ĐẠI HỘI 10 ĐI VỀ ĐÂU ?
TIẾNG NÓI CỦA “ĐA SỐ ĐẢNG VIÊN THẦM LẶNG” !
ÂU DƯƠNG THỆ
“Đảng ta như một kỵ sĩ mệt mỏi, bộ máy Đảng và
Nhà nước như con ngựa bất kham, què quặt, trong tay kỵ sĩ có bản
vẽ chỉ đường, nhưng xem măi cũng thấy như không phù hợp với thực
địa, trời đă về chiều, làm sao tới đích được trước khi trời
tối.”
Trên đây là nhận xét về t́nh thế ngặt nghèo của
chế độ toàn trị và khả năng của những ngừơi cầm đầu hiện nay của
cụ Trần Lâm, 80 năm tuổi đời và 59 năm tuổi Đảng.
Với nhận xét này và nhiều góp ư rất thiết thực khác, cụ Trần
Lâm, nguyên Thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao, vừa mới gởi thư
17 trang cho Ban chất hành Trung ương ĐCSVN để đóng góp cho việc
chuẩn bị Đại hội 10 của ĐCSVN vào đầu năm tới.
Bằng ḷng thành thực của một đảng viên c̣n giữ
đựơc tấm ḷng, tính tự trọng và khả năng nhận thức sắc bén cụ
Lâm đă thấy rơ sự bế tắc của chế độ bắt nguồn từ sự thất bại của
chủ nghĩa Mác-Lênin và sự bất tài vô đức của nhóm lănh đạo hiện
nay:
“Nhiều người nhận xét là Đảng ta đang khủng hoảng
về ư thức hệ, nghĩ cũng không có ǵ là quá đáng.”
Và “Nói rằng, chúng ta
khủng hoảng về lănh tụ là rất đúng.”
Về sự thất bại của chủ nghĩa XHCN cụ
Lâm tâm sự một cách bộc bạch:
“Trước đây ta đă nói đến 3 ḍng thác,
các ḍng thác này lúc ấy như sóng thần có thể lôi kéo toàn thể
nhân loại vào trong ḷng nó. Gần một thế kỷ qua, nó tỏ ra không
phải là như thế.”
Về khủng hoảng nhân cách và trí tuệ
của lănh đạo cụ Lâm đă dẫn chứng rất rơ:
“Ông Đỗ Mười, cầm một món tiền lớn của nước
ngoài, ai cũng biết, thế nhưng ông vẫn hiện diện ở vị trí người
đại diện cao nhất của Đảng ta, nước ta, kể cả ở những ngày lễ
lớn nhất, không ít người tỏ ra bức xúc và lo ngại, nghĩ rằng
Đảng và Nhà nước không biết có thực ḷng chống tham nhũng
không?”
Từ ư thức hệ và nhân sự như thế, cụ Trần Lâm làm
một cuộc so sánh đối chiếu với các tệ trạng xă hội và thói hư
tật xấu của những ngừơi có quyền lực. Rơ ràng nhất là tệ trạng
tham nhũng và lộng quyền, làm sao có luật pháp nào có thể trừng
trị được. Với kinh nghiệm của một Thẩm phán của chế độ toàn trị,
cụ Lâm đă nói thẳng:
“Lấy bộ
máy hiện hành để chống tham nhũng khác nào bắt kẻ “chân ḿnh th́
lấm bét bê, lại mang bó đuốc mà rê chân người”, làm sao thành
công được!”
Vậy th́, liệu có thể chờ đợi nhóm
lănh đạo hiện nay thay đổi thực sự hay không? Cụ Lâm nêu ra tâm
trạng hoài nghi của đa số đảng viên:
“Nhiều người
buồn phiền v́ thấy các vị lănh đạo đất nước hiện nay tầm vóc xa
vời so với nhiệm vụ. Điều ấy cũng dễ hiểu: Các vị lănh đạo hiện
nay xuất thân từ các viên chức thời b́nh, tiến dần lên theo
thang bậc hành chính, trong khung cảnh một bộ máy nhà nước nhiều
khuyết tật.”
Do đâu mà
đưa tới những tệ trạng xă hội bất trị như hiện nay? Cụ Trần Lâm
đă khẳng định:
“Suy cho
cùng, độc đảng sẽ đưa đến độc quyền, mọi độc quyền đều đưa đến
tha hoá, đó là căn bệnh măn tính, là bệnh hiểm nghèo với vẻ bề
ngoài như ổn định, yên b́nh nhưng cái chết được báo trước..”
