ĐT. 714-541-9859, 714-423-0577                      THONG THIEN HOC

Google

Trang Chính

English

Việt Nam


Hoa Kỳ

Sinh Hoạt Cộng Đồng


Thế Giới
Diễn Đàn

Văn Học

B́nh Luận

Kinh Tế
Câu Chuyện ThờiSự

Chuyện Lạ 4Phương

Khoa Học

Sức Khỏe

Ẩm Thực

Nhân Vật

Người / Ngợm

Vui Cười


Biếm Thi

Linh Tinh

Rao Vặt

Nhạc Hoàng Vân

VNCH Foundation

Ca Dao Việt Nam

Thơ Hà Huyền Chi

Hà Phương Hoài

Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

OVERSEAS
FREE VIETNAMESE
COMMUNITIES

RADIO
SAIGON-HOUSTON

 

 

DC&PT - Thời Sự

 

ĐẠI HỘI 10 ĐI VỀ ĐÂU ? 

TIẾNG NÓI CỦA “ĐA SỐ ĐẢNG VIÊN THẦM LẶNG” !

 

ÂU DƯƠNG THỆ

 

“Đảng ta như một kỵ sĩ mệt mỏi, bộ máy Đảng và Nhà nước như con ngựa bất kham, què quặt, trong tay kỵ sĩ có bản vẽ chỉ đường, nhưng xem măi cũng thấy như không phù hợp với thực địa, trời đă về chiều, làm sao tới đích được trước khi trời tối.”

 

            Trên đây là nhận xét về t́nh thế ngặt nghèo của chế độ toàn trị và khả năng của những ngừơi cầm đầu hiện nay của cụ Trần Lâm, 80 năm tuổi đời và 59 năm tuổi Đảng. Với nhận xét này và nhiều góp ư rất thiết thực khác, cụ Trần Lâm, nguyên Thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao,  vừa mới gởi thư 17 trang cho Ban chất hành Trung ương ĐCSVN để đóng góp cho việc chuẩn bị Đại hội 10 của ĐCSVN vào đầu năm tới.

Bằng ḷng thành thực của một đảng viên c̣n giữ đựơc tấm ḷng, tính tự trọng và khả năng nhận thức sắc bén cụ Lâm đă thấy rơ sự bế tắc của chế độ bắt nguồn từ sự thất bại của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự bất tài vô đức của nhóm lănh đạo hiện nay:

“Nhiều người nhận xét là Đảng ta đang khủng hoảng về ư thức hệ, nghĩ  cũng không có ǵ là quá đáng.”  “Nói rằng, chúng ta  khủng hoảng về lănh tụ là rất đúng.”

 

            Về sự thất bại của chủ nghĩa XHCN cụ Lâm tâm sự một cách bộc bạch:

            “Trước đây ta đă nói đến 3 ḍng thác, các ḍng thác này lúc ấy như sóng thần có thể lôi kéo toàn thể nhân loại vào trong ḷng nó. Gần một thế kỷ qua, nó tỏ ra không phải là như thế.”   

            Về khủng hoảng nhân cách và trí tuệ của lănh đạo cụ Lâm đă dẫn chứng rất rơ:

“Ông Đỗ Mười, cầm một món tiền lớn của nước ngoài, ai cũng biết, thế nhưng ông vẫn hiện diện ở vị trí người đại diện cao nhất của Đảng ta, nước ta, kể cả ở những ngày lễ lớn nhất, không ít người tỏ ra bức xúc và lo ngại, nghĩ rằng Đảng và Nhà nước không biết có thực ḷng chống tham nhũng không?”

Từ ư thức hệ và nhân sự như thế, cụ Trần Lâm làm một cuộc so sánh đối chiếu với các tệ trạng xă hội và thói hư tật xấu của những ngừơi có quyền lực. Rơ ràng nhất là tệ trạng tham nhũng và lộng quyền, làm sao có luật pháp nào có thể trừng trị được. Với kinh nghiệm của một Thẩm phán của chế độ toàn trị, cụ Lâm đă nói thẳng:

            “Lấy bộ máy hiện hành để chống tham nhũng khác nào bắt kẻ “chân ḿnh th́ lấm bét bê, lại mang bó đuốc mà rê chân người”, làm sao thành công được!”

            Vậy th́, liệu có thể chờ đợi nhóm lănh đạo hiện nay thay đổi thực sự hay không? Cụ Lâm nêu ra tâm trạng hoài nghi của đa số đảng viên:

            “Nhiều người buồn phiền v́ thấy các vị lănh đạo đất nước hiện nay tầm vóc xa vời so với nhiệm vụ. Điều ấy cũng dễ hiểu: Các vị lănh đạo hiện nay xuất thân từ các viên chức thời b́nh, tiến dần lên theo thang bậc hành chính, trong khung cảnh một bộ máy nhà nước nhiều khuyết tật.”

 

            Do đâu mà đưa tới những tệ trạng xă hội bất trị như hiện nay? Cụ Trần Lâm đă khẳng định:

            “Suy cho cùng, độc đảng sẽ đưa đến độc quyền, mọi độc quyền đều đưa đến tha hoá, đó là căn bệnh măn tính, là bệnh hiểm nghèo với vẻ bề ngoài như ổn định, yên b́nh nhưng cái chết được báo trước..”

 

            Sang phần góp ư trực tiếp với BCHTU về các dự thảo văn kiện chuẩn bị cho ĐH 10, nguyên Thẩm phán Ṭa án Nhân dân Tối cao đă nhận xét về sự “tù mù” của nó:

           “Về đường lối chiến lược của Đảng, nhiều người t́m hiểu nhưng không hiểu. Ngay từ “xă hội chủ nghĩa” có nội hàm thế nào cũng chưa rơ. Cụm từ “kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa” lại càng khó hiểu hơn.”

          V́ sự tù mù này ở ngay trong Trung ương, cho nên đă dẫn tới “tù mù” trong cách giải thích để thảo luận ở các địa phương:

          “Tôi đă đọc bản hướng dẫn thảo luận dự thảo nghị quyết ở cơ sở. Tôi thấy nó dàn trải quá, chung chung quá... không thể bảo là sai, không thể nói là đúng, cái có thể nói là nó tù mù, đọc xong không thể nắm được ǵ, không biết phải làm ǵ.”

 

          V́ thế, sau khi đọc toàn bộ các dự thảo văn kiện ĐH 10 cụ Trần Lâm đă chẩn bệnh ra ư định của những người cầm đầu chế độ và Cụ  bộc lộ tâm trạng vô cùng thất vọng:

          “Muốn gắng gượng duy tŕ thực trạng, cố gắng tự thân vận động để tiến lên. Xem ra sự gắng gượng rất mệt nhọc và tương lai mờ mịt v́ nhiều mặt cứ xuống, những khó khăn vẫn chất chồng. Cái khó lớn nhất là sức thuyết phục, sức mạnh quyền uy không c̣n trong nội bộ và giữa Đảng và dân. Chờ đợi, tôi không hiểu chờ đợi cái ǵ và làm sao sự chờ đợi không uổng công, trong khi chờ đợi th́ làm ǵ để tiến lên, dựa vào con người nào, ai chèo lái...

          Trong ba h́nh thức, Đảng đang duy tŕ h́nh thức kéo dài và chờ đợi. Tôi tin không có phép mầu nào cả. Càng kéo dài càng bế tắc. Đó chỉ là vấn đề thời gian, sự đổi thay như đă được báo trước.”

 

           Vậy th́ sự đổi thay sẽ diễn ra theo hướng nào?  Ngừơi đảng viên 59 tuổi đảng đă trả lời rất rơ:

          “Đa nguyên, đa dảng, tôi thấy nó cứ đến dần, ngoài ư muốn của chúng ta.” 

          Tại sao? Ngừơi 80 tuổi từng trải cuộc đời đă biện bạch:

         “Việc thiết lập thể chế đa đảng, là việc làm không thể dừng được. Ta hiện nay suy thoái nặng nề không lối thoát, c̣n có con đường nào khác đâu. Cả thế giới một đường, một ḿnh ta một hướng th́ thật là quá lạ, mà cái hướng của ta lại mù mờ, ngay trong nội bộ cũng không thông suốt.

          Thiết lập thể chế đa dảng là việc làm sáng suốt, một lựa chọn đúng đắn.

          Tôi nghĩ không hề có tự ti, mặc cảm v́ lư luận về đa nguyên là trí tuệ của nhân loại, là thành quả sự phát triển của loài người. Ta học là học bài học của nhân loại, không phải là theo Mỹ, theo Pháp.”

 

          Có lẽ nhận xét, tâm trạng và mong ước của cụ Trần Lâm về chế độ, về lănh đạo và về tương lai đất nước cũng là của “đa số đảng viên thầm lặng” trong ĐCSVN. Nếu họ được phép tự do tŕnh bày tư tưởng trong các đại hội đảng bộ ở cơ sở  và Đại hội 10 sắp tới th́ họ cũng nhận xét và yêu cầu như cụ Trần Lâm!♣

 

 

*          *          *

TÀI LIỆU TỪ TRONG NƯỚC

 

 

LTS: Dứơi đây là nguyên văn lá thư của cụ Trần Lâm, 80 tuổi đời, 59 tuổi đảng và nguyên Thẩm phán Toà án Nhân dân Tối cao, vừa gởi tới Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN góp ư về Đại hội 10. Phần mầu xanh dương là do Toà soạn làm.

 

 

Những ư kiến đóng góp vào việc chuẩn bị

nội dung Nghị quyết Đại hội lần thứ X

 

TRẦN LÂM

Tôi làm theo lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà đích thân tôi đă được nghe Người nói: “Phải nói kỹ về khuyết điểm v́ sai sót thường có tính bảo thủ”. Theo tâm lư dân chúng th́ ai cũng muốn biết rơ các biện pháp để chấm dứt sai sót, v́ đó mới là con đường tiến lên. Người ta có thể nói nhiều về thành tích, nhưng đó là việc hiếu hỷ, lễ Tết, ngoại giao.

Lúc này, tôi rất lo lắng v́ đề cập đến một vấn đề quá lớn, sợ sức ḿnh không với tới. Nghĩ lại, đây là một sự đóng góp, mỗi người một ư, cái quan trọng trên hết là ư thức trách nhiệm mà thôi.

Tôi không bằng ḷng với ai, về việc ǵ, đây chỉ là những suy nghĩ, qua nhiều năm tháng, muốn bộc bạch, muốn giăi bày.

Văn là người, tôi tin là chúng ta cảm nhận được đầy đủ và dễ dàng.

Nội dung tài liệu này cũng theo lề lối quen thuộc: có đánh giá t́nh h́nh, có nêu thiếu sót và có kiến nghị... Có cái khác là không mang tính tổng hợp, chỉ là biết đến đâu viết đến đấy. Phương pháp th́ nặng về phản biện v́ nghĩ rằng đây là phương pháp chính của việc góp ư.

 

*          *          *

 

Phần I: Tổng hợp các ư kiến trên báo chí, trái với việc đánh giá thành tích “đổi mới” của các cơ quan Đảng và Nhà nước.

Phần II: Nêu lên những nhận xét, suy nghĩ về những sai sót, bất cập, nghịch lư trên một số mặt, đ̣i hỏi phải có sự đổi mới triệt để.

Phần III: Nói lên những suy nghĩ về Đảng v́ đây là việc góp ư với Đại hội Đảng, hơn nữa, mọi hưng vong của đất nước đều gắn với vai tṛ của Đảng. Cũng thấy bức bách là Đảng phải đổi mới triệt để.

Phần IV: Nói lên những suy nghĩ về việc thay đổi thể chế. Thay đổi triệt để có phải là nhu cầu khách quan, là quy luật không và thay đổi như thế nào? Đây là câu hỏi lớn, mỗi một người góp một ư, đa số trong Đảng, đa số trong dân là người quyết định cuối cùng.

