ĐT. 714-541-9859, 714-423-0577                      THONG THIEN HOC

Google

Trang Chính

English

Việt Nam


Hoa Kỳ

Sinh Hoạt Cộng Đồng


Thế Giới
Diễn Đàn

Văn Học

B́nh Luận

Kinh Tế
Câu Chuyện ThờiSự

Chuyện Lạ 4Phương

Khoa Học

Sức Khỏe

Ẩm Thực

Nhân Vật

Người / Ngợm

Vui Cười


Biếm Thi

Linh Tinh

Rao Vặt

Nhạc Hoàng Vân

VNCH Foundation

Ca Dao Việt Nam

Thơ Hà Huyền Chi

Hà Phương Hoài

Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

OVERSEAS
FREE VIETNAMESE
COMMUNITIES

RADIO
SAIGON-HOUSTON

 

DẪN ĐỘ LÀ TỬ LỘ


Luật Sư NGUYỄN HỮU THỐNG


LƯ TỐNG CHƯA ĐƯỢC PHÓNG THÍCH.

Trong văn thư ngày 10-08-2005, Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Thái Lan thông báo cho gia đ́nh Lư Tống việc Bộ Tư Pháp Thái Lan đă chấp thuận đề nghị của Chính Phủ Hà Nội truyền dẫn độ Lư Tống về Việt Nam. Tuy nhiên Thái Lan đặt điều kiện là Ṭa Án Việt Nam chỉ được truy tố Lư Tống về tội “vi phạm không phận Việt Nam”. Cho đến nay Hà Nội chưa trả lời về việc này.

Trong khi chờ đợi, văn thư nói trên của Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ minh thị báo tin “thời gian thụ h́nh của Lư Tống tại Thái Lan sẽ kết thúc vào cuối tháng giêng 2006”.

Như vậy Chính Phủ Thái đă không thi hành giao ước và Hiệp Ước Giao Giải Tù Nhân Mỹ-Thái theo đó Thái Lan phải giao giải cho Hoa Kỳ các công dân Mỹ đang thụ h́nh trên đất Thái một thời gian trước khi măn thụ h́nh theo sự thương lượng của hai bên (3 tháng rưỡi trong trường hợp Lư Tống).

Ngày 25-12-2003, Lư Tống bị Ṭa Thái Lan kết án 7 năm 4 tháng tù, 7 năm về tội “cưỡng đoạt phi cơ”, và 4 tháng về tội “vi phạm không phận quốc gia Thái Lan”. Sau đó anh được giảm 1/4 h́nh phạt, c̣n 5 năm 6 tháng. Áp dụng Hiệp Ước Mỹ-Thái về Giao Giải Tù Nhân và theo giao ước, Lư Tống phải được giao hoàn Chính Phủ Hoa Kỳ vào ngày 31 tháng giêng 2006. Như vậy chiếu Văn Thư của Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Bangkok nói trên, Chính Phủ Thái Lan đă vi phạm Hiệp Ước và giao ước về việc giao giải Lư Tống. Do đó không có ǵ bảo đảm rằng nhà cầm quyền Thái Lan sẽ trả tự do cho Lư Tống vào ngày măn hạn tù 17 tháng 5 tới đây. Nếu từ nay tới ngày đó, nhà cầm quyền Hà Nội chấp nhận điều kiện dẫn độ của Thái Lan, và giảo hoạt hứa hẹn sẽ chỉ truy tố Lư Tống về tội “vi phạm không phận quốc gia Việt Nam”th́ quyết định dẫn độ sẽ được thi hành. Hơn nữa cũng có thể sau ngày 17-5-2006 Chính Phủ Thái Lan tiếp tục “tạm giữ” Lư Tống thêm một thời gian để chờ quyết định của Hà Nội.

Đây là một đại họa! V́ dẫn độ Lư Tống về Việt Nam là dẫn anh vào tử lộ. Bằng mọi cách chúng ta phải ngăn chận sự dẫn độ này.