Sang phần góp ư trực tiếp với BCHTU
về các dự thảo văn kiện chuẩn bị cho ĐH 10, nguyên Thẩm phán Ṭa
án Nhân dân Tối cao đă nhận xét về sự “tù mù” của nó:
“Về đường lối chiến lược của Đảng, nhiều người
t́m hiểu nhưng không hiểu. Ngay từ “xă hội chủ nghĩa” có nội hàm
thế nào cũng chưa rơ. Cụm từ “kinh tế thị trường theo định hướng
xă hội chủ nghĩa” lại càng khó hiểu hơn.”
V́ sự tù mù này ở ngay trong Trung ương, cho nên
đă dẫn tới “tù mù” trong cách giải thích để thảo luận ở các địa
phương:
“Tôi đă đọc bản hướng dẫn thảo luận dự thảo nghị
quyết ở cơ sở. Tôi thấy nó dàn trải quá,
chung chung quá... không thể bảo là sai, không thể nói là đúng,
cái có thể nói là nó tù mù, đọc xong không thể nắm được ǵ,
không biết phải làm ǵ.”
V́ thế, sau khi đọc toàn bộ các dự thảo văn kiện
ĐH 10 cụ Trần Lâm đă chẩn bệnh ra ư định của những người cầm đầu
chế độ và Cụ bộc lộ tâm trạng vô cùng thất vọng:
“Muốn gắng gượng duy tŕ thực trạng, cố gắng tự
thân vận động để tiến lên. Xem ra sự gắng gượng rất mệt nhọc và
tương lai mờ mịt v́ nhiều mặt cứ xuống, những khó khăn vẫn chất
chồng. Cái khó lớn nhất là sức thuyết phục, sức mạnh quyền uy
không c̣n trong nội bộ và giữa Đảng và dân. Chờ đợi, tôi không
hiểu chờ đợi cái ǵ và làm sao sự chờ đợi
không uổng công, trong khi chờ đợi th́ làm ǵ để
tiến lên, dựa vào con người nào, ai chèo lái...
Trong ba h́nh thức, Đảng đang duy tŕ h́nh thức
kéo dài và chờ đợi. Tôi tin không có phép mầu nào cả. Càng kéo
dài càng bế tắc. Đó chỉ là vấn đề thời gian, sự đổi thay như đă
được báo trước.”
Vậy th́ sự đổi thay sẽ diễn ra theo hướng nào?
Ngừơi đảng viên 59 tuổi đảng đă trả lời rất rơ:
“Đa nguyên, đa dảng, tôi thấy nó cứ đến dần,
ngoài ư muốn của chúng ta.”
Tại sao? Ngừơi 80 tuổi từng trải cuộc đời đă biện
bạch:
“Việc thiết lập thể chế đa đảng, là việc làm
không thể dừng được. Ta hiện nay suy thoái nặng nề không lối
thoát, c̣n có con đường nào khác đâu. Cả thế giới một đường, một
ḿnh ta một hướng th́ thật là quá lạ, mà cái hướng của ta lại mù
mờ, ngay trong nội bộ cũng không thông suốt.
Thiết lập thể chế đa dảng là việc làm sáng suốt,
một lựa chọn đúng đắn.
Tôi nghĩ không hề có tự ti, mặc cảm v́ lư luận về
đa nguyên là trí tuệ của nhân loại, là thành quả sự phát triển
của loài người. Ta học là học bài học của nhân loại, không phải
là theo Mỹ, theo Pháp.”
Có lẽ nhận xét, tâm trạng và mong ước của cụ Trần
Lâm về chế độ, về lănh đạo và về tương lai đất nước cũng là của
“đa số đảng viên thầm lặng” trong ĐCSVN. Nếu họ
được phép tự do tŕnh bày tư tưởng trong các đại hội đảng bộ ở
cơ sở và Đại hội 10 sắp tới th́ họ cũng nhận xét và yêu cầu như
cụ Trần Lâm!♣
* * *
TÀI LIỆU TỪ TRONG NƯỚC
LTS:
Dứơi đây là nguyên văn lá thư của cụ Trần Lâm, 80
tuổi đời, 59 tuổi đảng và nguyên Thẩm phán Toà án Nhân dân Tối
cao, vừa gởi tới Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN góp ư về Đại hội