 

Phần I

Cũng cần nói lại về “thành tích”

 

A. “Đổi mới”

Ở ta, sau khi Luật Dân sự được ban bố, tư hữu tài sản được công nhận, các thành phần kinh tế được xác lập. Luật Doanh nghiệp ra đời. Sẵn cơ sở kinh tế tư bản thời kỳ thuộc địa, với việc quan hệ quốc tế rộng răi hơn, các doanh nhân, các nhà công nghệ với tŕnh độ khiêm tốn chiếm lĩnh vị trí. Nền kinh tế hàng hoá non trẻ ngày một phát triển. Thị trường, cạnh tranh là việc chúng ta đă nói đến hàng ngày. Kinh tế tư nhân tỏ ra năng động, vị trí ngày một cao.

“Đổi mới” ở ta đă chấm dứt được khủng hoảng toàn diện, tạo ra những tiền đề để phát triển lâu dài.

Suy cho cùng ta cũng đang ở thời kỳ phát triển bắt đầu trước đây mấy trăm năm của các nước Âu, Mỹ. Chỉ có khác là tốc độ có thể nhanh v́ toàn cầu hoá.

Trong sự phát triển này, miền Nam khá hơn miền Bắc: doanh nhân miền Nam tiềm lực kinh tế mạnh hơn, quan hệ quốc tế rộng hơn, khoa học kỹ thuật cao hơn, việc phát triển dựa vào cạnh tranh... Miền Bắc vẫn c̣n lúng túng về sở hữu: Sở hữu đất đai, về các cơ sở quốc doanh với việc cổ phần hoá chậm chạp, kinh doanh th́ theo lối chụp giật, trốn thế, buôn lậu, lừa đảo, đă h́nh thành cái người ta gọi là “kinh tế của những cánh hẩu” (crony economic) như ở Inđônêxia thời Suharto: lợi dụng quan hệ gia đ́nh, thân quen, chia chác với những người có quyền để được cấp đất ở những nơi hái ra tiền, có các quota béo bở, các món vay không phải thế chấp... buôn đi bán lại, tóm lại đầu cơ là chính.

Ta đang chậm chạp trên con đường phát triển của loài người. Đúng là “cũ người” nhưng “mới ta”. Con đường này là trí tuệ của nhân loại. Nước Mỹ văn minh và hùng mạnh nhưng cũng là con đẻ của văn minh châu Âu. Các nước Âu Mỹ chả ngả mũ, cúi đầu trước trí tuệ Việt Nam tiến hành chiến tranh nhân dân. Chúng ta không tự ti, mặc cảm khi nói lên điều này.

Một tộc người ở rừng núi chật hẹp, muốn t́m nơi rộng răi thoáng đăng để định cư. Họ đă đi ba phương trời để t́m miền đất hứa, đều thất bại. Họ buộc ḷng chuyển sang hướng thứ tư, họ đă thành công.

Ta đă trải qua nhiều giai đoạn, với các học thuyết và biện pháp: Không công nhận tư hữu tài sản; đánh đổ tư sản địa chủ; có lúc đổ lỗi cho chiến tranh; có lúc nêu lên cái gọi là giai đoạn quá độ tiến lên XHCN và cuối cùng là thực hiện bao cấp... Đất nước đi đến cùng cực của khủng hoảng toàn diện.

Cuối cùng ta phải chấp nhận: công nhận sở hữu của các thành phần, công nhận kinh tế thị trường, do đó đất nước khởi sắc.

Phải chăng, con đường ta đang đi không phải là một t́m ṭi chủ động?

Hơn thế nữa, chúng ta đă sang Trung quốc, xem xét sau 10 năm họ đă chuyển đổi kinh tế như thế nào và các thành tích của họ đă thuyết phục chúng ta ra sao. Đến hôm nay họ đă tiến bộ vượt bậc.

Các kư giả nước ngoài, cả các nhà báo nước ta, đă có nhiều người hỏi về sự giống nhau giữa Trung quốc và ta trong việc chuyển đổi kinh tế. Cũng dễ hiểu v́ hai nước có những hoàn cảnh giống nhau trước lúc chuyển đổi. Sao chép th́ chưa ai nói đến, nhưng Trung quốc là chất xúc tác, là nguồn động viên, là thí điểm cho chúng ta suy nghĩ th́ chắc là không ai có thể chối căi.

*

Nói rằng chúng ta tiếp nhận kinh tế thị trường nên chúng ta chấm dứt được khủng hoảng, đă khởi sắc, là khách quan và đúng đắn. C̣n nói rằng “đổi mới” là một sáng tạo, có tính đặc thù Việt Nam th́ xem ra như là một vi phạm sở hữu trí tuệ.

 

B. GDP:

Ta ca ngợi GDP của ta có nhịp độ tăng trưởng cao thứ nh́ châu Á. Ta coi đây là thắng lợi nổi bật và bao trùm. Rất nhiều điều tiếng về điểm này:

Có người coi giá trị này không lớn: Tổng giá trị GDP là 40 tỷ USD, tăng 7,8 %, mang con số tuyệt đối ra chia theo đầu người, cho 83 triệu người, hỏi mỗi người được bao nhiêu?

Có người băn khoăn về cách tính: Thóc, gạo, quần áo, giày dép xuất khẩu, có trừ đi tiền nhập phân đạm, phụ kiện may mặc không? Hàng hoá không bán được có tính vào GDP không? Hơn 3 tỷ USD mà kiều bào gửi về có tính vào thu nhập quốc dân không? Giá xăng dầu tăng lên trên thế giới có phải là yếu tố ngoại lai không? Các nước, vào cuối năm thường chỉ có dự báo và đến tháng 6 năm sau mới có thông báo chính thức về GDP, ta lại tuyên bố như đinh đóng cột vào cuối năm, liệu có vững chắc và đáng tin cậy không?

Có người nghĩ đến nguyên tắc tăng trưởng về chất lượng, tăng trưởng bền vững: Ta vẫn xuất khẩu nông sản theo dạng thô; than, dầu, thiếc, apatit càng ngày số lượng càng cao... Nh́n qua việc vận tải thấy như là ta đang mất một cái ǵ. Phải chăng, chúng ta chỉ nh́n trước mắt, chúng ta chạy theo giá trị đơn thuần?

Có người bực dọc thốt lên: Chúng ta đă sử dụng số tiền từ xuất khẩu ít ỏi này như thế nào? Nếu cộng cả con số nợ nần nước ngoài, con số tiền người ta cho không, con số mà chúng ta chi tiêu lăng phí vào lễ tết, hiếu hỷ, con số mà kẻ xấu trong chúng ta bỏ túi so sánh với những cái chúng ta đă làm được, quả là quá kém cỏi. Trong xây dựng cơ bản, ta nói tham ô, lăng phí mất đến 40%, nhưng c̣n một điểm ta không nói ra: tuổi thọ của công tŕnh như thế nào, liệu nó có sống được 30 - 50% tuổi thọ dự kiến không? Đối với cha ông, con cháu, chúng ta có công hay có tội, là điều đáng băn khoăn.

Có người cho rằng, chúng ta chậm c̣n do bỏ qua nhiều cơ hội. Thời cơ cao hơn tiền bạc, thời cơ mới là yếu tố tăng trưởng, có khi là đột biến. Dung Quất là điển h́nh về việc bỏ lỡ thời cơ, làm thua thiệt quá lớn về tiền bạc, làm chậm bước tiến của phát triển.

Có người c̣n nghĩ rằng, muốn tăng trưởng th́ điều đầu tiên phải vượt qua là chính sách: Chính sách hợp thời, hợp lư, cụ thể sẽ đẩy nhanh tiến độ tăng trưởng. Cần dành nhiều thời gian cho chính sách hơn là cho tính toán các con số. Tôi thấy họ đúng: phải chăng chính sách đất đai đang ḱm hăm sự phát triển đất nước một cách ghê gớm.

*

Gần đây, có một cách nh́n mới, được nhiều người nhắc đến, có thể coi là đúng đắn: Ta tụt hậu quá xa, có người cho đây là “quốc nhục”. Trước đây 30 năm, nước ta và nhất là miền Nam, tŕnh độ kinh tế c̣n cao hơn Thái lan, Malaixia, Đài loan, Hàn quốc, thế mà nay với tăng trưởng GDP mức độ hiện nay của ta, ta phải 20 năm mới theo kịp họ, không phải lúc ấy, mà bằng họ ngày hôm nay! Ta đang ở trong số những nước nghèo nhất thế giới. Cộng đồng châu Âu đang bàn soạn việc xoá nợ cho các nước nghèo đợt 2, là 14 nước, trong đó có Việt Nam, cạnh Soudan và Togo...

*

Có người c̣n nhắc nhủ: “Làm được ǵ không quan trọng, làm được ǵ hơn người ta mới là quan trọng”. Các Mác c̣n đi xa hơn: “Làm được ǵ không quan trọng, cách làm như thế nào mới là quan trọng”. Ta vẫn mắc cái sai là mang so ta ngày hôm nay với ngày hôm qua, cái sai là làm việc ǵ cũng chỉ cần cho xong với bất cứ giá nào.

Một điều hé mở: Có lẽ chúng ta coi nhẹ trí tuệ và khoa học công nghệ. T́nh h́nh chậm tiến của ta và nguyên nhân cần suy nghĩ, bàn luận dài dài.

 

C. Nói như trên hoàn toàn không phải là phủ nhận sạch trơn, chỉ là tiếng nói phản biện để t́m ra chân lư: “Kẻ nói đi, có người nói lại”.

Nh́n nhận toàn màu hồng hoặc toàn màu đen, do hạn chế về tŕnh độ, về nhận thức, về hoàn cảnh riêng tư... là điều cần thông cảm, cần chờ đợi. C̣n nếu v́ một dụng ư nào đó, chỉ nhấn mạnh một chiều, nhằm mê hoặc người khác, g̣ ép họ chấp nhận lời ḿnh nói, đó là điều tệ hại.

Hăy thận trọng: Lời nói tại diễn đàn toàn quốc sẽ được lưu giữ và không tránh được sự xem xét và đánh giá sau này của hậu thế. Trước mắt, người trong nước và nước ngoài đang chờ đón để xăm soi, khen chê chúng ta.

 

 

 

Phần II

Những bất cập, những nghịch lư

 

A. Về giáo dục và đào tạo:

Xin góp ư một vài điểm mà tôi biết trong vấn đề quá lớn này:

1. Việc chọn cán bộ và việc đào tạo không song hành.

Nước ta chậm phát triển, người đi học có mục tiêu là kiếm chỗ trong bộ máy nhà nước. Người trong bộ máy nhà nước phải là người giỏi trong những người được đào tạo. Tổ chức đào tạo phải đáp ứng yêu cầu này: tạo ra người giỏi, tạo ra nhân tài.

Không! Cơ quan tuyển dụng lại có cách riêng. Đầu tiên người trong bộ máy nhà nước phải có quá tŕnh cách mạng dù họ không có chuyên môn; sau đó người ta chọn người theo lư lịch. Báo Le Monde (Pháp) có biếm hoạ: Tại cửa tuyển dụng, ở Paris, người tuyển hỏi người xin việc: “Anh có bằng ǵ?”. Ở Watsingtông hỏi: “Anh có nghề ǵ?”. Ở Hà nội hỏi: “Bố anh làm ǵ?”. Tôi được biết chuyện cười này cách đây 30 năm. Tiếp sau, người ta chọn người thân quen, họ hàng của những người có chức quyền, việc chọn này như thành việc mua bán, đổi chác, hối lộ... từ “5C” ra đời (5C: con, cháu, các, cụ, cả) đă được nêu ra trong Quốc hội. Rồi đến việc người ta chọn người để tạo phe cánh, tạo đường dây để bảo vệ lẫn nhau, cùng nhau tiêu cực kiếm chác... Cao điểm, đến ngày hôm nay là việc chạy chọt, hối lộ để chạy chức, chạy quyền, như Thủ tướng đă phải công khai cảnh báo... Các cháu tôi, ra trường xin việc làm, đều có giá là 60 triệu, h́nh như giá chỉ đạo cả trong Nam ngoài Bắc. Ở hai tỉnh thi tuyển công nhân viên chức, một tỉnh chỉ nhận đơn của con em viên chức nhà nước, một tỉnh đánh trượt những em giỏi nhưng thiếu điều kiện nào đó, có ai biết là điều kiện ǵ. Báo chí đă đăng tải.

