 năm 1945, quân Mỹ,
Anh và Liên Xô đă tiến vào thủ đô Berlin của Đức. Ngày 30.4.1945, Hitler tự
sát và ngày 8.5.1945 Đức tuyên bố đầu hàng.
Từ năm 1941 đến năm 1945 Liên
Xô đă bị tổn thất nặng nề. Các sử gia Tây phương ước lượng tổn thất về nhân
mạng của Liên Sô có thể lên đến 40 triệu người, kể cả binh sĩ và thường dân.
Riêng trong trận Stalingrad đă có một triệu binh sĩ hy sinh. Thiệt hại về vật
chất của Liên Sô cũng rất lớn lao: 1.700 thị trấn và thành phố và khoảng
70.000 làng mạc bị tàn phá.
Nhưng chúng ta có thể nói:
Trong Thế Chiến II, nếu không có sự can thiệp của Hoa Kỳ, ba nước Liên Sô, Anh
và Pháp không thể đánh bại được sự liên kết giữa Đức Quốc Xă và Quân Phiệt
Nhật. Liên Sô chỉ lợi dụng sự khó khăn của Đức Quốc Xă và Quân Phiệt Nhật khi
phải đối phó với Hoa Kỳ và Đồng Minh, đem quân chiếm Đông Âu và Măn Châu, mở
rộng bờ cơi.
2.- Vấn đề “giải phóng”:
Đảng CSVN cho rằng chủ nghĩa xă hội và chủ nghĩa cộng sản đă “thực
hiện khát vọng ngh́n đời là giải phóng dân tộc, giải phóng xă hội, giải phóng
con người.” Nhưng trong thực tế đó chỉ mới là mơ ước. Khi đem thực hiện,
chủ nghĩa xă hội và chủ nghĩa cộng sản chẳng những không giải phóng mà c̣n
kềm kẹp xă hội và con người một cách dă man hơn. Có thể nói chủ nghĩa xă
hội và chủ nghĩa cộng sản một là thoái trào nghiêm trọng của lịch sử nhân
loại.
3.- Sai lầm của chủ nghĩa
cộng sản: Đảng CSVN nh́n nhận chủ nghĩa xă hội và chủ nghĩa cộng sản đă
gặp nhiều thất bại, nhưng cho rằng đó không phải là sai lầm của chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, chủ nghĩa cộng sản! Đảng CSVN nói rằng “người cộng sản vẫn kiên định
và t́m mọi cách hoàn thiện, bổ sung cho con đường đi tới.” Lập luận này không
đứng vững. Chính sự “hoàn thiện” và “bổ sung” theo kiểu tư bản hiện nay
đă chứng minh sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chủ nghĩa cộng sản. Vă lại,
khi “hoàn thiện” và “bổ sung” như thế bản chất của chủ nghĩa xă hội và chủ
nghĩa cộng sản không c̣n nữa hay chỉ c̣n trên danh nghĩa. Trong thực tế, nó
đă bị “tư bản hóa” mất rồi.
4.- Về công giành độc lập:
Đảng CSVN tự nhận ḿnh có công v́ đă “giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc,
đưa đất nước đi vào kỷ nguyên mới,... Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị
áp bức, bóc lột, bị thực dân, phá-xít đày đọa... đang thay da, đổi thịt từng
ngày.” Nhưng thực tế không đúng như vậy. Những nước Đông Nam Á không theo chủ
nghĩa cộng sản đă giành được độc lập trước các nước Đông Dương rất lâu và hiện
nay đă đi xa hơn Việt Nam nhiều. Nếu Đảng CSVN không đem chủ nghĩa xă hội và
chủ nghĩa cộng sản vào Đông Dương, Việt Nam đă có độc lập vào cuối thập niên
1940s như hầu hết các quốc gia bị thuộc địa khác trong vùng, không phải trải
qua một cuộc chiến đẩm máu và tàn phá kéo dài 30 năm và Việt Nam ngày nay ít
ra cũng đứng ngang hàng với Thái Lan, Mă Lai, Indonesia hay Đài Hàn, chứ không
tụt hậu lâu dài như đă thấy.