10. Phần mầu xanh dương là do Toà soạn làm.
Những ư kiến đóng góp vào việc chuẩn bị
nội dung Nghị quyết Đại hội lần thứ X
TRẦN LÂM
Tôi làm theo lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà
đích thân tôi đă được nghe Người nói: “Phải nói kỹ về khuyết
điểm v́ sai sót thường có tính bảo thủ”. Theo tâm lư dân chúng
th́ ai cũng muốn biết rơ các biện pháp để chấm dứt sai sót, v́
đó mới là con đường tiến lên. Người ta có thể nói nhiều về thành
tích, nhưng đó là việc hiếu hỷ, lễ Tết, ngoại giao.
Lúc này, tôi rất lo lắng v́ đề cập đến một vấn đề
quá lớn, sợ sức ḿnh không với tới. Nghĩ lại, đây là một sự đóng
góp, mỗi người một ư, cái quan trọng trên hết là ư thức trách
nhiệm mà thôi.
Tôi không bằng ḷng với ai, về việc ǵ, đây chỉ
là những suy nghĩ, qua nhiều năm tháng, muốn bộc bạch, muốn giăi
bày.
Văn là người, tôi tin là chúng ta cảm nhận được
đầy đủ và dễ dàng.
Nội dung tài liệu này cũng theo lề lối quen
thuộc: có đánh giá t́nh h́nh, có nêu thiếu sót và có kiến
nghị... Có cái khác là không mang tính tổng hợp, chỉ là biết đến
đâu viết đến đấy. Phương pháp th́ nặng về phản biện v́ nghĩ rằng
đây là phương pháp chính của việc góp ư.
* * *
Phần I: Tổng hợp các ư kiến trên báo chí, trái
với việc đánh giá thành tích “đổi mới”
của các cơ quan Đảng và Nhà nước.
Phần II: Nêu lên những nhận xét, suy nghĩ về
những sai sót, bất cập, nghịch lư
trên một số mặt, đ̣i hỏi phải có sự đổi mới triệt
để.
Phần III: Nói lên những suy nghĩ về Đảng v́ đây
là việc góp ư với Đại hội Đảng,
hơn nữa, mọi hưng vong của đất nước đều gắn với
vai tṛ của Đảng. Cũng thấy bức bách là Đảng phải đổi mới triệt
để.
Phần IV: Nói lên những suy nghĩ về việc thay đổi
thể chế.
Thay đổi triệt để có phải là nhu cầu khách quan,
là quy luật không và thay đổi như thế nào? Đây là câu hỏi lớn,
mỗi một người góp một ư, đa số trong Đảng, đa số trong dân là
người quyết định cuối cùng.
Phần I
Cũng cần nói lại về “thành tích”
A. “Đổi mới”
Ở ta, sau khi Luật Dân sự được ban bố, tư hữu tài
sản được công nhận, các thành phần kinh tế được xác lập. Luật
Doanh nghiệp ra đời. Sẵn cơ sở kinh tế tư bản thời kỳ thuộc địa,
với việc quan hệ quốc tế rộng răi hơn, các doanh nhân, các nhà
công nghệ với tŕnh độ khiêm tốn chiếm lĩnh vị trí. Nền kinh tế
hàng hoá non trẻ ngày một phát triển. Thị trường, cạnh tranh là
việc chúng ta đă nói đến hàng ngày. Kinh tế tư nhân tỏ ra năng
động, vị trí ngày một cao.
“Đổi mới” ở ta đă chấm dứt được khủng hoảng toàn
diện, tạo ra những tiền đề để phát triển lâu dài.
Suy cho cùng ta cũng đang ở thời kỳ phát triển
bắt đầu trước đây mấy trăm năm của các nước Âu, Mỹ. Chỉ có khác
là tốc độ có thể nhanh v́ toàn cầu hoá.
Trong sự phát triển này, miền Nam khá hơn miền
Bắc: doanh nhân miền Nam tiềm lực kinh tế mạnh hơn, quan hệ quốc
tế rộng hơn, khoa học kỹ thuật cao hơn, việc phát triển dựa vào
cạnh tranh...