Bản thân ngành giáo dục cũng v́ đó mà thui chột động lực dạy và học. Dân số phát triển quá nhanh, giáo dục chạy theo, thành phát triển quá nóng, chất lượng cũng giảm sút. Ngành giáo dục chạy theo thành tích, chạy theo bằng cấp, rồi chạy theo tiền... Việc học tuỳ tiện “dốt hư chuyên tu, ngu như tại chức”... mua bằng, bằng giả, học giả, bằng thật...

Khi ta nhận ra giáo dục là quốc sách, giáo dục tạo ra nhân tài, nhân tài là nguyên khí quốc gia, con người là động lực đầu tiên của phát triển th́ ta đă suy thoái trầm trọng.

Người tiêu dùng không cần hàng hoá đúng tiêu chuẩn, người sản xuất không cần làm hàng hoá có chất lượng, đó là bối cảnh của giáo dục, đào tạo và tuyển dụng.

Khi kinh tế bắt đầu phát triển, một số học sinh, sinh viên giỏi chạy theo các công ty nước ngoài, thành ra có việc chảy máu chất xám ngay trong nước.

*

2. Ta không coi trường sư phạm là căn cứ địa là cái nôi của giáo dục.

Anh và Pháp đều dùng chữ “norme”, “norm” để gọi trường sư phạm. Trường sư phạm (école normale) đào tạo ra giáo viên là khuôn mẫu công dân.

Một thời gian quá dài, trường sư phạm bị coi nhẹ. Sinh viên có câu: “nhất y, nh́ dược, tạm được Bách khoa, Sư phạm bỏ qua, Nông lâm xếp xó”. Riêng đối với trường Sư phạm là đúng. Chúng ta chỉ chọn được các sinh viên tiêu chuẩn không cao, nuôi dưỡng, đào tạo không có ǵ đặc biệt, ra trường đăi ngộ không xứng đáng, trước mắt nhân dân, sự kính trọng giảm sút dần. Thử hỏi: sinh viên yếu, rồi thành thầy giáo yếu, thầy giáo yếu lại tạo ra các sinh viên yếu, sinh viên yếu thành thầy giáo kém... Ta đă tạo ra cái “gien” suy thoái từ thế hệ này qua thế hệ khác. Ta phát hiện quá chậm, đến nay vẫn chưa có giải pháp khắc phục.

Ban hành chương tŕnh học mới, biên soạn lại sách giáo khoa, chấn chỉnh lại các nguyên tắc quản lư, các nguyên tắc giảng dạy của ngành phổ thông là việc bức thiết mà ta đă đặt ra. Tại sao không đưa các nhà khoa học đích thực, các thầy giáo giỏi về các trường sư phạm, biến các trường thành trung tâm nghiên cứu, biên soạn, trung tâm bồi dưỡng giáo viên, thể nghiệm mọi việc qua các trường thực nghiệm của các trường sư phạm, trung tâm du nhập tiến bộ khoa học kỹ thuật giáo dục của nước ngoài, biến các trường sư phạm là nơi tập hợp, nghiên cứu toàn bộ các ư kiến đóng góp của các nhà khoa học, của toàn dân. Cuối cùng, ở đây h́nh thành trường phái của ngành giáo dục Việt Nam, chấp nhận cả những “học phiệt”. Ngành khoa học nào cũng phải có người cầm đầu, phải có trường phái rơ rệt, phải có địa chỉ chịu trách nhiệm về sự hưng vong của khoa học, tốt th́ có cái để giữ ǵn, lạc hậu có cái mà loại trừ.

Ta làm khác quá: để mặc ngành giáo dục tự tung, tự tác; các ư kiến đóng góp của toàn dân không biết rơi rụng nơi nào. Ta mất quá nhiều thời gian bàn về các việc: bỏ thi cấp 2, thay tên cấp học... Ngành giáo dục lúng túng như thợ vụng mất kim, nay đề ra việc này, mai lại hoăn... mà chỉ là các việc cụ thể.

*

3. Một số băn khoăn khi nh́n ngành giáo dục đào tạo của ta và riêng ngành đại học.

a) Giáo sư là người đứng trên bục giảng, tiến sĩ là người làm trong pḥng thí nghiệm... Người cầm đầu ngành phải là người am hiểu xă hội Việt Nam, con người Việt Nam, hiểu không sâu nhưng rộng về các ngành kinh tế, khoa học kỹ thuật, tóm lại có kiến thức tổng hợp, lại biết về kinh tế tài chính vĩ mô, là chính khách nh́n xa trông rộng, biết cách dùng người, t́m được người giỏi, quản lư được tổ chức... Giao quản lư ngành cho các nhà khoa học chuyên sâu, người có bằng cấp cao, chưa phải là đặt người đúng chỗ.

b) Có người cho rằng, số nhà khoa học của ta so với dân số th́ c̣n kém xa các nước trong khu vực. Có người lại thấy đă ít, nhưng nhiều người hàng năm chả có một công tŕnh nào. Có người lại đưa ra tiêu chí: Nước có tŕnh độ khoa học cao là khi họ giải quyết được các vấn đề khoa học, kinh tế, chính trị bức xúc của chính nước họ và không căn cứ vào số lượng tiến sĩ, giáo sư... Tôi nghiêng về quan điểm: Chất lượng các nhà khoa học, có sự phân bố đồng đều ở các ngành, có đủ khả năng giải quyết các yêu cầu, là mục tiêu của giáo dục, đào tạo. Nghiêng về quan điểm cuối cùng trên, th́ phải nhận rằng ta phát triển đại học ồ ạt, một cách đáng kinh ngạc. Khi thiếu giáo sư, thiếu cơ sở, thiết bị, đời sống sinh viên quá tồi tệ... Sinh viên ra trường không biết làm việc... sự lăng phí là vô kể, làm rối loạn xă hội v́ thi cử, chạy chọt...

Giáo dục đại học là đào tạo nhân tài, người lao động bậc cao, vẫn cần nhắc lại, cần thấy là có nhiều sai sót và cần sửa đổi.

*

4. Dân số, thanh niên, nạn thất nghiệp và việc đào tạo nghề.

Ta có 83 triệu dân, thanh niên chiếm quá nửa, 70% là nông dân. Số thanh niên thành thị và nông thôn học xong cấp 2 và 3 đông vô kể. Họ đang không có việc làm, là một nỗi lo.

Việc xuất khẩu lao động ta thả nổi cho các công ty, họ bóc lột người lao động, bọn lừa đảo không ít... Việc dạy nghề của nhà nước h́nh như vắng bóng. Việc sản xuất có mở rộng, nhưng thu nhập thấp, người lao động quá khổ cực v́ đắt đỏ và xa gia đ́nh.

Ba Lan hàng chục % dân số lao động ở nước ngoài, tiền gửi về nhà quá lớn, GDP tự nó nâng cao... Việc phát triển công nghiệp và các nông trấn Trung quốc ở một số vùng làm tốt...

Đă đến lúc cần nh́n lại: Giải quyết việc làm là vấn đề chính trị xă hội  rất lớn, là việc nâng cao kinh tế rất hiệu quả. Đảng và Nhà nước phải có chính sách lâu dài vấn đề này và Nhà nước phải bắt tay vào làm với ư thức đây là một chủ trương lớn thuộc loại quốc sách.

 

B. Bộ máy Đảng và Nhà nước

 

Hiện nay, ở ta trong việc quản lư phát triển đất nước, người dân coi Đảng với Nhà nước như là một. Một cán bộ cấp thấp, dù chưa là đảng viên, người dân cũng coi là một đại diện của Đảng. Giữa người dân và Đảng, Nhà nước, mối quan hệ đă khác xưa: trứơc là một, nay như đă xa cách. Tôi đóng thuế, tôi trả lương cho anh, anh lười biếng, lại “hành là chính”, trước tôi và anh như nhau. Sao anh giầu nhanh thế, tôi vẫn nghèo, nay hô hào anh và tôi đoàn kết, nghe khó lọt tai quá! Tôi có gặp một vài người, hiện đang làm việc, là người sạch sẽ, cũng có nghiệp vụ, họ đều tỏ ra chán nản với môi trường làm việc của họ.

Suy nghĩ ǵ về bộ máy Nhà nước và Đảng non trẻ của chúng ta?

1. Đường lối và tổ chức có mối quan hệ hữu cơ: Ta có nhiều chính sách nhưng hoặc nói rồi để đấy, làm thời gian rồi quên đi, làm kéo dài, không đo đếm được kết quả, thông tin về thực hiện không có, bao trùm là thiếu một đường lối tổng quát như các nước xung quanh đă thực hiện để trở thành “con rồng”. Ta giống như một người lúc làm lúc nghỉ; làm không gọn, dọn không sạch; không rèn dũa được ḿnh, không dạy dỗ con cái, gia đ́nh không căn cơ để trở nên giàu có.

2. Bộ máy là bao gồm rất nhiều người, từng người đều có trách nhiệm cá nhân, như con ốc nhỏ bé, nếu vặn không chặt, cả bộ máy cũng ngừng chạy... Ta làm việc ǵ cũng ào ào, người nọ làm việc người kia, thừa chỗ này thiếu chỗ khác... tốt, xấu không biết, sai đúng không thuộc về ai. Ông Đỗ Quang Trung thừa nhận: “Ở ta xác định trách nhiệm cá nhân thật là khó”. Thế sao gọi được là bộ máy! Làm sao có cá nhân kiệt xuất, có nhân tài trong cái hỗn độn đó.

3. Ta vận hành bộ máy với nguyên tắc cũ kỹ: Đảng tối hậu quyết định, chính trị là thống soái, mà đáng lẽ ngày hôm nay trong khi “đổi mới” ta phải thực hiện kỹ trị: giao việc quyết định của nhiều vấn đề cho các nhà khoa học, các nhà chuyên môn. Các cấp uỷ Đảng không đủ trí tuệ, thời gian, sức lực để quyết định hết thảy. Lúc này không phải là lúc bàn đánh hay hoà, mà lúc này bàn có làm việc ấy không, làm thế nào, ai làm, tiền, người,... kết quả ra sao... Phải chăng các thành phố ngập lụt, xấu xí, đánh bắt xa bờ trắng tay, đồi Vọng Cảnh, nước Hồ Tây... là thiếu vai tṛ quyết định, chứ không phải là nghiên cứu, đề xuất của các chuyên gia, các nhà văn hoá.

4. Ta thực hiện một cách lệch lạc nguyên tắc: tập thể lănh đạo, v́ chúng ta quên mất vế thứ hai: cá nhân phụ trách. Có nghĩa là bàn th́ nhiều người, nhưng trong thi hành, trách nhiệm thuộc về một người. Người cầm đầu nếu thuộc thiểu số phải rút lui. Ông Kozumi bị thiểu số, đặt ra vấn đề ông c̣n cầm đầu đảng ông, cầm đầu nước Nhật nữa hay không. Nguyên tắc luật h́nh sự: khi một tập thể phạm lỗi, việc truy cứu trách nhiệm chỉ nhằm vào người chủ chốt...

Hiện tại: tập thể như là một tấm màn của tṛ ảo thuật, như bức tường thành che dấu cho những người theo đóm ăn tàn, gió chiều nào che chiều nấy, âm mưu, thủ đoạn... hoặc chí ít là khuyến khích sự lười biếng, chậm chạp, mà chậm chạp là mất thời cơ, mất tiền bạc, là tụt hậu... Việc to cũng chậm chạp, việc nhỏ cũng chậm chạp, cái ǵ cũng vội vội, vàng vàng.