5.- Ai hoảng loạn và cố đấm
ăn xôi? Đảng CSVN cho rằng Nghị Quyết 1481 cho thấy sự “hoảng loạn, cố đấm
ăn xôi” của Nghị Viện Âu Châu trước “sức sống mănh liệt của chủ nghĩa cộng
sản”. Sở dĩ Nghị Viện đưa ra Nghị Quyết này là để “biện minh cho sự bế tắc và
điên đảo của ḿnh.” Đây là một lối lư luận hàm hồ. Chính bài “Một nghị quyết
sai trái”, do Hà Nội đưa ra chứng tỏ Đảng CSVN đang hoảng loạn và cố đấm ăn
xôi.
6.- Một số mặt tích cực:
Nói đi cũng phải nói lại. Nghị Viện Âu Châu nh́n nhận rằng mặc dầu có những
tội ác của các chế độ cộng sản toàn trị, một vài đảng cộng sản Âu Châu đă góp
phần vào việc thực hiện dân chủ (điều 4). Đó là trường hợp của các đảng cộng
sản chưa nắm được chính quyền như Đảng Cộng Sản Pháp hay Đảng Cộng Sản Ư chẳng
hạn.
Nhiều nhà phân tích cũng nh́n
nhận rằng chủ nghĩa cộng sản cũng đă gây ra hai tác dụng cần được ghi nhận.
Tác dụng thứ nhất là đă buộc chủ nghĩa tư bản phải xét lại chính sách của ḿnh
và hoàn chỉnh lại để đối phó với chế độ cộng sản, nhờ vậy nạn “người bốc lột
người” trong thế kỷ 19 mà Karl Marx mô tả đă biến dần, quyền lợi của người lao
động được bảo đảm hơn, xă hội ngày càng trở nên công bằng và dân chủ hơn. Tác
dụng thứ hai là làm vỡ tan một số định chế đă lỗi thời của nhân loại như chế
độ nông nô ở Nga, chế độ phong kiến ở Trung quốc với những tập tục cổ hủ kềm
kẹp con người... Không có chế độ cộng sản, những tệ trạng đó cũng sẽ thay đổi
nhưng khó khăn hơn và chậm hơn. Ấn Độ là một thí dụ điển h́nh. V́ thiếu vắng
một cuộc cách mạng, chế độ đảng cấp (castle) tồi tệ của Ấn Giáo vẫn c̣n tồn
tại trong xă hội ngày nay, trong đó những người cùng đinh phải làm nô lệ và bị
đối xử có khi c̣n tệ hơn con chó. Muốn xóa bỏ chế độ đảng cấp này bằng “diễn
biến ḥa b́nh”, Ấn Độ phải mất cả thế kỷ nữa!
Tuy nhiên, những cái hại mà chủ
nghĩa xă hội và chủ nghĩa cộng sản đem lại vượt quá xa những tác dụng hữu ích
mà chế độ này đă gây ra.
VẤN ĐỀ TRUY TỐ CÁC TỘI PHẠM
Như chúng tôi đă tŕnh bày ở
trên, tứ sau Đại Chiến Thứ II đến nay, có 3 ṭa án quốc tề đặc biệt đă đưộc
thiết lập để xét xử các tội ác chiến tranh và các tội ác chống nhân loại, đó
là Ṭa Án Quân Sự Quốc Tế, Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế về Nam Tư cũ và Ṭa Án H́nh
Sự Quốc Tế về Rwanda, nhưng chưa có ṭa án đặc biệt nào được thiết lập để truy
tố và xét xử các tội phạm của các chế độ cộng sản. Một câu hỏi được đặt ra là
Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế (International Criminal Court) được thiết lập
năm 1998 có thẩm quyền xét xử các tội phạm chống nhân loại của các chế độ cộng
sản hay không?
Theo điều 5 của Quy Chế
Rome về Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế (Rome Statute of the International
Criminal Court) ṭa án này có nhiệm vụ xét xử 4 loại tội phạm sau đây:
(1) Tội diệt chủng (the crime
of genocide)
(2) Các tội chống nhân loại
(crimes against humanity).