9 ĐIỀU VI PHẠM LUẬT TỤC LỆ QUỐC TẾ VỀ DẪN ĐỘ

Ngoài sự vi phạm giao ước và Hiệp Ước Giao Giải Tù Nhân Mỹ-Thái, trong hiện vụ, Chính Phủ Thái Lan c̣n vi phạm 9 điều chiếu Luật Tục Lệ Quốc Tế về Dẫn Độ. Hiện nay chưa có Luật Quốc Tế Dẫn Độ. Chỉ có các hiệp ước dẫn độ song phương và một số công ước dẫn độ quốc tế (đa phương) như Công Ước Cộng Đồng Âu Châu, Công Ước Liên Mỹ, Công Ước Tây Phi, Công Ước Liên Minh Ả Rập v...v... Do đó các quốc gia không kư hiệp ước dẫn độ (như Thái Lan với Việt Nam), phải tham chiếu vào Luật Tục Lệ Quốc Tế về Dẫn Độ (Customary International Law on Extradition). Đây là những nguyên tắc và thủ tục dẫn độ được thừa nhận bởi cộng đồng các quốc gia trên thế giới như tại Âu, Mỹ, Phi và Khối Ả Rập v...v... Hiệp Ước Dẫn Độ Hoa Kỳ -Thái Lan năm 1983 có thể sử dụng như luật đối chiếu, một bản văn trong Luật Tục Lệ Quốc Tế về Dẫn Độ.

9 điều vi phạm là:

1. Không có Hiệp Ước Dẫn Độ Thái-Việt.

Về h́nh sư, ṭa án chỉ có thể xét xử nếu có sự hiện diện của bị cáo. Dẫn độ là thủ tục chuyển giao một bị cáo (trú dân hay công dân) cho một quốc gia khác để quốc gia này xét xử bị cáo (hay thi hành một h́nh phạt đă tuyên) về một tội h́nh sự xẩy ra trên lănh thổ quốc gia yêu cầu dẫn độ.

Trên b́nh diện quốc tế thủ tục dẫn độ thường chỉ được thi hành trong trường hợp có hiệp ước dẫn độ kư kết bởi hai quốc gia liên hệ.

Theo Luật Liên Bang Hoa Kỳ và Công Ước Dẫn Độ Liên Mỹ, Tổng Thống Hoa Kỳ không có nghĩa vụ, và cũng không có quyền dẫn độ các công dân hay trú dân tại Hoa Kỳ, nếu không có một hiệp ước dẫn độ song phương hay công ước quốc tế giữa Hoa Kỳ và quốc gia yêu cầu dẫn độ.

Từ năm 1899, Hoa Kỳ đă kư hơn 100 hiệp ước song phương và công ước quốc tế về dẫn độ trong đó có Hiệp Ước Dẫn Độ Hoa Kỳ-Thái Lan năm 1983 thay thế Hiệp Ước Dẫn Độ năm 1922. Cho đến nay vẫn chưa có hiệp ước dẫn độ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, hay giữa Việt Nam và Thái Lan.

2. Chỉ được dẫn độ về các tội đặc thù.
Theo luật phổ thông như tại Hoa Kỳ, hiệp ước dẫn độ, nếu có, phải quy định minh thị các tội trạng đặc thù, đặc biệt là các tội bạo hành, tội chống xă hội hay chống nhân loại như buôn bán ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ vị thành niên để làm nô lệ t́nh dục, cố sát, in giấy bạc giả, biển thủ công quỹ, trộm cướp, cố ư gây hỏa hoạn, phá hoại cầu lộ, công thự gây nguy hại diện tiền cho đời sống của người dân. Đây là những tội đại h́nh nghiêm trọng. Trong khi đó tại Hoa Kỳ tội vi phạm không phận quốc gia chỉ là một tội tiểu h́nh mà h́nh phạt không quá 1 năm tù.

Ngày 26-7-2005 Thông Tấn Xă Thái Lan loan tin Thái Lan và Việt Nam đang soạn thảo hiệp ước dẫn độ về tội buôn bán phụ nữ và trẻ em, nhưng không đề cập đến hiệp ước dẫn độ về tội “vi phạm không phận quốc gia”. Nghị Định Dẫn Độ về An Ninh Hàng Không Thái Lan không dự liệu trường hợp dẫn độ, nếu bị cáo không sử dụng vơ khí hay bạo hành để phá hủy phi cơ, hay các cơ sở hàng không (như trường hợp Lư Tống).