5. Chọn người làm việc chúng ta sai phạm nghiêm trọng nhất. Chúng ta coi nhẹ nguyên tắc v́ việc mà t́m người. Việc bỏ phiếu là bỏ phiếu cho ai có thể thực hiện được một nhiệm vụ nào đó chứ không phải về người đó như thế nào. Họ không làm được theo yêu cầu, họ phải rút lui, dù họ thực hiện được yêu cầu, họ cũng sẽ rút lui theo nhiệm kỳ v́ một t́nh thế mới, một yêu cầu mới, cần những người mới, thích hợp hơn.

Một người ở ta được chọn có hàng chục, hàng trăm lư do, nói ra không hết, có cả nhầm lẫn, có xấu xa... Ngay việc chọn lựa trong sạch nhất cũng có sai lầm: người kém cỏi cầm đầu th́ dạy dỗ được ai, biết ai tài giỏi mà chọn, biết việc làm thế nào mà t́m người... Người quanh quẩn trong bốn bức tường, khi chọn người chỉ biết vài người thân cận, thành ra: một ít người chọn người tài trong một số ít người... Nhiều khi một người khéo ứng xử được quư trọng hơn một người có khả năng cống hiến. Ở ta màu sắc triều đ́nh phong kiến đă có. C̣n Dumas th́: “Triều đ́nh là nơi làm băng hoại con người”.

Tôi luôn luôn tự hỏi: v́ sao Bộ trưởng Giáo dục Anh là mù loà, Bộ trưởng Quốc pḥng Pháp lại là nữ, chưa hề cầm súng, Bộ trưởng Ngoại giao Đức lại là người không thích thắt ca-vát... mà công việc của họ vẫn tốt.

6. Bộ máy nhà nước có đối tượng phục vụ là dân hay hay đối tượng là chính nhà nước, câu hỏi phải đặt ra.

Việc xây dựng nhà cửa tách biệt, cao sang, hội họp rầm rộ, h́nh thức, tốn kém, nội dung các chính sách, các thể lệ đều buộc người dân vào quỹ đạo nhà nước, hay nói đúng hơn là ư chí của người cầm quyền.

Khi làm các việc này, nên suy nghĩ lại: làm cho ai, đưa lại cho họ cái ǵ, họ cần cái ǵ?...

7. Đầy rẫy nghịch lư trong công việc xây dựng bộ máy Đảng và Nhà nước:

- Ta nói Đảng suy yếu, nhưng ta không có kế hoạch củng cố, chúng ta lại mở rộng việc phát triển đảng viên, làm phức tạp thêm.

- Bộ máy nhà nước kém hiệu lực, ta đă kiểm tra và kết luận: 10 người có 3 làm được việc, 3 người cố gắng tạm dùng được, c̣n 4 th́ phải bỏ đi, 10 năm rồi, ta không loại ai, chỉ thấy biên chế ph́nh ra.

- Ta kêu tiền lương bất hợp lư, hàng 10 năm chưa sửa được. ta vẫn tiếp tục nuôi số người ăn bám (loại con sâu ngân sách) và trả lương không đủ sống.

- Những người sai phạm, kỷ luật họ rất khó, sa thải họ càng khó hơn.

8. Người ta hỏi nhà du hành vũ trụ Liên Xô Ti-tốp: “Thế nào là một cán bộ tốt?”. Trả lời: “là người yêu nước và yêu nghề nghiệp”. Đúng thế: yêu nước th́ yêu dân, hết ḷng làm việc cho dân; yêu nghề th́ trau dồi, chăm chỉ để thành chuyên gia, bác học. ở ta có khi vừa ḷng cấp trên là được tất cả, như vậy làm sao có được bộ máy tinh nhuệ.

9. Bộ máy nhà nước có ba nhiệm vụ. Cả ba đều kém:

Quản lư môi trường th́ có hai thành phố lớn nhất: không mưa cũng lụt, mưa nhỏ cũng lụt, rác rưởi... đâu cũng quy hoạch treo, mất rừng, mất biển... và quan trọng bậc nhất là quản lư đất đai th́ lỗi thời không biết bao giờ th́ chấm dứt... đâu đâu cũng cảng biển, xi măng, nhà máy đường.

Quản lư con người từ đào tạo đến sử dụng, bồi dưỡng, sàng lọc th́ đều kém cỏi... không t́m được người tốt, người giỏi, thanh niên th́ suy thoái về lư tưởng, đạo đức...

Quản lư về đồng tiền th́ có hai loại người: có tấm ḷng nhưng kém cỏi thường vứt tiền qua cửa sổ; tháo vát, thông minh th́ đút tiền vào túi, bao nhiêu tiền cũng hết, thế là tiền mất, tật mang... Đồng tiền này lại quay trở lại thành công cụ làm rối ren thêm đất nước.

Bao giờ ta có người tốt quản lư đất nước từ cấp cao đến cơ sở. Đă đến lúc bộ máy nhà nước cần lên bàn để đại phẫu thuật, ghép tạng, thay máu... Nếu không ta sẽ tụt hậu dài dài.

10. Khi nói đến Nhà nước, bao giờ cũng phải lấy tiêu chí: “lấy dân làm gốc”; “của dân, do dân và v́ dân”; “dân làm, dân kiểm tra”... Những điều này người ta cho là chúng ta chỉ nói cho vui v́ không thấy có cơ chế, biện pháp, h́nh thức cụ thể để thực hiện tiêu chí này.

Đích thân tôi được nghe Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói với bộ phận giúp việc: “Các anh làm việc theo lối thơ lại, nghĩ chỉ để nói và viết làm sao không ai bắt bẻ là được, các anh không bao giờ nghĩ để làm!”.

Các văn bản của ta đều tiến hành chỉ đạo hành động, không có lộ tŕnh thực hiện từ A đến Z, không có căn cứ khai thác nguồn lực, không có các biện pháp cụ thể, không có thưởng phạt nghiêm minh... V́ thế không thể buộc các ngành các cấp triệt để thực hiện. Có như thế, qua các đợt ta có thể điều chỉnh chủ trương, biện pháp, điều chỉnh con người... và từng việc, từng việc ta hoàn thiện bộ máy. Mặt khác, lúc nào cũng phát động nhân dân cùng làm, cùng kiểm tra với tinh thần công khai, minh bạch. Ta sẽ tránh được tự ta làm hại ta và tránh được cho nhân dân chống đối ta, mọi việc sẽ tốt đẹp. Dân là nước, bộ máy nhà nước là thuyền, nước nâng thuyền và có thể lật thuyền. Chủ trương và thực hiện, Đảng và dân, là 4 yếu tố của thành công.

 

C. Tham nhũng và chống tham nhũng

1. Đâu là nguyên nhân tham nhũng?

Có người cho: Có tư hữu th́ có nhà nước; có nhà nước th́ có tham nhũng. Đông Tây, cổ kim đều thế cả. LHQ ngày nay cũng đang điêu đứng v́ tham nhũng.

Có người cho đói nghèo sinh ra tham nhũng. Các nước nghèo nhất thế giới trong đó có Việt Nam cũng là những nước có tham nhũng nặng hơn cả. Mười năm trước Lê Khải Ca, đạo diễn lừng danh Trung quốc sang Mỹ, người ta hỏi t́nh h́nh Trung quốc, Lê Khải Ca khái quát: “Sự biến Thiên An Môn trước đây là do sự lo sợ mất quyền hành, cướp bóc về kinh tế hiện nay là do lo sợ đói nghèo”.

Tôi nghiêng về phía muốn chống tham nhũng phải làm cho dân giàu, nước mạnh, phải thượng tôn pháp luật, mọi việc phải được dân kiểm tra: công khai minh bạch như các nước giàu có nhất, ổn định nhất, bộ máy nhà nước trong sạch nhất: Na uy, Thuỵ điển, Đan mạch, Hà lan... kể cả Đài loan, Singapore.

2.  Ở Việt Nam, ư thức pháp luật trong nhân dân chưa cao. Người Việt Nam tuân thủ một thứ pháp luật truyền thống, không thành văn, nhưng được thể hiện qua ca dao, tục ngữ. Cũng như Hồi giáo có luật sary, Tây Nguyên có luật tục...

a) “Một người làm quan cả họ được nhờ”: Thời thuộc địa Pháp, người Pháp đă nói: “Trong đầu mỗi người An nam đều có một ông quan”. Vở chèo Lưu B́nh Dương Lễ ca ngợi việc học đưa đến quan trường: “vinh thân, ph́ gia”. Ngay sau nạn đói 1945, bộ máy nhà nước vừa ra đời chưa được một năm, Hồ Chủ tịch đă phải lên tiếng chống tham ô, lăng phí...

Một người vào Đảng, vào bộ máy nhà nước, đă không cảnh giác với các người xung quanh, với chính bản thân ḿnh, có khi họ trở thành tan bạo: ăn vào cả thương binh, liệt sĩ như ở Việt Nam, cả Sóng thần như ở Inđônêxia.

b) “Thượng bất chính, hạ tắc loạn”; “Nhà dột từ nóc”: Người có chức cao, quyền trọng, quá thiển cận, không biết việc làm sai trái của ḿnh sẽ thúc đẩy nhiều người làm theo. Trên thế nào, dưới như thế. Ngay đến cái ghế ngồi họp, chạm trổ cầu kỳ, nặng nề, tưởng chỉ xuất hiện ở Hà nội, nay thấy phổ biến đến cấp Huyện... Trách nhiệm đối với tham nhũng của các cán bộ, càng cao càng nặng nề.

Làm ǵ cũng có người biết, người đồng phạm, người có chức quyền cao lại phải có người giúp sức... Khi vỡ lở, kẻ cấp dưới ngang nhiên thách thức: “Trạng chết th́ Chúa cũng chẳng c̣n”, thành ra cấp trên “há miệng mắc quai”, phải bao che, lẩn tránh. Loạn càng thêm loạn.

Có người có chức quyền nhưng sai phạm, ngay chính cấp dưới của ḿnh lợi dụng, lâu rồi khống chế chính ḿnh như hoạn quan, có lúc chi phối cả triều đ́nh. Lịch sử nước ta đă có t́nh h́nh như trên.

c) “Toét mắt là tại hướng đ́nh, cả làng toét mắt riêng ḿnh em đâu”:

Ở ta cái mới mà đơn độc th́ bị đánh tơi bời, mặc dù là cái tốt. C̣n cái xấu, một người làm sẽ bị lên án, nhưng nhiều người làm th́ thành ra chấp nhận được, không bị coi là xấu nữa. Nếu việc xấu đù nghiêm trọng, những người cầm quyền làm trước th́ nó vẫn phát triển như vũ băo.

“Quan trên trông xuống” đă làm ngơ, “người ta trông vào” cũng hùa làm theo, “đảng viên đi trước làng nước đi sau” th́ tham nhũng trở thành phổ biến và trầm trọng là điều dễ hiểu, cũng như bao nhiêu t́nh h́nh tiêu cực trong đời sống hàng ngày.

3. Việc chống tham nhũng tỏ ra kém hiệu quả và nếu suy nghĩ kỹ th́ thấy như vô hiệu.

Công khai, minh bạch là lối giải quyết hiện đại nhất, nhưng chúng ta lại “việc nhà, đóng cửa bảo nhau”, “xấu chàng hổ ai”, “con dại cái mang”, không nên “vạch áo cho người xem lưng”, “tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”, hay là tránh né để “không thành việc chính trị, giữ vững ổn định”... thế th́ làm sao để răn đe được ai.

Người tham ô càng cao bao nhiêu càng được che dấu bấy nhiêu, gượng nhẹ bấy nhiêu, cho nên dân có câu “chỉ đánh từ vai...”.