Miền Bắc vẫn c̣n lúng túng về sở hữu: Sở hữu đất
đai, về các cơ sở quốc doanh với việc cổ phần hoá chậm chạp,
kinh doanh th́ theo lối chụp giật, trốn thế, buôn lậu, lừa đảo,
đă h́nh thành cái người ta gọi là “kinh tế của những cánh hẩu”
(crony economic) như ở Inđônêxia thời Suharto: lợi dụng quan hệ
gia đ́nh, thân quen, chia chác với những người có quyền để được
cấp đất ở những nơi hái ra tiền, có các quota béo bở, các món
vay không phải thế chấp... buôn đi bán lại, tóm lại đầu cơ là
chính.
Ta đang chậm chạp trên con đường phát triển của
loài người. Đúng là “cũ người” nhưng “mới ta”. Con đường này là
trí tuệ của nhân loại. Nước Mỹ văn minh và hùng mạnh nhưng cũng
là con đẻ của văn minh châu Âu. Các nước Âu Mỹ chả ngả mũ, cúi
đầu trước trí tuệ Việt Nam tiến hành chiến tranh nhân dân. Chúng
ta không tự ti, mặc cảm khi nói lên điều này.
Một tộc người ở rừng núi chật hẹp, muốn t́m nơi
rộng răi thoáng đăng để định cư. Họ đă đi ba phương trời để t́m
miền đất hứa, đều thất bại. Họ buộc ḷng chuyển sang hướng thứ
tư, họ đă thành công.
Ta đă trải qua nhiều giai đoạn, với các học
thuyết và biện pháp: Không công nhận tư hữu tài sản; đánh đổ tư
sản địa chủ; có lúc đổ lỗi cho chiến tranh; có lúc nêu lên cái
gọi là giai đoạn quá độ tiến lên XHCN và cuối cùng là thực hiện
bao cấp... Đất nước đi đến cùng cực của khủng hoảng toàn diện.
Cuối cùng ta phải chấp nhận: công nhận sở hữu của
các thành phần, công nhận kinh tế thị trường, do đó đất nước
khởi sắc.
Phải chăng, con đường ta đang đi không phải là
một t́m ṭi chủ động?
Hơn thế nữa, chúng ta đă sang Trung quốc, xem xét
sau 10 năm họ đă chuyển đổi kinh tế như thế nào và các thành
tích của họ đă thuyết phục chúng ta ra sao. Đến hôm nay họ đă
tiến bộ vượt bậc.
Các kư giả nước ngoài, cả các nhà báo nước ta, đă
có nhiều người hỏi về sự giống nhau giữa Trung quốc và ta trong
việc chuyển đổi kinh tế. Cũng dễ hiểu v́ hai nước có những hoàn
cảnh giống nhau trước lúc chuyển đổi. Sao chép th́ chưa ai nói
đến, nhưng Trung quốc là chất xúc tác, là nguồn động viên, là
thí điểm cho chúng ta suy nghĩ th́ chắc là không ai có thể chối
căi.
*
Nói rằng chúng ta tiếp nhận kinh tế thị trường
nên chúng ta chấm dứt được khủng hoảng, đă khởi sắc, là khách
quan và đúng đắn.
C̣n nói rằng “đổi mới” là một sáng tạo, có tính
đặc thù Việt Nam th́ xem ra như là một vi phạm sở hữu trí tuệ.
B. GDP:
Ta ca ngợi GDP của ta có nhịp độ tăng trưởng cao
thứ nh́ châu Á. Ta coi đây là thắng lợi nổi bật và bao trùm. Rất
nhiều điều tiếng về điểm này:
Có người coi giá trị này không lớn: Tổng giá trị
GDP là 40 tỷ USD, tăng 7,8 %, mang con số tuyệt đối ra chia theo
đầu người, cho 83 triệu người, hỏi mỗi người được bao nhiêu?
Có người băn khoăn về cách tính: Thóc, gạo, quần
áo, giày dép xuất khẩu, có trừ đi tiền nhập phân đạm, phụ kiện
may mặc không? Hàng hoá không bán được có tính vào GDP không?
Hơn 3 tỷ USD mà kiều bào gửi về có tính vào thu nhập quốc dân
không? Giá xăng dầu tăng lên trên thế giới có phải là yếu tố
ngoại lai không? Các nước, vào cuối năm thường chỉ có dự báo và
đến tháng 6 năm sau mới có thông báo chính thức về GDP, ta lại
tuyên bố như đinh đóng cột vào cuối năm, liệu có vững chắc và
đáng tin cậy không?
