Việt-Nam: Cải tổ kinh tế và cải tổ chính trị
Cuộc phỏng vấn GS Nguyễn
Quốc Khải của Đài Tiếng Nói Hoa-Kỳ (VOA), 11:00 giờ sáng ngày Chủ Nhật,
08.08.2004 do Võ Ái thực hiện
(1) Với cương vị là một chuyên
gia kinh tế từng làm việc nhiều năm cho Ngân Hàng Thế Giới và theo dõi sát
những diễn tiến về kinh tế và chính trị Việt-Nam, xin giáo sư vui lòng
cho đài chúng tôi được biết một cách khái quát về tính hình kinh tế Việt-Nam
hiện nay.
Sau ba năm trì trệ (1998-2000), kinh tế
Việt-Nam phát triển khả quan trong những ba năm vừa qua (2001-2003) với độ
tăng trưởng lần lượt là 6%, 5.8% và 6%, cao hơn tất cả các nước ngoại trừ
Trung Quốc. Sự tăng trưởng này nhờ vào những biện pháp cải tố kinh tế mới được
thực hiện sau cuộc khủng hoảng tài chánh Á châu: (1) Luật Doanh Nghiệp được
ban hành vào cuối năm 1999 và bắt đầu có hiệu lực kể từ đầu năm 2000 (2) Hiệp
Định Thương Mại Mỹ-Việt (BTA) được ký kết vào giữa năm 2000 và bắt đầu có hiệu
quả vào cuối năm 2001; (3) Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế 2001-2005 với
trọng tâm cải tổ doanh nghiệp nhà nước, kể cả các ngân hàng thương mại và thu
hút đầu tư nước ngoài. Két quả là khu vực kỹ nghệ và dịch vụ phát triển mạnh,
sức tiêu thụ trong nước gia tăng, môi trường đầu tư được cải thiện, xuất cảng
bành trướng nhanh nhất là qua thị trường Hoa-Kỳ.
Mức tăng trưởng cao so các nước vì kinh tế
Việt-Nam bắt đầu ở một mức quá thấp. Nếu so sánh về lợi tức đầu người
Việt-Nam vẫn là một nước nghèo nhất trong khối APEC với lợi tức trung bình đầu
người là 450 Mỹ kim vào năm 2003. Mãi lực quân bình đầu người của Việt-Nam là
US$2,300 trong năm 2002, so với các con số của Trung Quốc là US$4,700, Thái
Lan US$7,000, Mã Lai US$8,800, Đại Hàn US$19,600, và Tân Gia Ba US$25,200.
(2) Phần lớn các nhà quan sát đều cho rằng
những thành quả kinh tế mà Việt-Nam đạt được phát xuất từ chính sách Đổi Mới
mà chính phủ ở Hà-Nội cho thực hiện từ năm 1986. Xin giáo sư cho biết nhận xét
của ông về chính sách này và những thay đổi trong xã hội Việt-Nam từ đó đến
nay.
Kể từ khi chương trình “Đổi Mới” bắt đầu vào
năm 1986, Việt-Nam có một vài thay đổi đáng kể về phương diện kinh tế. Khu vực
tư doanh mở rộng và sẽ ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách quốc gia. Nhà
nước không còn chiếm độc quyền làm kinh tế cho cả nước. Khu vực quốc doanh
ngày càng bị thâu hẹp. Đặc biệt Thương Ước Việt-Mỹ và việc gia nhập Tổ Chức
Thương Mại Quốc Tế (WTO), với những điều khoản buộc giải tỏa nền kinh tế chỉ
huy sẽ phân tán quyền lực hiện nay tập trung hết trong tay nhà nước. Ngoại
thương được bành trướng mạnh mẽ. Khu vực đầu tư của nước ngoài mở rộng. Kinh
tế Việt-Nam ngày càng liên hệ trực tiếp đến kinh tế toàn cầu nhiều hơn. Trái
với một xã hội khép kín như Bắc Hàn và Cuba, và so với 14 năm trước, xã hội
Việt-Nam cởi mở hơn. Dù nhà nước kiểm soát chặt chẽ Internet và các phương
tiện truyền thông khác, đặc biệt nhờ vào kỹ thuật viễn thông tân tiến ngày nay
và kỹ nghệ du lich phát triển, tin tức ở trong nước được tường thuật đầy đủ
hàng ngày và một phần tin tức bên ngoài lọt vào trong nước.
(3) Thưa giáo sư, theo
khái niệm của những học thuyết chính trị được nhiều người chấp nhận thì sự
phát triển kinh tế chắc chắn sẽ mang lại những tiến triển về mặt chính trị.