Việc xử lư th́ lề mề chậm chạp: Việc chiếm đất ở Đồ sơn, rơ như ban ngày, nhưng nay xử lư một cách, mai một cách, nay người này ém nhẹm, người kia phanh phui, cấp này im lặng, cấp kia lên tiếng, tội danh là chiếm đoạt, toàn bộ tài sản, “chiếm công vi tư”, nhưng được biến hoá thành “phù thu lạm bổ”, “chấm mút”, “bớt xén”, nhẹ hơn nhiều.

Tham ô trở nên trầm trọng kéo dài bao nhiêu năm, đến năm nay mới có luật. Thời gian sẽ minh định là tác dụng luật sẽ rất thấp: Dân ta c̣n lâu mới sống theo điều này, khoản nọ của luật. Rơ ràng là khi Quốc hội thảo luận Luật chống tham nhũng là lúc Đồ sơn xảy ra cuộc cướp bóc đất đai. Bản thân luật mới chứa đựng nhiều bất cập, nghịch lư: Lấy bộ máy hiện hành để chống tham nhũng khác nào bắt kẻ “chân ḿnh th́ lấm bét bê, lại mang bó đuốc mà rê chân người”, làm sao thành công được.

Ông Đỗ Mười nói một câu rất hay: “Có khi ta phải chém vào tay, vào chân ta” mới giải quyết được t́nh h́nh. Người đời có câu, “kẻ thù chính của ta lại là bản thân ta”. Đây mới là cái khó nhất, một bi kịch lớn nhất, là nỗi đau của dân tộc.

4. Mọi khó khăn, con người trước sau đều giải quyết được, đó là điều tất yếu. Chúng ta có thể hạn chế được tham nhũng.

Khởi tố vụ án, bỏ tù một số người, kể cả những người ở cấp cao, luôn luôn răn dạy con người, trong gia đ́nh, ở nhà trường, ngoài xă hội “đói cho sạch, rách cho thơm”.

Cần phải có các biện pháp toàn diện mới mong cứu văn được t́nh h́nh: thanh đảng, xếp lại bộ máy nhà nước, chọn người tin cậy và giao cho đảm nhiệm chức vụ từ cao đến thấp, đề cao trách nhiệm cá nhân, ban bố luật và thực thi luật, sửa lại lề lối, áp dụng nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch... coi tiêu chuẩn gương mẫu là không thể thiếu của người thủ trưởng, từ cấp cao đến cấp thấp thực hiện. Trong khi ấy, phấn đấu để nâng cao tŕnh độ, khả năng kinh tế. Nghiên cứu t́nh h́nh nước giàu nhất, sạch sẽ nhất để noi theo. Phát động quần chúng, tổ chức quần chúng chống tham nhũng với cơ chế rơ ràng: có tổ chức, có nhiệm vụ, có quyền hạn, với các biện pháp rơ ràng.

5. Ai cũng biết, ai cũng nói, nhưng tham nhũng ngày một nặng hơn, rộng hơn. Đâu là nguyên nhân sự bế tắc này: Phải chăng v́ các người cầm đầu địa phương, đơn vị đă tránh né, không ra tay. Có thể họp muốn che dấu sợ làm xấu mặt đơn vị ḿnh, có thể họ sợ “dứt dây động rừng”, hay là “tay họ đă nhúng chàm” mà nay họ sợ “cháy nhà ra mặt chuột”, “lạy Ông! Tôi ở bụi này”... Tôi thấy có việc, có cả 4 t́nh huống này.

Tham nhũng lộ mặt do quần chúng tố cáo, báo chí xuất trận. Cho nên chỉ có phát động quần chúng mới mong giải quyết được t́nh h́nh. Tôi lại thấy Đảng và Nhà nước ta rụt rè trong việc này, có lẽ sợ quần chúng nhân dân đứng lên sẽ gây ra biến động, đe doạ đến an ninh...

Bệnh th́ nặng, thuốc th́ độc, đó là t́nh thế tiến, thoái đều khó khăn.

6. Chúng ta chưa nhận thức được nguy hại của tham nhũng: Bao nhiêu đảng phái tan ră, bao nhiêu chính phủ bị đổ do tham nhũng, bao nhiêu dân tộc đói nghèo triền miên v́ tham nhũng. Đó là nguy cơ thực sự. Nguy cơ có thù trong, giặc ngoài xét c̣n xa vời, nhưng nguy cơ tham nhũng là là hiện hữu ngay trước mắt, ngay trong ḷng chúng ta, nó sẽ nhấn ch́m tất cả.

Ta luôn luôn nói: “Học tập theo gương Bác Hồ” nhưng chúng ta không làm theo Bác Hồ: Chống tham nhũng từ lúc ban đầu có Đảng và Nhà nước, bản thân Người sống đạm bạc, một phần do bản chất, nhưng cũng có thể một phần để có tác dụng gương mẫu.

Ông Đỗ Mười, cầm một món tiền lớn của nước ngoài, ai cũng biết, thế nhưng ông vẫn hiện diện ở vị trí người đại diện cao nhất của Đảng ta, nước ta, kể cả ở những ngày lễ lớn nhất, không ít người tỏ ra bức xúc và lo ngại, nghĩ rằng Đảng và Nhà nước không biết có thực ḷng chống tham nhũng không?

 

D. Ruộng đất và nông nghiệp, nông thôn, nông dân

a) Ruộng đất: Có t́nh trạng người người lấn chiếm đất, lấn chiếm tất cả các loại đất, lấn chiếm lớn và vụn vặt, nhiều khi trắng trợn, không c̣n phép nước, không có t́nh người. Ở từng địa phương, nhân có việc xây dựng cơ bản, có các chương tŕnh, h́nh thành một đường dây tham nhũng thông qua đất đai: Ra quyết định, tổ chức thu hồi đất, giao đất, bán đất... đầu cơ để lấy chênh lệch, để có đất ban phát cho người thân... thị trường nhà đất sôi động, thực chất là mua đi bán lại... Thị trường gần đây đóng băng v́ thủ đoạn quá lộ liễu, v́ giá ngất trời, người có nhu cầu không thể đủ sức mua... Khiếu kiện đến mức nghẹt thở... một vài tỉnh đă lộ diện những lănh chúa: chiếm đất rộng mệnh mông để “làm trang trại”.

Từ đầu óc: không công nhận sở hữu tư nhân, rồi buông lỏng quản lư, vẫn giữ quyền chi phối đất đai trong tay nhà nước, tức là quyền thuộc về các cấp chính quyền, tham nhũng được mở cửa, đó là hệ quả thứ nhất.

Hệ quả thứ hai là các giao dịch dân sự hỗn loạn, cản trở phát triển. Nông dân trồng mía, giá thị trường thấp, nông dân bán mía theo hợp đồng cho nhà máy đường, giá mía thị trường cao, nông dân liền “xù”, bán mía cho tư thương. Nhà máy có kiện ra Ṭa th́ cũng không tịch thu được ruộng đất v́ ruộng đất nông dân chỉ được “tạm giao”. Xă hội hoá giáo dục, Bộ giáo dục đào tạo, họp đi, họp lại, trong Nam, ngoài Bắc, tiêu tốn bao nhiêu tiền... Hỏi ông Thứ trưởng: Trường dân lập sở hữu là của ai? Ông trả lời thật là thanh thoát: Sở hữu thuộc về cộng đồng - không rơ “cộng đồng” là ai? Mười lăm năm rồi, trong đầu óc lănh đạo ngành giáo dục “dân lập” thực chất là “tư thục” c̣n chưa dứt khoát.

Ở Hải pḥng, thành phố loại I, có trường Đại học dân lập loại lớn của cả nước, ba năm trời, đấu đá giữa Hiệu trưởng và Hội đồng quản trị xem ai là chủ. Hết đoàn nọ, đến đoàn kia về thanh tra, kiểm tra, vẫn chưa phân định thắng thua.

Giải phóng mặt bằng, trả tiền đất cho nông dân theo giá thấp, nông dân không thể mua đất theo giá đầu cơ, tranh chấp kéo dài, kế hoạch xây dựng cơ bản chậm hàng mấy năm...

Hướng giải quyết đất đai th́ đi vào ngơ cụt: bối rối, làm đi, làm lại, sai rồi sửa. Luật nặng về phục vụ cho thị trường bất động sản, cho việc di dời, giải tỏa, chưa hé mở được con đường tiến lên của đất đai, nhằm phục vụ cho phát triển.

 

C. Mác nói thật đúng “ở đâu, sở hữu không được xác lập th́ ở đó sinh ra hỗn loạn”

b) Nông nghiệp và nông thôn.

Ở nơi đất rộng người thưa th́ có di dân tự do, phá rừng bừa băi, cán bộ gian tham “xẻ thịt đất đai”, chia chác lập “trang trại”, kinh doanh sản xuất th́ kém, hoang hóa th́ nhiều, cốt là để giữ đất... Các nông trường quốc doanh làm ăn kém, giao đất cho nông trường viên và thu sản phẩm, thực chất là địa tô. Sẽ có làm nhà, sinh con đẻ cái, tách hộ. Đất đai xa mạc hóa, kinh tế trở thành tiểu nông, các làng xóm ra đời... kinh tế nhỏ lẻ, năng suất thấp, không ổn định, công nghệ sau thu hoạch yếu kém, sau 20, 30 năm giá trị xuất khẩu thấp, thu nhập b́nh quân/ha thấp so với các nước xung quanh. Thị trường ngoài nước mà coi Trung quốc là chính th́ thật là bấp bênh. Lưu thông qua thay thương lái th́ mất tiền và không ổn định. Có được vài mặt hàng độc đáo nhưng không t́m được thị trường: mận, vải, hoa quả ở miền Nam.

Mục tiêu, từ các miền đất rộng và ph́ nhiêu được khai thác xuất khẩu để làm giàu đất nước, có thể nói là chưa làm được bao nhiêu.

Ở nơi đất chật, người đông, đă có điện, cơ giới nhỏ, có giống lúa năng xuất cao, nạn đói không c̣n, lao động bớt cực nhọc. Ruộng đất manh mún, một mẫu bắc bộ có đến 4,5 mảnh, đường ruộng chi chít, đất đai suy thoái v́ quá nhiều phân đạm và thuốc trừ sâu, môi trường ô nhiễm, tôm cá cạn kiệt... Sản xuất lúa th́ trả tiền phân, thuốc trừ sâu, công cày, bừa, tuốt lúa cho cơ giới nhỏ, số lăi c̣n lại rất nhỏ. Thời gian nông nhàn c̣n nhiều, thanh niên không có việc làm... Có thể chăn nuôi, trồng trọt thêm nhưng sản phẩm khối lượng nhỏ bé, không tạo được thị trường, thành bó tay.

Các chính sách đối với nông thôn, nông dân, nông nghiệp như xóa đói giảm nghèo th́ bấp bênh: có thiên tai, có bệnh tật là  một phút thành quả tiêu tan; các chính sách xă hội, y tế, giáo dục khác nói th́ to, có bài bản nhưng tiền th́ quá “hẻo”, bộ máy lại thiếu nhiệt tâm nên hiệu quả thực tế nặng về tuyên truyền cổ động, để các tổ chức quốc tế có điều kiện “bốc thơm” chúng ta.

Báo chí nói rất nhiều cựu chiến binh, người tàn tật làm trang trại, nhưng xét nó là thành quả của một con người cụ thể,  của một môi trường cụ thể, tính phổ cập không rơ ràng, nông dân coi đó là bài học đạo lư hơn là một việc ḿnh cần làm và có thể làm. Ở nơi có xây dựng cơ bản, có thu hồi đất đai, có giải phóng mặt bằng, nạn tham nhũng và đầu cơ làm cho mâu thuẫn giữa nhà nước và nông dân nóng bỏng. Hiện nay cấp xă chỉ làm việc quản lư hành chính, việc quy hoạch, chương tŕnh, kế hoạch hướng dẫn sản xuất coi như bỏ ngỏ. Người nông dân cá thể không tiền vốn, không có tŕnh độ, loay hoay, bế tắc, không biết làm ǵ.