(3) Các tội phạm chiến tranh
(war crimes).
(4) Tội xâm lăng (the crime of
aggeression).
Nhưng chúng ta sẽ gặp hai trở
ngại chính sau đây khi truy tố tội phạm của các chế độc cộng sản:
Trở ngại thừ nhất: Điều
23 Quy Chế này quy định rằng quy chế này không có hiệu lực hồi tố,
có nghĩa là quy chế này chỉ áp dụng cho các tội phạm xẩy ra kể từ ngày
1.7.2002, ngày có số quốc gia phê chuẩn vừa đủ túc, chứ không áp dụng cho các
vi phạm xẩy ra trước đó. Như vậy những sự vi phạm tội ác chiến tranh và tội ác
chống nhân loại của các chế độ cộng sản trước đó không thuộc thẩm quyền của
ṭa này. V́ thế, các tội ác của Việt Cộng trong cuộc cải cách ruộng đất 1952
và 1954 và trong vụ Tết Mậu Thân, hay các tội phạm của các lănh tụ của Khmer
Đỏ trong thời gian cầm quyền tại Cam-bốt đă thoát khỏi Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế
thường trực.
Trở ngại thứ hai: V́ Ṭa
Án H́nh Sự Quốc Tế đă được thành lập dựa trên một hiệp ước đa phương, nên quốc
gia nào muốn gia nhập hay không là tùy ư và chỉ quốc gia nào gia nhập mới
bị ràng buộc bởi hiệp ước này mà thôi. Rất nhiều quốc gia không
muốn kư kết hay phê chuẩn “Quy Chế Rome về Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế” v́ thấy
việc h́nh thành tổ chức này không có lợi cho trường hợp của quốc gia họ., đó`
là trường hợp của Hoa Kỳ, Trung Cộng, Ư, Ấn Độ, Pakistan, Indonesia, Iraq,
Việt Nam, v.v.
Nhiều người sẽ hỏi rằng nếu Ṭa
Án H́nh Sự Quốc Tế thường trục không xét xử được, tại sao không lập một ṭa án
h́nh sự đặc biệt để xét xử tội phạm của các chế độc cộng sản như Ṭa Án Quân
Sự Quốc Tế, Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế về Nam Tư cũ và Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế về
Rwanda?
Điều 41, Chương VII của Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc có quy định:
“Hội đồng Bảo An có thể
quyết định những biện pháp nào không liên hệ đến việc xử dụng vũ lực được xử
dụng để tạo hiệu quả cho các quyết định của ḿnh, và có thể kêu gọi các
thành viên của Liên Hiệp Quốc áp dụng các biện pháp như thế. Các biện pháp này
có thể bao gồm việc ngưng một phần hay toàn bộ các quan hệ thương mại, lưu
thông bằng đường xe lửa, đường biển, đường hàng không, bưu điện, điện tín,
truyền thanh, và các phương tiện truyền thông khác, và cắt đứt các quan hệ
ngoại giao.”
Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc
đă dựa vào điều luật này để thiết lập các ṭa án h́nh sự đặc biệt. Tuy nhiên,
với tội phạm của các chế độ cộng sản, Hội Đồng Bảo An lại gặp một trở ngại
khác là quyền phủ quyết (veto) của Nga và Trung Quốc. Nếu một trong hai nước
này bác bỏ, Hội Đồng Bảo An Liên không thể h́nh thành một ṭa án h́nh sự đặc
biệt để truy tố tội phạm của các chế độ cộng sản được. Có lẽ v́ khó khăn này,
cho đến nay các cường quốc Tây Phương vẫn chưa nghĩ đến việc trừng phạt tội ác
của các chề độ cộng sản. Có thẻ phải đợi một thời gian nữa, khi có điều kiện
thuận tiện, việc lập ṭa án truy tố tội ác của chế độ cộng sản mới thực hiện
được.
NHỮNG TỘI ÁC CHỐNG NHÂN LOẠI
Điều quan trọng để có thể truy
tố và trừng phạt tội ác chống nhân loại là phải mở cuộc điều tra và thiết lập
bằng chứng, chứ không thể tố khơi khơi như đa số người Việt chống cộng thường
làm. Một hồ sơ đầy đủ các bằng chứng về tội phạm được công bố cũng là một h́nh
thức trừng phạt.