3. Không được dẫn độ về các tội chính trị.

Quy chế dẫn độ nhằm mục đích thực thi Công Lư. Nó không thể là một kỹ thuật để đàn áp đối lập chính trị. Do đó tất cả các hiệp ước song phương và công ước quốc tế đa phương không cho phép dẫn độ bị cáo về các tội chính trị, như xâm phạm an ninh lănh thổ, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, tuyên truyền chống nhà nước v...v... Trong trường hợp Lư Tống, bay trên không phận Saigon để rải truyền đơn chống chính phủ là một hành động chính trị, và tội trạng, nếu có, chỉ có thể là tội chính trị không được dẫn độ.

Chiếu Hiệp Ước Dẫn Độ Mỹ-Thái coi như lư trí thành văn, không thể cho dẫn độ bị cáo nếu sự dẫn độ chỉ nhằm mục đích chính trị như đàn áp đối lập chính trị (Điều 3).

4. Vi phạm nguyên tắc Nhất Sự Bất Tái Cứu (Non Bis In Idem).

Trên thực tế, nhiều quốc gia không muốn dẫn độ công dân sang

các quốc gia không có tư pháp độc lập, hay có những thành tích thường xuyên và thô bạo vi phạm quyền con người và quyền của bị cáo. Do đó ṭa án địa phương có thể tự ḿnh xét xử một công dân (phạm pháp tại nước ngoài), chiếu theo luật pháp và thủ tục tố tụng quốc gia. Đó là tập tục “Xét Xử thay v́ Dẫn Độ”.

Hơn nữa chiếu nguyên tắc “nhất sự bất tái cứu”, nhà cầm quyền địa phương có thể khước từ dẫn độ bị cáo qua một nước khác, để xét xử về một tội đă được ṭa án địa phương xét xử rồi. Đó chính là trường hợp Lư Tống. Ngày 25-12-2003 anh bị Ṭa Án Thái Lan kết án 4 tháng tù về tội “vi phạm không phận quốc gia”, một tội tiểu h́nh theo Luật Tục Lệ Quốc Tế trong đó có Luật H́nh Sự Liên Bang Hoa Kỳ (Điều 46307). Không ǵ vô lư bằng truyền dẫn độ Lư Tống về Việt Nam để trả lời một lần nữa cũng về tội “vi phạm không phận quốc gia”!

Khuynh hướng mới nhất của Cộng Đồng Âu Châu là không cần dẫn độ, chỉ cần chấp nhận thẩm quyền xét xử của tất cả các ṭa án thuộc các quốc gia thành viên trong Cộng Đồng. Thí dụ một phi công Pháp đă vi phạm, cùng một lúc, không phận của 2 quốc gia có biên thùy chung trong Cộng Đồng Âu Châu là Pháp và Bỉ. Chỉ cần một ṭa án truy tố và kết án bị cáo là đủ. Thí dụ nếu Ṭa án Pháp đă truy tố và phạt bị cáo 3 tháng tù, chẳng lẽ c̣n dẫn độ bị cáo qua Bỉ để xét xử thêm một lần nữa?
Trong hiện vụ, Lư Tống đă được xét xử về tội “vi phạm không phận quốc gia” bởi Ṭa Án Thái Lan, và đă thực sự thi hành bản án tuyên ngày 25-12-2003.

 Ngày nay, Thái Lan và Việt Nam có những tương quan mật thiết về ngoại giao, tư pháp, văn hóa, kinh tế và xă hội, v́ là các quốc gia thành viên của Cộng Đồng Đông Nam Á. Do đó, áp dụng quy chế dẫn độ của Cộng Đồng Âu Châu được coi là Luật Tục Lệ Quốc Tế, Lư Tống sẽ không bị dẫn độ về Việt Nam để trả lời về tội “vi phạm không phận quốc gia”. V́ tội này đă được Ṭa Án Thái Lan xét xử và bản án đă thực sự được thi hành.

Không chấp nhận giải pháp này là vi phạm nguyên tắc “nhất sự bất tái cứu”.