Ông nghĩ sao về khái niệm này, và điều này có ứng dụng được cho tình hình
Việt-Nam hiện nay hay không ?
Sau 1975, Hiến
Pháp được sửa đổi tất cả ba lần. Lần sửa thứ nhất vào năm 1980 nhắm nêu cao
mục tiêu của Đảng và nhà nước là củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa ở miến Bắc,
xã hội hóa miền Nam, và tăng cường khả năng quốc phòng để chống lại Trung
Quốc. Lần sửa thứ hai vào năm 1992 chính thức hóa nền kinh tế với nhiều hộ sản
xuất. Ngoài hợp tác xã, doanh nghiệp nhà nước, còn có gia đình và xí nghiệp
đầu tư ngoại quốc. Lần sữa chót vào năm 2001 thông qua chế độ kinh tế thị
trường. Tuy nhiên cơ chế và cương lĩnh chính trị của Đảng CSVN vẫn không suy
chuyển.
Vào tháng 7 năm
vừa qua Chính Phủ Việt-Nam đã ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã (nghị
định số 79/2003/NDD-CP). Theo đó, nhân dân ở xã được trực tiếp bàn và quyết
định 5 loại công việc từ vệ sinh môi trường, xây dựng cơ sở hạ tầng đến soạn
thảo hương ước. Quy chế Dân Chủ Xã xem ra giống như Quy Chế Dân Chủ Cơ Sở của
Trung Quốc đã áp dụng từ năm 1988. Việc thi hành Quy chế Dân Chủ Xã cũng chỉ
để củng cố quyền lực của Đảng CSVN như ở Trung Quốc.
(4) Theo giáo sư, tiến
trình này có thể được rút ngắn bằng cách nào ?
Tiến trình dân
chủ hoá ở mỗi quốc gia thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh đặc thù của mỗi nước đặc
biệt về các phương diện chính trị, văn hóa, kinh tế, va giáo dục. Nhưng trong
mọi trường hợp cả 4 yếu tố sau đây đều cần thiết: (1) mức sống được cải thiện;
(2) áp lực chính trị từ trong nội bộ; (3) áp lực quốc tế; và (4) thời gian.
Để thu ngắn tiến trình này phải có áp lực từ bên trong lẫn bên ngoài. Những
người dân chủ phải chủ động. Ở Nga Sô có Mikhail Gorbachev. Ở Tây Ban Nha có
Juan Carlos. Ở Tiệp Khắc có Vaclav Havel. Ở Nam Phi có Nelson Mandela và
Desmond Tutu. Ở Phi Luật Tân có Corazon Aquino. Có những trường hợp phong trào
dân chủ không do một người mà do một đoàn thể như African National Congress
tại Nam Phi và Solidarity tại Ba Lan. Áp lực quốc tế đã giúp Nam Phi và Ba
Lan dành độc lập và xây dựng chế độ dân chủ. Đài Loan, Phi Luật Tân, Đại Hàn
có dân chủ nhờ áp lực và trợ giúp của Hoa-Kỳ. Đức và Nhật Bản từ bỏ chế độ
độc tài phát xít không phải vì kinh tế tư bản mà vì sắp đặt và hỗ trợ của đồng
minh sau Thế Chiến thứ II.
Việt-Nam có
nhiều chiến sĩ dân chủ, nhưng chưa xuất hiện một Mikhail Gorbachev. Như vậy
Việt-Nam sẽ cần một thời gian dài hơn để đi tới dân chủ. Việt-Nam đã có một số
phong trào dân chủ nổi lên nhưng bị nhà nước kềm chế. Việt-Nam hơn ai hết cần
hỗ trợ mạnh mẽ của quốc tế mà cộng đồng người Việt ở hải ngoại sẽ có thể đóng
một vai trò rất lớn.
(5) Giáo sư có nghĩ rằng không thay đổi chính
trị sẽ đưa tới bế tắc hay không ?
Chế độ độc tài
là nguyên nhân gây ra tham nhũng, bất công xã hội, phân phồi tài nguyên quốc
gia thiếu hiệu quả và làm cho đất nước tụt hậu so với các quốc gia khác. Sự
tiếp tục kiềm chế chính trị sẽ làm cho sự phát triển kinh tế chậm lại như đã
xẩy ra từ 1997-1999. Tới một lúc sẽ gây ra khó khăn trầm trọng như đã xẩy ra
vào năm 1999-2000. Trong trường hợp đó, một là nhà nước phải thực hiện cải tổ
về kinh tế nhiều hơn nếu còn có giải pháp, hai là phải cải tổ chính trị, ba là
không làm gì cả, kinh tế sẽ bị trì trệ lâu và xã hội sẽ bị xáo trộn.