Loại việc mà người ta gọi là “mục tiêu thiên niên kỷ” theo tôi là khó thực hiện: Đói nghèo là ở nông thôn, sinh đẻ không kế hoạch là ở nông thôn; sản xuất lệ thuộc thiên nhiên, nhiều nơi công cụ vẫn thô sơ, hàng chục năm giá trị không tăng; chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn, cũng chính là giữa thành thị và nông thôn; các tệ nạn xă hội, nhũng bức bối ở thành thị: mại dâm, trộm cắp, ma túy... một phần lớn từ nông thôn mà ra. Thiên tại: băo lụt, hạn hán, lũ quét, vỡ đê là việc xảy ra ở nông thôn.

Nông thôn, nông nghiệp vẫn là nền tảng cuộc sống  của đất nước ta. Dân số trong nông thôn chiếm hơn 70%. Thế mà mặt này lại thành một góc khuất. Tôi vô cùng băn khoăn v́ chưa t́m được một thông tin nào về một quốc gia 70% nhân dân là nông dân, với đơn vị  sản xuất là hộ nông dân, đất đai manh mún, kỹ thuật lạc hậu mà có thể tạo được một xă hội dân giàu, nước mạnh, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, văn minh, dân chủ...

c) Cải tạo nông thôn, nông nghiệp, coi như một cuộc cách mạng, cần phải có suy nghĩ kỹ càng, một cuộc vận động sâu rộng, toàn diện, tóm lại một chính sách, một tư duy độc lập. Với công nghệ thông tin, cầu đường, điện, đóng tàu biển... ta có thể học một cách máy móc các nước tiên tiến. C̣n cải tạo nông thôn có lẽ chỉ riêng có ở ta - ở các nước tiền tiến việc này xảy ra trước 200, 300 năm - thời các cụ của các chuyên gia đang làm việc ở Việt nam lúc này.

V́ lẽ đó, tôi không dám nói nhiều. Với suy nghĩ nông cạn của tôi, chỉ xin đề xuất 2 việc:

            1.Phải công nhận quyền sở hữu cá nhân về ruộng đất cho nông dân, một cách trọn vẹn.

Làm như vậy sẽ thúc đẩy người nông dân có ư thức, có quyền tự do định đoạt tài sản của ḿnh. Họ có thể đổi ruộng cho nhau để sản xuất thuận lợi; có thể bán, mua theo lợi ích riêng...; họ có thể chung gom để sản xuất lớn, theo lối công ty; người có vốn, có kỹ thuật có thể tự ḿnh mua bán đất, thuê đất để sản xuất quy mô lớn. Quyền sở hữu trọn vẹn đất đai sẽ mở ra một con đường mới, sản xuất lớn, mở rộng cánh cửa để công nghiệp hóa, hiện đại hóa...

Ta hăy quên đi khẩu hiệu “người cày có ruộng” mà thay bằng “người công nhân nông nghiệp có máy móc”.

1.      Phải ra sức thu hẹp sản xuất nhỏ lẻ bằng cách mở mang dịch vụ mọi mặt phục vụ nông nghiệp: cơ khí, vận tải, phân bón, thủy lợi, điện... Trên tất cả các việc là t́m ra nguồn tiêu thụ sản phẩm, khâu ngoại thương sẽ giữ vai tṛ chủ yếu.

Cho phép người nước ngoài vào kinh doanh nông nghiệp. Đó là người thầy rất tốt cho chúng ta để mở rộng quy mô sản xuất.

Dần dần, người trực tiếp lao động trên đồng ruộng, trang trại chăn nuôi, càng ngày càng ít đi, tỷ lệ nông dân trong dân số do đó cũng ngày càng thấp đi.

d) Nghĩ về nông thôn, nông dân, có người bực tức cho rằng Đảng và Nhà nước coi nhẹ nông thôn; họ c̣n cảnh báơ mọi biến động sẽ bắt nguồn từ nông thôn. Có người bực tức kêu lên: “Suốt ngày đón rước, lễ bái, hội họp, không c̣n thời gian để học triết học”. Tôi nghĩ, nếu khoan dung, loại bỏ cái vỏ khiếm nhă của câu nói, mà chỉ xét đến cái lơi, th́ có lẽ câu này gợi mở cho chúng ta nhiều suy nghĩ.

 

Phần III

Lại bàn về đảng

 

A. Về đường lối chiến lược của Đảng, nhiều người t́m hiểu nhưng không hiểu. Ngay từ “xă hội chủ nghĩa” có nội hàm thế nào cũng chưa rơ. Cụm từ “kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa” lại càng khó hiểu hơn.

So sánh sự khác nhau, cũng là một cách định nghĩa. Nền kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa khác với mọi nền kinh tế khác ở điểm nào, có định hướng XHCN và không định hướng XHCN về cơ bản và về cụ thể, có những khác nhau ra sao, chưa bao giờ được đề cập.

Đi sâu vào các chính sách về từng mặt, từng ngành, t́m ra những điểm chung, t́m ra hệ thống, khái quát lên cũng có thể t́m ra hướng chủ đạo, con đường đi lên của đất nước do Đảng đề ra. Rất tiếc là các chính sách của ta, có cái có dạng bao cấp, có cái giống nước này, nước kia, có cả Âu và Á, có cái học phương Tây, có cái của phương Đông, nhiều cái ứng phó với t́nh h́nh, chắp vá, làm rồi sửa, nói rồi lại quên, có cái không hiểu v́ sao lại có, các văn bản về đường lối thường như là bài văn hơn là một cẩm nang của hành động, nó được nhắc đi nhắc lại, tháng năm này qua tháng năm khác, ở nơi này cũng như nơi kia.

Nhiều người nhận xét là Đảng ta đang khủng hoảng về ư thức hệ, nghĩ  cũng không có ǵ là quá đáng.

 

B. Thời thế đổi thay, đất nước lâm nguy, thường xuất hiện các cá nhân kiệt xuất

Họ có các tư chất đặc biệt: nh́n xa trộng rộng, nắm bắt thời cơ, bao giờ cũng nh́n được cái lơi của sự kiện, của t́nh h́nh, vạch ra được đường lối lâu dài và trước mắt... họ đoàn kết được mọi người, ứng phó hữu hiệu với thù trong, giặc ngoài, cân bằng giữa các thế lực bên ngoài để có độc lập tự chủ, lôi kéo được mọi người vào công việc chung, kể cả những người có bất đồng... họ từng trải gian nguy, vào sinh ra tử... họ có đời sống riêng tư làm cho mọi người khác ngưỡng mộ... Họ là các vị Thánh theo tâm thức á đông của dân ta. Họ được người dân suy tôn và công nhận là lănh tụ.

Nhiều người buồn phiền v́ thấy các vị lănh đạo đất nước hiện nay tầm vóc xa vời so với nhiệm vụ. Điều ấy cũng dễ hiểu: Các vị lănh đạo hiện nay xuất thân từ các viên chức thời b́nh, tiến dần lên theo thang bậc hành chính, trong khung cảnh một bộ máy nhà nước nhiều khuyết tật. Thời đại mới lại đ̣i hỏi thêm những tiêu chí mới đối với những người cầm đầu đất nước: V́ phải làm ăn, phải sử dụng đồng tiền nên cần có đầu óc của nhà tài phiệt như Bush, Beclucconi, Thatsin...; v́ phải công nghiệp hoá đất nước đ̣i hỏi phải có những người nh́n nhận được sự phát triển của khoa học, duyệt được các kế hoạch vĩ mô, như kiểu Clinton, Chirac, Lư Quang Diệu... và để giải quyết các vấn đề lớn của đất nước, cân bằng được lực lượng các nước lớn, ứng phó mọi thách thức như các chính khách Putin, Đặng Tiểu B́nh...

Các vị lănh đạo như của chúng ta, ở Indonesia họ gọi là “các viên chức lớn”, thiếu cả những điều kiện của các bậc đi trước, thiếu cả những điều kiện phù hợp với thời đại hiện nay.

Suy cho cùng, cũng không phải là thiếu sót của một ai. Đó là những vấn đề của lịch sử. Tháng 6/2005, ông Hữu Thọ trả lời phóng viên: “Trong lịch sử chúng ta, triều đại nào cũng thế, bao giờ Thái Tổ, Thái Tông cũng tuyệt vời, nhưng sau Tổ, Tông th́ con cháu bắt đầu hư hỏng, ăn ṃn vào cái vốn của ông, cha để lại”. Phải chăng, sau cách mạng và chiến tranh, ta đă ngủ quên qua lâu, cuộc sống mới đă làm ta quên dĩ văng, một dĩ văng rất gần. Lề lối làm việc; cách chọn và bồi dưỡng nhân tài, vai tṛ của người cầm đầu, trách nhiệm trước dân, cơ chế giám sát đều bất cập đă đưa đến t́nh trạng hiện nay...

Khao khát một người kiệt xuất, xung quanh là một bộ máy gồm những người tài giỏi, hiện đang nóng bỏng trong nhân dân.

Nói rằng, chúng ta  khủng hoảng về lănh tụ là rất đúng.

 

C. Khủng hoảng của quan hệ giữa Đảng và Dân đă xảy ra, không thể chối căi

Đảng và Dân khăng khít, hữu cơ như hai mặt của một đồng tiền.

Mối quan hệ này, nay đă thay một bộ áo mới, với con người mới, với các suy nghĩ mới. Trước đây, toàn dân chỉ một ư chí: không có ǵ quư hơn độc lập tự do. Toàn dân tŕnh độ văn hoá c̣n thấp, hiểu biết thế giới hạn chế... Mọi người đều sống đạm bạc như nhau, công việc tuy gian khổ, khó khăn nhưng giản đơn một phía... Các người cầm đầu, vào sinh ra tử, nói là làm. Lúc này hô hào và thực hiện “Đoàn kết... thành công” là đương nhiên v́ toàn dân một mục tiêu, một ư chí, một quyền lợi. Nay tất cả đă thay đổi, có khi là lật ngược... Ngay trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, kỷ luật sắt, ăn lương tháng, mà “trên bảo, dưới không nghe”, trong Đảng phải nêu ra 19 điều cấm kỵ, mà có người cho đó làm mất quyền công dân, là vi phạm điều lệ Đảng, vi phạm pháp luật. Làm sao có sự đoàn kết giữa người măi măi nghèo bên cạnh những người giàu lên rất nhanh mà không gọi lên được nguyên nhân. Làm sao, tôi đă đọc sách báo, tôi đă đi qua nước nọ, nước kia, đă quan sát họ, đă suy ngẫm về ḿnh, mà Đảng và Nhà nước cứ bắt tôi nghe và làm mà không được bàn soạn, lại bắt chỉ được bàn soạn để thực hiện, không được phản biện... Hơn thế nữa, ngay hôm nay vẫn hô hào khẩu hiệu: “Đoàn kết ... đại thành công”, không dám nh́n thẳng, hoặc thấy mà làm như không muốn thấy là đoàn kết giữa Đảng và Dân đang bị thương tổn nặng nề.

Đảng như Achille, bất khả chiến bại v́ bàn chân để trên Đất Mẹ đó là nhân dân. Trước đây, Đảng là như thế, nhưng nay Đảng  như một “Achille mới”, moi đất ở dưới chân ḿnh, mỗi ngày một tư, và càng ngày cái hàm ếch càng cao hơn, sâu hơn, rộng hơn... sự nguy hiểm đă gơ cửa.

 

D. Về việc chuẩn bị Đại hội X

1. Về nhân sự:

Tôi vẫn giữ nguyên tắc: Bầu ban Chấp hành mới là bầu những người để thực hiện Nghị quyết mới, đường lối mới, biện pháp mới... là v́ việc mà t́m người. Đường lối mới đang được các cấp bàn thảo, nó thế nào chưa được tổng hợp, phân tách... Thế th́ cái đầu c̣n chưa xuôi, ta đă quyết định cho lọt cái đuôi.