Chiếu Điều 4 Hiệp Ước Dẫn Độ Mỹ-Thái 1983, Thái Lan có quyền khước từ dẫn độ v́ có sự trùng điệp thẩm quyền. V́ phi cơ của Lư Tống, đăng kư tại Thái Lan, chỉ cất cánh và đáp xuống lănh thổ Thái Lan. Chiếu Nghị Quyết Dẫn Độ về An Ninh Hàng Không Thái Lan, anh chỉ phạm pháp trên lănh thổ Thái Lan (phi cơ này được coi là một thành phần lănh thổ Thái Lan).

Hơn nữa, chiếu Điều 5 Hiệp Ước Dẫn Độ Mỹ-Thái nói trên, v́ Lư Tống đă bị xét xử và kết án bởi Ṭa Án Thái Lan nên đơn xin dẫn độ sang Việt Nam, cũng để truy tố về tội này, phải bị bác bỏ.

5. Vi phạm thủ tục dẫn độ.

Về mặt thủ tục, quốc gia yêu cầu phải thực sự phát động tố quyền trước khi đ̣i dẫn độ. V́ nếu chưa có bị cáo th́ chưa có quyền yêu cầu dẫn độ bị cáo. Cho đến nay Chính Phủ Việt Nam chưa thông tri cho Chính Phủ Thái Lan bản cáo trạng hay khởi tố lệnh trạng có ghi rơ tên bị cáo và tội danh truy tố.

Hơn nữa theo Luật Dẫn Độ Hoa Kỳ, Ṭa án chỉ phải lưu giữ bị cáo bị đ̣i dẫn độ trong ṿng 1 tháng, 2 tháng hay 3 tháng. Nếu thủ tục khởi tố không tiến hành, bị cáo sẽ được phóng thích (các Điều 3182, 3187 và 3188 H́nh Luật Liên Bang Hoa Kỳ).

6. Đi trái Công Ước Chicago về Vi Phạm Không Phận (1944).

Cho đến nay, trong tất cả các hiệp ước song phương và công ước quốc tế về dẫn độ, không thấy trường hợp dẫn độ nào về tội vi phạm không phận quốc gia.

Công Ước Quốc Tế Chicago về Vi Phạm Không Phận cũng không dự liệu trường hợp dẫn độ cho tội vi phạm không phận quốc gia.

Công Ước này chỉ quy định 4 biện pháp chế tài những vi phạm không phận là:
a. Thông báo phi cơ vi phạm phải bay ra khỏi không phận quốc gia.
b. Buộc phi cơ vi phạm phải đáp xuống một phi trường chỉ định.
c. Gửi kháng thư hay công hàm ngoại giao cho quốc gia có phi cơ vi phạm.
d. Bắn hạ nếu phi cơ vi phạm khiêu khích (vơ trang).

7. Vi phạm Công Ước Liên Hiệp Quốc chống Tra Tấn Hành Hạ (1984)

Quy chế dẫn độ nhằm mục đích thực thi Công Lư. Sự dẫn độ chỉ có ư nghĩa khi bị cáo thực sự được xét xử vô tư và công bằng.

Chiếu Công Ước Chống Tra Tấn Hành Hạ Liên Hiệp Quốc, “các Quốc Gia Hội Viên không được dẫn độ các công dân hay trú dân sang một quốc gia khác, nếu quốc gia này có những thành tích vi phạm nhân quyền thường xuyên, tập thể và thô bạo”.

Đó chính là trường hợp của Việt Nam. Hiện nay, cùng với Bắc Hàn, Trung Quốc và Miến Điện tại Đông Á, Việt Nam bị liệt kê vào danh sách “các quốc gia cần đặc biệt quan tâm” về vấn đề tự do tôn giáo, tự do dân chủ.