Trong cuốn “Death by
Government”, Rudolph J. Rummel, giáo sư khoa học chính trị tại Đại Học
Yale và Đại Học Hawaii, đă liệt kê những chế độ sau đây vào 10 chế độ gây chết
chốc nhất (most murderous regimes) trong thế kỷ 20, đó là: Liên bang Soviet,
Cộng Sản Trung Hoa, Đức Quốc Xă, chế độ Quân Phiệt Nhật, Cam-bốt dưới thời
Khmer Đỏ, Thổ Nhỉ Kỳ dưới thời Young Turks, Cộng Sản Việt Nam, Cộng Sản Ba Lan
và Pakistan dưới thời Yahya Khan.
Giáo sư R.J. Rummel cũng đă
liệt kê số nạn nhân bị sát hại trong thế kỷ 20 như sau:
61.911.000 bị chết trong các
trại tù Gulag của Liên Bang Sô Viết.
35.236.000 bị chết dưới chế độ
cộng sản Trung Quốc.
20.946.000 bị chết v́ chính
sách diệt chủng của Đức Quốc Xă.
5.964.000 bị chết dưới thời
Quân Phiệt Nhật.
2.035.000 bị chết dưới thời
Khmer Đỏ.
1.883.000 bị chết dưới chề độ
diệt chủng ở Thổ Nhĩ Kỳ.
1.670.000 bị chết v́ cuộc chiến
Việt Nam.
1.585.000 bị chết do nạn thanh
lọc chủng tộc tại Ba Lan.
1.503.000 bị chết trong thời
Young Turks.
1.072.000 bị chết dưới chế độ
Tito.
Trường hợp của Liên Sô được coi
là trường hợp điển h́nh nhất của tội ác chống nhân loại của chủ nghĩa cộng
sản: Sau cách mạng tháng 10 năm 1917, Vladimir Lenin lật đổ chế độ quân chủ ở
Nga và thành lập Liên bang Sô Viết gồm Nga và 14 nước láng giềng. Từ đó dân
Nga phải sống dưới một chế độ cùng khốn.
Năm 1924, Lenin qua đời và
Joseph Stalin lên thay thế. Stalin áp dụng triệt để chính sách tập thể hoá
nông nghiệp, người nào tỏ ư chống đối liền bị giết hoặc đưa vào các trại lao
động tập trung, tiếng Nga gọi là Gulag. Từ năm 1929 đến 1953, có khoảng từ 15
đến 20 triệu người Nga bị thiệt mạng, phần lớn là ở trong các trại tập trung.
Các sử gia ước tính rằng đă có
khoảng 1/5 nạn nhân của Stalin chết trong các trại tập trung ở Kolyma, một
vùng xa xôi hẻo lánh cách thủ đô Moscow khoảng 9000 cây số. Cuộc sống trong
các trại này dă man và khủng khiếp không thua ǵ các trại tập trung của Đức
Quốc Xă ở Auschwitz, Ba Lan, trước đó, nên thường được gọi là Auschwitz của
Nga.
Trước hết các tù nhân bị nhét
vào những xe chở gia súc và đưa đến Vladivostok. Trên chặng đường đó, một số
người đă bị chết ngạt v́ cảnh chen chúc trên xe. Từ Vladivostok, tù nhân bị
đưa lên tàu đến Kolyma. Cuộc hải tŕnh dài từ 8 đến 10 ngày. Nhiều người đă
chết trong cuộc hải tŕnh này. Có một chiếc tàu chở mấy ngàn tù nhân bị kẹt
trong những tảng băng 9 tháng sau mới tới Kolyma và không một tù nhân nào c̣n
sống sót! Một chiếc tàu khác chở 3000 tù nhân tới cảng Madagan, thủ phủ
Kolyma, đúng hạn nhưng không c̣n có tù nhân nào sống sót cả, v́ các tù nhân
nổi loạn trên tàu, cai tù dùng ṿi nước xịt vào pḥng giam, biến pḥng giam
thành một bể nước dưới 40 độ âm. Toàn bộ tù nhân trên tàu đều biến thành những
cây nước đá!