Có người nghĩ đến nguyên tắc tăng trưởng về chất
lượng, tăng trưởng bền vững: Ta vẫn xuất khẩu nông sản theo dạng
thô; than, dầu, thiếc, apatit càng ngày số lượng càng cao...
Nh́n qua việc vận tải thấy như là ta đang mất một cái ǵ. Phải
chăng, chúng ta chỉ nh́n trước mắt, chúng ta chạy theo giá trị
đơn thuần?
Có người bực dọc thốt lên: Chúng ta đă sử dụng số
tiền từ xuất khẩu ít ỏi này như thế nào? Nếu cộng cả con số nợ
nần nước ngoài, con số tiền người ta cho không, con số mà chúng
ta chi tiêu lăng phí vào lễ tết, hiếu hỷ, con số mà kẻ xấu trong
chúng ta bỏ túi so sánh với những cái chúng ta đă làm được, quả
là quá kém cỏi. Trong xây dựng cơ bản, ta nói tham ô, lăng phí
mất đến 40%, nhưng c̣n một điểm ta không nói ra: tuổi thọ của
công tŕnh như thế nào, liệu nó có sống được 30 - 50% tuổi thọ
dự kiến không? Đối với cha ông, con cháu, chúng ta có công hay
có tội, là điều đáng băn khoăn.
Có người cho rằng, chúng ta chậm c̣n do bỏ qua
nhiều cơ hội. Thời cơ cao hơn tiền bạc, thời cơ mới là yếu tố
tăng trưởng, có khi là đột biến. Dung Quất là điển h́nh về việc
bỏ lỡ thời cơ, làm thua thiệt quá lớn về tiền bạc, làm chậm bước
tiến của phát triển.
Có người c̣n nghĩ rằng, muốn tăng trưởng th́ điều
đầu tiên phải vượt qua là chính sách: Chính sách hợp thời, hợp
lư, cụ thể sẽ đẩy nhanh tiến độ tăng trưởng. Cần dành nhiều thời
gian cho chính sách hơn là cho tính toán các con số. Tôi thấy họ
đúng: phải chăng chính sách đất đai đang ḱm hăm sự phát triển
đất nước một cách ghê gớm.
*
Gần đây, có một cách nh́n mới, được nhiều người
nhắc đến, có thể coi là đúng đắn: Ta tụt hậu quá xa, có người
cho đây là “quốc nhục”. Trước đây 30 năm, nước ta và nhất là
miền Nam, tŕnh độ kinh tế c̣n cao hơn Thái lan, Malaixia, Đài
loan, Hàn quốc, thế mà nay với tăng trưởng GDP mức độ hiện nay
của ta, ta phải 20 năm mới theo kịp họ, không phải lúc ấy, mà
bằng họ ngày hôm nay! Ta đang ở trong số những nước nghèo nhất
thế giới. Cộng đồng châu Âu đang bàn soạn việc xoá nợ cho các
nước nghèo đợt 2, là 14 nước, trong đó có Việt Nam, cạnh Soudan
và Togo...
*
Có người c̣n nhắc nhủ: “Làm được ǵ không quan
trọng, làm được ǵ hơn người ta mới là quan trọng”. Các Mác c̣n
đi xa hơn: “Làm được ǵ không quan trọng, cách làm như thế nào
mới là quan trọng”. Ta vẫn mắc cái sai là mang so ta ngày hôm
nay với ngày hôm qua, cái sai là làm việc ǵ cũng chỉ cần cho
xong với bất cứ giá nào.
Một điều hé mở: Có lẽ chúng ta coi nhẹ trí tuệ và
khoa học công nghệ. T́nh h́nh chậm tiến của ta và nguyên nhân
cần suy nghĩ, bàn luận dài dài.
C. Nói như trên hoàn toàn không phải là phủ nhận
sạch trơn, chỉ là tiếng nói phản biện để
t́m ra chân lư: “Kẻ nói đi, có người nói lại”.
Nh́n nhận toàn màu hồng hoặc toàn màu đen, do hạn
chế về tŕnh độ, về nhận thức, về hoàn cảnh riêng tư... là điều
cần thông cảm, cần chờ đợi. C̣n nếu v́ một dụng ư nào đó, chỉ
nhấn mạnh một chiều, nhằm mê hoặc người khác, g̣ ép họ chấp nhận
lời ḿnh nói, đó là điều tệ hại.