Không có sự chối căi là kể từ năm 1975, với tư cách một cựu sĩ quan Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa, Lư Tống đă bị giam giữ tại trại cải tạo Cộng Sản trong 5 năm. Năm 1980 anh vượt ngục và vượt tuyến sang Tân Gia Ba và đă xin tị nạn chính trị tại Hoa Kỳ năm 1983. Năm 1992 anh sử dụng chiếc phi cơ dân sự Hàng Không Việt Nam từ Thái Lan về Việt Nam để rải truyền đơn trên không phận Saigon, kêu gọi đồng bào đứng lên đấu tranh giải thể chế độ độc tài Cộng Sản. Anh đă bị ṭa án truy tố về tội phản nghịch (hay hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân) mà h́nh phạt có thể đến tử h́nh. Sau này, để tước đoạt tư cách tù nhân chính trị của anh, Ṭa Án Saigon đă cải tội danh thành tội thường phạm “cưỡng đoạt phi cơ” và đă kết án anh 20 năm tù.

Tháng 11 năm 2000, anh lại dùng chiếc máy bay huấn luyện tại Thái Lan để, một lần nữa, rải truyền đơn trên không phận Saigon, kêu gọi đồng bào đứng lên đấu tranh giải thể chế độ độc tài Cộng Sản. Đối với nhà cầm quyền Hà Nội, anh đă phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia đặc biệt nguy hiểm, mà h́nh phạt có thể tới tù chung thân hoặc tử h́nh v́ có trường hợp tái phạm.

Như vậy Hà Nội chỉ lợi dụng tội “vi phạm không phận quốc gia” để đ̣i dẫn độ Lư Tống nhằm mục đích đàn áp chính trị.

Nguyên tắc Bất Khả Giao Hoàn bảo vệ những người tỵ nạn chính trị và tù nhân chính trị.

8. Lư Tống không phạm tội h́nh sự nào.

Hơn nữa, sự dẫn độ chỉ có ư nghĩa khi bị cáo đă thực sự phạm pháp.

Chiếu Điều 15 Công Ước Quốc Tế Liên Hiệp Quốc về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị: “Không ai có thể bị kết án về một tội h́nh sự do những hành vi không cấu thành tội h́nh sự, chiếu luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế, luật pháp quốc tế là những nguyên tắc luật pháp tổng quát được thừa nhận bởi cộng đồng các quốc gia” (như Luật Quốc Tế Nhân Quyền hay Luật Tục Lệ Quốc Tế).

Do đó, hồi giữa thế kỷ 19, tôn trọng quyền tự do phát biểu, Ṭa Án Luân Đôn đă không truy tố Các Mác về tội phản nghịch hay tuyên truyền chống chế độ, mặc dầu ông đă công bố bản “Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản”, kêu gọi vô sản toàn thế giới đứng lên dùng vơ trang lật đổ các chính quyền tư bản.

Khi Lư Tống rải truyền đơn kêu gọi giải thể chế độ Cộng Sản để thiết lập chế độ Dân Chủ, anh không phạm tội ǵ. Anh chỉ hành sử ôn ḥa và hợp pháp quyền tự do phát biểu đă được thừa nhận bởi Hiến Pháp Việt Nam (Điều 69) và Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị (Điều 19).

9. Không am tường thực tế Cộng Sản: Ṭa án Việt Nam không phục vụ Công Lư.

Từ khi gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1977, Việt Nam không tôn trọng những điều khoản nhân quyền trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Năm 1982 Việt Nam gia nhập hai Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự, Chính Trị và về Những Quyền Kinh Tế, Xă Hội, Văn Hóa. Tuy nhiên nhà cầm quyền đă thường xuyên và thô bạo vi phạm tất cả các nhân quyền và những quyền tự do cơ bản như tự do nhân thân, tự do tôn giáo, tự do chính trị, tự do dân sự cùng những quyền kinh tế, xă hội và văn hóa giáo dục.

Thay v́ để ban phát công lư cho người dân và bảo vệ con người về sinh mạng, tự do, danh dự và tài sản, ṭa án và luật pháp Việt Nam đă được nhà cầm quyền Cộng Sản dùng làm công cụ khủng bố để đàn áp đối lập và củng cố chế độ độc tài toàn trị. Ngày nay luật pháp Cộng Sản là luật rừng xanh, và ṭa án Cộng Sản là ṭa án của loài đại thử. Trong 3 thập niên qua, họ đă bắt giam độc đoán hàng trăm tù nhân lương tâm thuộc các thành phần đối kháng ôn ḥa và bất bạo động, với các bản án bất công, và các tội trạng lố bịch, cưỡng ép hay giả tạo, như gián điệp, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (phản nghịch), phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia, tuyên truyền chống chế độ, tuyên truyền chống nhà nước, lợi dụng quyền tự do dân chủ v...v...