Lúc đó ở Kolyma có hơn 100 trại
tập trung. Khi vào trại, đa số tù nhân phải làm công việc đào vàng 14 tiếng
đồng hồ mỗi ngày, nhưng chỉ được lănh khẩu phần là 700 gram bánh ḿ và một tô
xúp bắp cải. Trong trường hợp không đạt được chỉ tiêu, họ bị bớt khẩu phần.
Không phải chỉ ở Kolyma mà ở
tất cả các trại tập trung trên khắp lănh thổ Liên Sô, các tù nhân đều phải
sống trong những điều kiện như thế. Hầu hết các tù nhân chỉ có thể sống được
trong ṿng 2 năm. Các sử gia ước tính có khoảng 90% tù nhân chết trong tù. Năm
1991, sau khi chế độ Liên Sô tan ră, Tổng thống Boris Yeltsin ra lệnh thả 10
tù nhân chính trị cuối cùng trong các trại tập trung!
Về trường hợp Việt Nam, trong
cuốn “Death by Government”, sau khi tŕnh bày qua lư lịch của Hồ Chí
Minh, Giáo sư R.J. Rummel đă mô tả một cách tổng quát về tội ác của Đảng CSVN
trong thời kỳ đầu như như sau:
“Khi Việt Minh tranh đấu
chống Pháp, họ cũng thực hiện một cuộc chiến tranh bí mật tồi bại chống lại
những người quốc gia không cộng sản cạnh tranh với họ. Họ ám sát, hành quyết
và tàn sát tập thể tất cả các nhóm quốc gia, kể cả những thân nhân, bạn bè và
vợ con của họ. Nhưng những người quốc gia không phải là những nạn nhân duy
nhất, “giai cấp thù nghịch” cũng bị “trừng phạt”. Họ cũng thanh toán cả các
nhóm Trotskystes và những người khác bị coi là đi lệch chủ nghĩa. Hàng ngàn
người trong giới trí thức cao cấp và những người Việt sáng giá đều bị tiêu
diệt trong thời gian từ 1945 đến 1947 khi cộng sản củng bố quyền hành của họ.”
Dĩ nhiên tội ác chống nhân loại
của Đảng CSVN c̣n nhiều, nhất là trong hai cuộc cải cách ruộng đất năm 1952 và
1956 và trong biến cố Tết Mậu Thân. Điều quan trọng là phải lập đầy đủ hồ sơ
về các tội ác đó mới có thể truy tố được.
Trong hơn 30 năm qua, người
Việt chống cộng ở hải ngoại đă viết khá nhiều sách và tài liệu nói về tội ác
của Đảng CSVN, nhưng đa số đă viết dưới h́nh thức những lời chửi bới hay
nguyễn rủa dao to búa lớn, c̣n sự kiện đưa ra rất ít. Những lối viết như thế
không có giá trị ǵ về phương diện sử liệu, pháp lư hay tuyên truyền. Các nhà
nghiên cứu ngoại quốc cũng như đồng bào đă cảm thấy chán ngấy khi phải đọc
những tài liệu như thế. Chúng tôi mong rằng, người Việt chống cộng, nhất là
các sử gia và các nhà trí thức, bỏ cái lối viết toàn bằng sáo ngữ dao to búa
lớn đó để tiến tới viết những bản phúc tŕnh về tội phạm của Đảng CSVN với
những sự kiện và bằng chứng rơ ràng có thể dùng làm tài liệu truy tố và xét xử
các tội phạm sau này. Những người ly khai như Dương Thu Hương, Nguyễn Minh
Cần, Vũ Thư Hiên, Trần Độ, Lê Hồng Hà... sẽ giúp làm sáng tỏ lịch sử rất
nhiều. Xin đừng gọi họ là “bọn đặc công đỏ nằm vùng”. Khổ lắm, nói măi!
Tú Gàn
|
|
Xin vui ḷng liên lạc với butvang@yahoo.com về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương Copyright © 2004 Anh Duong Online Last modified: 08/10/06 |