Hăy thận trọng: Lời nói tại diễn đàn toàn quốc sẽ
được lưu giữ và không tránh được sự xem xét và đánh giá sau này
của hậu thế. Trước mắt, người trong nước và nước ngoài đang chờ
đón để xăm soi, khen chê chúng ta.
Phần II
Những bất cập, những nghịch lư
A. Về giáo dục và đào tạo:
Xin góp ư một vài điểm mà tôi biết trong vấn đề
quá lớn này:
1. Việc chọn cán bộ và việc đào tạo không song
hành.
Nước ta chậm phát triển, người đi học có mục tiêu
là kiếm chỗ trong bộ máy nhà nước. Người trong bộ máy nhà nước
phải là người giỏi trong những người được đào tạo. Tổ chức đào
tạo phải đáp ứng yêu cầu này: tạo ra người giỏi, tạo ra nhân
tài.
Không!
Cơ quan tuyển dụng lại có cách riêng.
Đầu tiên người trong bộ máy nhà nước phải
có quá tŕnh cách mạng dù họ không có chuyên môn; sau đó người
ta chọn người theo lư lịch.
Báo Le Monde (Pháp) có biếm hoạ: Tại cửa tuyển dụng, ở Paris,
người tuyển hỏi người xin việc: “Anh có bằng ǵ?”. Ở Watsingtông
hỏi: “Anh có nghề ǵ?”. Ở Hà nội hỏi: “Bố anh làm ǵ?”. Tôi được
biết chuyện cười này cách đây 30 năm. Tiếp sau,
người ta chọn người thân quen, họ hàng của những
người có chức quyền, việc chọn này như thành việc mua bán, đổi
chác, hối lộ... từ “5C” ra đời (5C: con, cháu, các, cụ, cả) đă
được nêu ra trong Quốc hội. Rồi đến việc người ta chọn người để
tạo phe cánh, tạo đường dây để bảo vệ lẫn nhau, cùng nhau tiêu
cực kiếm chác...
Cao điểm, đến ngày hôm nay là việc chạy chọt, hối lộ để chạy
chức, chạy quyền, như Thủ tướng đă phải công khai cảnh báo...
Các cháu tôi, ra trường xin việc làm, đều có giá là 60 triệu,
h́nh như giá chỉ đạo cả trong Nam ngoài Bắc. Ở hai tỉnh thi
tuyển công nhân viên chức, một tỉnh chỉ nhận đơn của con em viên
chức nhà nước, một tỉnh đánh trượt những em giỏi nhưng thiếu
điều kiện nào đó, có ai biết là điều kiện ǵ. Báo chí đă đăng
tải.
Bản thân ngành giáo dục cũng v́ đó mà thui chột
động lực dạy và học. Dân số phát triển quá nhanh, giáo dục chạy
theo, thành phát triển quá nóng, chất lượng cũng giảm sút. Ngành
giáo dục chạy theo thành tích, chạy theo bằng cấp, rồi chạy theo
tiền... Việc học tuỳ tiện “dốt hư chuyên tu, ngu như tại
chức”... mua bằng, bằng giả, học giả, bằng thật...
Khi ta nhận ra giáo dục là quốc sách, giáo dục
tạo ra nhân tài, nhân tài là nguyên khí quốc gia, con người là
động lực đầu tiên của phát triển th́ ta đă suy thoái trầm trọng.
Người tiêu dùng không cần hàng hoá đúng tiêu
chuẩn, người sản xuất không cần làm hàng hoá có chất lượng, đó
là bối cảnh của giáo dục, đào tạo và tuyển dụng.
Khi kinh tế bắt đầu phát triển, một số học sinh,
sinh viên giỏi chạy theo các công ty nước ngoài, thành ra có
việc chảy máu chất xám ngay trong nước.
*
2. Ta không coi trường sư phạm là căn cứ địa là
cái nôi của giáo dục.
Anh và Pháp đều dùng chữ “norme”, “norm” để gọi
trường sư phạm. Trường sư phạm (école normale) đào tạo ra giáo
viên là khuôn mẫu công dân.
Một thời gian quá dài, trường sư phạm bị coi nhẹ.
Sinh viên có câu:
“nhất y, nh́ dược, tạm được Bách khoa, Sư phạm bỏ qua, Nông lâm
xếp xó”.