Năm 2003, Bác Sĩ Phạm Hồng Sơn đă bị kết án 13 năm tù sau giảm c̣n 5 năm về tội gián điệp, chỉ v́ anh đă phổ biến tập tài liệu “Dân Chủ Là Ǵ?, dịch từ mạng lưới thông tin của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ.

Năm 1991, Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế đă bị kết án 20 năm tù về tội phản nghịch hay âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân, chỉ v́ anh đă phổ biến Bản Tuyên Cáo của Cao Trào Nhân Bản, kêu gọi nhà cầm quyền thực thi quyền dân tộc tự quyết, thiết lập chế độ dân chủ pháp trị thay thế chế độ độc tài đảng trị. Ngày 30 tháng 4, 1993 Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc công bố Phúc Tŕnh lên án nhà cầm quyền Hà Nội đă giam giữ độc đoán Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế.

Trong trường hợp Lư Tống bị dẫn độ về Việt Nam, một trong ba tai họa có thể xảy ra:

1) Nếu Chính phủ Hà Nội chấp nhận điều kiện dẫn độ nói trên của Chính Phủ Thái Lan, Viện Kiểm Sát sẽ chỉ khởi sự truy tố Lư Tống về tội “vi phạm không phận quốc gia”. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho biết, ṭa án có thể giảo hoạt cải tội danh thành tội tuyên truyền chống nhà nước, hay tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, với h́nh phạt đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử h́nh.
2) Ngoài ra theo Điều 222 H́nh Luật Việt Nam, tội “vi
phạm không phận quốc gia” có thể bị phạt đến 10 năm tù! Trong khi đó Ṭa Án Thái Lan, trong phiên xử ngày 25-12-2003, chỉ phạt Lư Tống 4 tháng tù về tội này. (Và H́nh Luật Hoa Kỳ cũng chỉ phạt vạ hay phạt tù tối đa là 1 năm).
3) Hơn nữa ṭa án Việt Nam c̣n có thể viện dẫn Điều 222 để
truy tố Lư Tống về hai tội khác là “gián điệp” (Điều 80), hay “xâm phạm an ninh lănh thổ” (Điều 81) với h́nh phạt đến tù chung thân hoặc tử h́nh, v́ có trường hợp gia trọng là tái phạm nguy hiểm.
Như vậy tội “Vi Phạm Không Phận Quốc Gia” theo Luật Thái Lan (và Hoa Kỳ), và tội “Vi Phạm các Quy Định về Hàng Không” (theo Điều 222 H́nh Luật Việt Nam) không thuộc cùng một loại tội trạng, một danh xưng, và cũng không có h́nh phạt tương đương.
Năm 2003, tại Thái Lan, Lư Tống chỉ bị phạt 4 tháng tù về tội này. Rồi đây, nếu bị dẫn độ về Viết Nam, rất có thể anh sẽ bị kết án tù chung thân hoặc tử h́nh về một tội trạng có danh xưng phổ thông là “Vi Phạm Không Phận Quốc Gia”!
V́ những lư do nêu trên, chúng ta cảnh giác nhà cầm quyền Thái Lan về Quyết Định Dẫn Độ vô trách nhiệm và tai hại nói trên.
Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền đang thâu thập tài liệu hồ sơ Lư Tống để gởi văn thư đến Bộ Tư Pháp Thái Lan phản đối Quyết Định này.
Chúng tôi quan niệm rằng, đối với Lư Tống, Con Đường Dẫn Độ Là Con ĐườngTử Lộ.

Luật Sư NGUYỄN HỮU THỐNG
(Tháng 02/2006)

 

Xin vui ḷng liên lạc với  butvang@yahoo.com  về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương
Copyright © 2004 Anh Duong Online
Last modified: 08/10/06