Các nguyên tắc chọn người theo bằng cấp, tuổi tác, thành phần giai cấp, dân tộc, nam, nữ, mới cũ... mà ta gọi là cơ cấu sao cho đủ mặt, sao cho đẹp, như là một thói quen khó sửa mà quên tiêu chí của người lănh đạo: đứng đầu toàn Đảng, đứng đầu toàn ngành, đứng đầu từng địa phương, từng lĩnh vực hoạt động của đất nước, có khả năng thực hiện nghị quyết mà toàn Đảng đề ra.

Cho đẹp nhưng thiếu hiệu quả, nên một vài người cầm đầu khuynh loát tất cả, những người đẹp mă chỉ có cách là vâng theo... tất yếu sẽ đi vào sai lầm và suy thoái.

Việc đầu tiên là t́m ra người đứng đầu. Coi như là lănh tụ. Cơ chế để thực hiện phải là sự góp ư của cơ sở, các ngành, các cấp, các nhân vật tiêu biểu của đất nước, phải có sự trao đổi rộng răi gần như là cuộc bầu bán... Những ứng viên phải được công bố rộng răi để lấy ư kiến đa số...

Cũng theo cách này, ta t́m những người ưu tú của các ngành hoạt động: chính trị, kinh tế, văn hoá, xă hội để tham gia Ban chấp hành. Nói một cách khác, việc chọn lựa là rộng răi, dân chủ, công khai.

Việc chọn lựa ban chấp hành mới, nếu suy nghĩ kỹ, có lẽ là một cuộc quyết chiến chiến lược để dành lấy sự tồn tại của Đảng, một sự bứt phá để đưa đất nước tiến lên.

Đảng ta tồn tại hay không tồn tại, chính là việc có chống được tham nhũng hay không. Tôi đă đọc báo thấy một nhà văn hoá mà tôi quên tên, ông đă tức bực khi thấy có một cuộc họp bàn về một vấn đề văn hoá dân tộc: “Bọn tham nhũng, làm sao có thể bàn về văn hoá dân tộc được”. Cho nên rất nhiều người muốn rằng, những người có thể tham gia ban chấp hành mới, những người là đại biểu đi dự Đại hội đều phải kê khai tài sản, công bố rộng răi, trước khi Đại hội họp một thời gian cần thiết và hơn thế nữa, là không có những nghi vấn tham nhũng.

2. Về đường lối:

Tôi đă đọc bản hướng dẫn thảo luận dự thảo nghị quyết ở cơ sở. Tôi thấy nó dàn trải quá, chung chung quá... không thể bảo là sai, không thể nói là đúng, cái có thể nói là nó tù mù, đọc xong không thể nắm được ǵ, không biết phải làm ǵ.

Cũng dịp này, tôi vô t́nh đọc được các bài viết của hai nhân vật trụ cột của việc làm dự thảo: ông Hồng Hà và ông Nguyễn Khoa Điềm.

Phóng viên hỏi: “Khái niệm về nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN h́nh như chưa rơ ràng”. Ông Hồng Hà trả lời: “Ta cứ làm rồi sáng tỏ dần, cứ đọc văn bản trên đưa xuống sẽ hiểu”, “đến Đại hội X thể nào cũng rơ...”. Thật là tù mù, một vấn đề đặt ra hơn 20 năm mà nay c̣n chưa nói được rơ!

Ông Nguyễn Khoa Điềm tổng kết hội thảo “Văn hoá Đảng...” bằng những lời tốt đẹp vô bờ bến, nhưng văn hoá Đảng là ǵ, có tiêu chí thế nào, nó giải quyết các mối quan hệ theo nguyên tắc ǵ, nó là văn hoá dân tộc nhưng nó có đặc thù ra sao... v.v... Chỉ có ca ngợi, cũng là một dạng của tù mù.

Tôi lo lắng là dự thảo đường lối cũng cùng một dạng nói trên. Tôi đă đọc một tài liệu về cuộc đảo chính của Pinôchiê ở Chilê; người ta nhận xét Đảng Cộng sản của Agienđê mắc một sai lầm là các bài viết và nói đều dùng một văn phong mà người dân thấy xa lạ. Cách viết đă làm giảm uy tín của Đảng.

Nhiều người mong mỏi Đề cương chỉ nêu lên vài vấn đề then chốt, có các điểm đột phá: làm một việc mà dọn dẹp được nhiều việc khác, làm một việc mà tạo ra thành công ở nhiều việc, đó là mong mỏi của toàn Đảng, toàn dân. Toàn đảng, toàn dân sẽ nức ḷng thực hiện theo tiếng gọi của Đảng. Đấy là thành công, đấy là sự tồn tại của Đảng trong vinh quang. Đề cương phải được góp ư kiến rộng răi một cách thực sự.

Chúng ta lúng túng về nội dung hay lúng túng về việc thể hiện, hay là chúng ta lúng túng về cả hai, cái nọ lại làm cho cái kia bế tắc. Giai đoạn đầu chúng ta tung ra nội dung để thảo luận, giai đoạn hai chúng ta thu về để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Nếu chúng ta không có được điểm ǵ mới, không có được điểm đột phá, th́ chúng ta sẽ không thể chối căi là chúng ta đă không thành công, chúng ta đă gây lăng phí sức người, sức của. Thủ phạm không ai khác là cái bệnh tù mù, mọi người sẽ công nhận lời nói của một số người: “Đại hội, cái chính chỉ là nhân sự”.

E. Đảng ta như một kỵ sĩ mệt mỏi, bộ máy Đảng và Nhà nước như con ngựa bất kham, què quặt, trong tay kỵ sĩ có bản vẽ chỉ đường, nhưng xem măi cũng thấy như không phù hợp với thực địa, trời đă về chiều, làm sao tới đích được trước khi trời tối.

 

Phần IV

Nghĩ về việc đổi mới chính trị

 

1. Trên những nét lớn, sự suy thoái của Đảng đă biểu hiện rơ rệt: đường lối chung chung không rơ ràng, với những khẩu hiệu khó hiểu... Trong những người lănh đạo chủ chốt không có ai được dân tín nhiệm đến mức suy tôn là lănh tụ. Các chính sách lớn: giáo dục, tổ chức, nhân sự, đất đai, xây dựng Đảng, trên một mặt nào đó cả về ngoại giao, th́ nói rồi không làm hoặc nửa chừng bỏ dở và mấy mặt lớn ấy cứ lúng túng kéo dài, không lối thoát. Nạn tham nhũng tràn lan, phá phách nội bộ Đảng, quan hệ đảng và dân...

Bao trùm lên các mặt suy thoái này, nhiều người nghĩ đến việc Đảng đă che dấu. Nhiều người cho rằng Đảng ta coi như bó tay trước nhiều đ̣i hỏi của dân, của thời kỳ mới, của sự phát triển.

 

2. Nhiều người suy nghĩ về thể chế chính trị mà Đảng muốn thực thi.

Muốn duy tŕ sự lănh đạo khi đă suy thoái, thường phải phát xít hoá.  Nhưng nếu muốn cũng không làm được: dân ta nay đă hiểu biết nhiều; từ thôn xóm đến trung ương. không thiếu những người vào sinh ra tử, thành thạo đấu tranh chính trị, đầu óc luôn: tự do hay là chết, liệu có thể dập tắt được ngọn lửa thần này không? Ta có những tổ chức như: chống bạo loạn, đ̣i nọ, đ̣i kia... Các tổ chức này đă có lúc ra quân nhưng xem quá nhún nhường trước đàn bà, trẻ em, người già... Ta thiếu hẳn một đội quân phát xít, sẵn sàng bắn vào đám đông, vào bà con họ hàng của ḿnh và coi đó là một hành vi yêu nước. Nước ta nhiều nước biết đến, xảy ra biến động họ sẽ lên tiếng, các nước lớn dễ dàng thâm nhập để chi phối nền chính trị, kinh tế của ta...

Muốn chia sẻ thực quyền, mở rộng dân chủ, đa nguyên, đa đảng th́ đảng viên không chấp nhận v́ sợ mất quyền, mất lợi lộc. Nhiều người chưa hiểu đa đảng là như thế nào nên có hiềm nghi! Nhiều người chưa hiểu thực trạng Đảng ta và vẫn nghĩ là ta vẫn mạnh, ta như người có bệnh nhưng vẫn ăn ngủ được nên không lo lắng. Có những người im lặng và chờ đợi, và phương châm là “thiên hạ thế nào, ta thế nấy...”.

Muốn gắng gượng duy tŕ thực trạng, cố gắng tự thân vận động để tiến lên. Xem ra sự gắng gượng rất mệt nhọc và tương lai mờ mịt v́ nhiều mặt cứ xuống, những khó khăn vẫn chất chồng. Cái khó lớn nhất là sức thuyết phục, sức mạnh quyền uy không c̣n trong nội bộ và giữa Đảng và dân. Chờ đợi, tôi không hiểu chờ đợi cái ǵ và làm sao sự chờ đợi không uổng công, trong khi chờ đợi th́ làm ǵ để tiến lên, dựa vào con người nào, ai chèo lái...

Trong ba h́nh thức, Đảng đang duy tŕ h́nh thức kéo dài và chờ đợi. Tôi tin không có phép mầu nào cả. Càng kéo dài càng bế tắc. Đó chỉ là vấn đề thời gian, sự đổi thay như đă được báo trước.

3. Hàng ngày, dù không muốn, ta cũng tiến dần đến đa nguyên, đa đảng

Ta luôn có luật mới, có việc thay đổi luật, quy chế, thể lệ, phương pháp... với các lư do không úp mở: để phù hợp với thông lệ quốc tế; để hoà nhập, theo chuẩn mực quốc tế; thể theo công ước này, thoả thuận kia; theo sự khuyến cáo của tổ chức này, hiệp hội nọ. Tất cả những lời hay ư đẹp này là của những nước tư bản, đa nguyên đa đảng. Từ những điểm thấp nhất đến những vấn đề cao nhất, ta tiếp thu của họ, mặc nhiên ta chấp nhận chế độ chính trị của họ rồi c̣n ǵ. Gần đây rộ lên nguyên tắc: công khai, minh bạch mà ta rất thích thú. Công khai, minh bạch là phải có đối tác, có giám sát lẫn nhau... đây chả là nguyên tắc cơ bản của đa nguyên đa đảng là ǵ. Ta như cô gái quê, “mỗi lần ra tỉnh về, hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”. Một lần, lại lần nữa ra tỉnh, mỗi lần là mỗi thay đổi, cuối cùng có thể bay hết... Oái oăm thay, cô vẫn nhận ḿnh là “chân quê”. Ta hoà nhập, ta không hoà tan, nhưng cái mới, cái tiến bộ có sức lôi kéo đến kỳ lạ. Gần 100% nhân loại theo cái gọi là đa nguyên đa đảng, số c̣n lại khoác cái áo cộng sản nhưng trong ḷng th́ ở phía bên kia. Hơn thế nữa, cái đa số lại có sức mạnh kinh tế vô biên đến mức ta rời họ ra, chắc sống sẽ khó khăn, hay là không sống nổi. Kỳ lạ hơn nữa là bao nhiêu năm qua, chúng ta chỉ được nói mặt đẹp của chủ nghĩa cộng sản, mặt xấu của chủ nghĩa tư bản, nói ngược lại là đă coi như phạm tội. Ta vẫn không thoát khỏi cái định kiến của ông, cha: họ ta đều người tốt, làng ta hay hơn các làng khác, cái ǵ của ta cũng tốt hơn của người. Nguy hiểm hơn là các nước tư bản luôn có sức ép ta theo họ, mà ta không cưỡng lại được.

Thay đổi về kinh tế tất yếu đưa đến thay đổi về chính trị. Đa nguyên, đa dảng, tôi thấy nó cứ đến dần, ngoài ư muốn của chúng ta.

4. Tôi chấp nhận đa nguyên, đa đảng, cũng mong mỏi Đảng ta chấp nhận đa nguyên, đa đảng, với nhiều lư do:

Trước đây ta đă nói đến 3 ḍng thác, các ḍng thác này lúc ấy như sóng thần có thể lôi kéo toàn thể nhân loại vào trong ḷng nó. Gần một thế kỷ qua, nó tỏ ra không phải là như thế. Ngày nay, chủ nghĩa tư bản, nó không dẫy chết và nó vùng lên như áp đảo tất cả. Ta không thể tránh khỏi ḍng thác này, trong khi đối nội ta nhiều bất cập quá, mà cái nguyên nhân là do ta khư khư giữ cái gọi là chủ nghĩa xă hội, dù có thêm cái đuôi kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN... cái khẩu hiệu tù mù này cũng làm rơ sự suy yếu của ta. Ta cố tránh cái mà ta không thể tránh khỏi, đó là điểm thứ nhất.

Thứ hai, xét cho cùng đa nguyên đa đảng, trong thực tế có những ưu điểm có thể nâng cao kinh tế, văn hoá, đạo đức của nhân dân ta.

Phản biện sinh ra chân lư. Ở chế độ họ, bao nhiêu cuộc tranh căi đông người, ít người, việc lớn, việc nhỏ, trưng cầu dân ư, bỏ phiếu để đi đến một kết luận. Có chân lư mới có thành công.

Về con người, họ chọn lựa rộng răi từ toàn quốc đến địa phương. Họ chọn người v́ mục đích công việc của sự phát triển. Làm được việc, họ có cơ chế giữ, làm không được việc họ có cơ chế loại trừ. Mà dù có thành công cũng chỉ làm việc có thời hạn v́ xă hội luôn luôn phát triển, con người luôn lạc hậu với t́nh h́nh. Thế là họ có nhân tài, không thể tham quyền cố vị, luôn luôn mới và tiến bộ.

Họ coi trọng khoa học kỹ thuật, coi đây là động lực của sự phát triển, biện pháp nâng cao đời sống... Họ chế diễu chúng ta theo một chế độ mà đầu óc th́ rỗng tuếch, dạ dày th́ lép kẹp.

Họ coi trọng luật pháp, họ giữ ǵn luật pháp để tránh t́nh trạng có luật nhưng không được thực thi. Luôn luôn hết nước này đến nước kia có việc Tổng thống, Thủ tướng phải điều trần trước Quốc hội, bị luận tội, bị phế truất... bị phạt tù. Luật pháp của họ chi tiết cả vào các mặt lặt vặt của cuộc sống.

Bao trùm lên tất cả là họ có cơ chế dân chủ, h́nh thức để dân nói lên ư nguyện, để dân quyết định các vấn đề lớn: từ tự do hội họp, tự do phát biểu, đến tự do báo chí, tự do lập Đảng, đến trưng cầu dân ư, đến bầu cử tự do... tóm lại một nền tự do thực sự, phát động được nhân dân là yếu tố đi đến thành công.

Tôi đă nghĩ nhiều về mặt trái nền dân chủ của họ: cũng có lừa bịp, có tham nhũng, có gian lận bầu cử, mua phiếu... thậm chí đến ám sát chính trị, biểu t́nh, xô xát vũ trang... người ta kêu nước Pháp luôn biểu t́nh, đ́nh công, không sống nổi... “Con người vừa là thần thánh, vừa là súc vật”, “cái huân chương cũng có mặt trái” mà!

Cái tôi mong mỏi, cái tôi đề nghị là thể chế đa nguyên đa đảng đích thực. Nếu các đảng phái gồm toàn những người trí tuệ lùn tịt, đầy “xôi thịt”, thậm chí đến rước voi về dầy mồ th́ độc đảng như Singapore thời ông Lư Quang Diệu c̣n hơn. Suy cho cùng, độc đảng sẽ đưa đến độc quyền, mọi độc quyền đều đưa đến tha hoá, đó là căn bệnh măn tính, là bệnh hiểm nghèo với vẻ bề ngoài như ổn định, yên b́nh nhưng cái chết được báo trước, c̣n đa đảng là bệnh thời tiết, dù nó đau đớn, rên xiết, nhưng con người vẫn tồn tại dù có lúc khoẻ lúc yếu. Xin đề nghị bỏ nội dung của dự thảo: cấm đa nguyên, đa đảng. Tôi cho là quá hài hước: người Việt Nam đa đảng th́ vào tù, người nước ngoài đa đảng lại được rênh rang cờ biển đón tiếp.

5. Tôi nghĩ rằng Đảng cộng sản phải tồn tại. Điều kiện là phải thay máu, thậm chí ghép tạng để có cuộc sống mạnh khoẻ và lâu dài.

Lịch sử cận đại của Việt Nam không thể không tôn vinh Đảng cộng sản. Đảng Cộng sản có một lịch sử oai hùng... Không phải là Đảng làm nên lịch sử mà là nhân dân làm nên lịch sử, nhưng dẫn dắt là Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản hiện có nhiều người ưu tú, v́ lẽ này, lẽ nọ, vai tṛ của họ không nổi trội. Với một hoàn cảnh mới, họ có thể là trụ cột. Dù bộ máy Đảng và Nhà nước c̣n non trẻ có nhiều khuyết tật, những người cộng sản có tấm ḷng đang suy nghĩ sẽ tự thay đổi, cải tiến và với kinh nghiệm của ḿnh có thể làm cho bộ máy hữu hiệu. Hơn nữa, giữ nguyên bộ máy nhà nước, ta sẽ b́nh tĩnh, im lặng chấn chỉnh Đảng, chấn chỉnh bộ máy nhà nước, đi đến đích mà không gây hỗn loạn, bê bối...

Đảng Cộng sản phải thay đổi tận gốc. Không phải là chọn tên ǵ, thờ cái khẩu hiệu nào... Trước tiên là về mặt đường lối, cái ǵ ta đang nói, xét là đúng, th́ cần chọn lọc một vài điểm chốt, nói cho dễ hiểu, dễ làm... mà ta gọi là chính cương. Cái nối tiếp, lợi dụng hoàn cảnh có một không hai này Đảng loại trừ hết các phần tử cơ hội, xấu, vi phạm điều lệ, vi phạm luật... bằng cách êm ả là giới thiệu tiêu chuẩn để mọi đảng viên tự xin gia nhập đảng lại. Có thời gian để họ suy nghĩ và ta xét kết nạp lại từ từ. Tin rằng đảng viên xấu sẽ tự giác rời khỏi Đảng.

Các ban chấp hành lâm thời ở Trung ương và từng tỉnh, huyện ra đời ta củng cố từ trên xuống. Một số cán bộ chủ chốt của Đảng hiện nay, một số người mới, với một nhận xét và quan điểm gần nhau đứng ra lập Đảng mới, song song tồn tại với Đảng hiện hữu.

Các đảng mới và đảng hiện nay kết nạp thêm đảng viên mới. Ban chấp hành lâm thời Trung ương củng cố ban chấp hành tỉnh và từ đó mà h́nh thành tổ chức Đảng từ trên xuống dưới.

Và như thế là h́nh thành Đảng cầm quyền, đảng đối lập.

Thể chế th́ cả thế giới họ đă có từ lâu. Ta xem xét và học tập họ. Việc chuyển đổi chính trị là một quá tŕnh.

6. Việc thiết lập thể chế đa đảng, là việc làm không thể dừng được. Ta hiện nay suy thoái nặng nề không lối thoát, c̣n có con đường nào khác đâu. Cả thế giới một đường, một ḿnh ta một hướng th́ thật là quá lạ, mà cái hướng của ta lại mù mờ, ngay trong nội bộ cũng không thông suốt.

Thiết lập thể chế đa dảng là việc làm sáng suốt, một lựa chọn đúng đắn.

Tôi nghĩ không hề có tự ti, mặc cảm v́ lư luận về đa nguyên là trí tuệ của nhân loại, là thành quả sự phát triển của loài người. Ta học là học bài học của nhân loại, không phải là theo Mỹ, theo Pháp.

7. Chỉ cần Đảng ta chấp nhận đa đảng, ban bố các đạo luật cần thiết. Mọi việc lúc đầu có khó khăn, sau quen dần. Hơn nữa thể chế đa đảng đă được không biết bao nhiêu nước, từ mấy trăm năm nay đă làm. Bài học không thiếu.

Qua một thời gian, các cuộc bầu cử dân chủ và công bằng trong Đảng và ngoài nhân dân sẽ xác định Đảng nào nắm quyền, ai là người đứng đầu đất nước.

Thể chế kinh tế đă thay đổi. Thể chế chính trị thay đổi tiếp. Một vận hội mới cho đất nước được mở rộng, đất nước sẽ đạt được mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ và văn minh./.                        

*

Tôi không có ư định xấu đả kích cá nhân. Việc nói về hai ông Hồng Hà và Nguyễn Khoa Điềm chỉ là dẫn chứng để chứng minh nhận xét của tôi. Tôi rất lo lắng về hai ông. Từ hai ông, ta có thể có cương lĩnh không được rơ ràng. Tôi gửi kèm hai tài liệu mới nhất về hai ông để làm tài liệu đối chứng.

                                                                                       Tháng 9/2005.

                                                                                      Trần Lâm

 

__________________________________________________________________

 

Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

--------------------------

Hải Pḥng, ngày 12 tháng 10 năm 2005.

Kính gửi:  Đại hội Đảng X,

Ban chấp hành Trung ương khoá IX

Tôi là Trần Lâm, 80 tuổi, hiện là luật sư Đoàn luật sư Hải Pḥng, vào Đảng 14-7-1947, trú tại 14/97 Mê Linh, Hải Pḥng, ĐT: 031.630.304.

Dựa theo Điều lệ Đảng, với ư thức trách nhiệm trí óc Đại hội, tôi xin kính gửi những ư kiến đóng góp, mong Đại hội và những vị có trách nhiệm xem xét.

Dựa theo những thông tin mà tôi nhận được th́ hiện nay, trong Đảng, trong giới trí thức, trong các cán bộ lăo thành, có nhiều ư kiến khác nhau, khác với kết luận của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 12, trên những vấn đề quan trọng nhất, có quan hệ đến sự tiến lên hoặc thụt lùi của đất nước, dẫn đến sự tồn vong của Đảng.

Dư luận cho rằng cứ giữ nguyên những kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ 12, th́ chắc chắn đất nước sẽ ngày càng tụt hậu xa hơn, uy tín của Đảng sẽ c̣n giảm sút nhanh hơn.

Tôi đề nghị Ban chấp hành Trung ương hăy v́ lợi ích của dân tộc, v́ sinh mệnh của Đảng, cần tổ chức thảo luận rộng răi, không chỉ trong nội bộ Đảng mà ra cả ngoài quần chúng: trong giới trí thức, cán bộ lăo thành, cựu chiến binh, các doanh nhân, trong tầng lớp thanh niên... Lẽ dĩ nhiên, cũng cấn nhấn mạnh ư thức xây dựng và tinh thần cởi mở, dẹp mọi lo ngại mới mong cuộc trưng cầu có được sự đóng góp chân thành và bổ ích.

Xin các đồng chí nhận ở tôi lời chào chân thành và mong mỏi ư kiến của tôi được các đồng chí dành thời giờ xem xét dủ chỉ là xem xét sơ lược.

                                                                             Kính

                                                                          Trần Lâm

Theo thông lệ, thay cho thông tin về nhân thân, tôi xin gửi phiếu cá nhân do cơ quan cấp cho tôi trước khi về hưu để tiện việc theo rơi.

 

 

Mục Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển điện tử:

            www.dcpt.org     hay    www.dcvapt.net

 

   

 

 

 

 

 

Xin vui ḷng liên lạc với  butvang@yahoo.com  về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương
Copyright © 2004 Anh Duong Online
Last modified: 08/10/06