Riêng đối với trường Sư phạm là đúng. Chúng ta
chỉ chọn được các sinh viên tiêu chuẩn không cao, nuôi dưỡng,
đào tạo không có ǵ đặc biệt, ra trường đăi ngộ không xứng đáng,
trước mắt nhân dân, sự kính trọng giảm sút dần. Thử hỏi: sinh
viên yếu, rồi thành thầy giáo yếu, thầy giáo yếu lại tạo ra các
sinh viên yếu, sinh viên yếu thành thầy giáo kém... Ta đă tạo ra
cái “gien” suy thoái từ thế hệ này qua thế hệ khác. Ta phát hiện
quá chậm, đến nay vẫn chưa có giải pháp khắc phục.
Ban hành chương tŕnh học mới, biên soạn lại sách
giáo khoa, chấn chỉnh lại các nguyên tắc quản lư, các nguyên tắc
giảng dạy của ngành phổ thông là việc bức thiết mà ta đă đặt ra.
Tại sao không đưa các nhà khoa học đích thực, các thầy giáo giỏi
về các trường sư phạm, biến các trường thành trung tâm nghiên
cứu, biên soạn, trung tâm bồi dưỡng giáo viên, thể nghiệm mọi
việc qua các trường thực nghiệm của các trường sư phạm, trung
tâm du nhập tiến bộ khoa học kỹ thuật giáo dục của nước ngoài,
biến các trường sư phạm là nơi tập hợp, nghiên cứu toàn bộ các ư
kiến đóng góp của các nhà khoa học, của toàn dân. Cuối cùng, ở
đây h́nh thành trường phái của ngành giáo dục Việt Nam, chấp
nhận cả những “học phiệt”. Ngành khoa học nào cũng phải có người
cầm đầu, phải có trường phái rơ rệt, phải có địa chỉ chịu trách
nhiệm về sự hưng vong của khoa học, tốt th́ có cái để giữ ǵn,
lạc hậu có cái mà loại trừ.
Ta làm khác quá: để mặc ngành giáo dục tự tung,
tự tác; các ư kiến đóng góp của toàn dân không biết rơi rụng nơi
nào. Ta mất quá nhiều thời gian bàn về các việc: bỏ thi cấp 2,
thay tên cấp học... Ngành giáo dục lúng túng như thợ vụng mất
kim, nay đề ra việc này, mai lại hoăn... mà chỉ là các việc cụ
thể.
*
3. Một số băn khoăn khi nh́n ngành giáo dục đào
tạo của ta và riêng ngành đại học.
a) Giáo sư là người đứng trên bục giảng, tiến sĩ
là người làm trong pḥng thí nghiệm... Người cầm đầu ngành phải
là người am hiểu xă hội Việt Nam, con người Việt Nam, hiểu không
sâu nhưng rộng về các ngành kinh tế, khoa học kỹ thuật, tóm lại
có kiến thức tổng hợp, lại biết về kinh tế tài chính vĩ mô, là
chính khách nh́n xa trông rộng, biết cách dùng người, t́m được
người giỏi, quản lư được tổ chức... Giao quản lư ngành cho các
nhà khoa học chuyên sâu, người có bằng cấp cao, chưa phải là đặt
người đúng chỗ.
b) Có người cho rằng, số nhà khoa học của ta so
với dân số th́ c̣n kém xa các nước trong khu vực. Có người lại
thấy đă ít, nhưng nhiều người hàng năm chả có một công tŕnh
nào. Có người lại đưa ra tiêu chí: Nước có tŕnh độ khoa học cao
là khi họ giải quyết được các vấn đề khoa học, kinh tế, chính
trị bức xúc của chính nước họ và không căn cứ vào số lượng tiến
sĩ, giáo sư... Tôi nghiêng về quan điểm: Chất lượng các nhà khoa
học, có sự phân bố đồng đều ở các ngành, có đủ khả năng giải
quyết các yêu cầu, là mục tiêu của giáo dục, đào tạo.
Nghiêng về quan điểm cuối cùng trên, th́ phải
nhận rằng ta phát triển đại học ồ ạt, một cách đáng kinh ngạc.
Khi thiếu giáo sư, thiếu cơ sở, thiết bị, đời sống sinh viên quá
tồi tệ... Sinh viên ra trường không biết làm việc... sự lăng phí
là vô kể, làm rối loạn xă hội v́ thi cử, chạy chọt...
Giáo dục đại học là đào tạo nhân tài, người lao
động bậc cao, vẫn cần nhắc lại, cần thấy là có nhiều sai sót và
cần sửa đổi.
*
4. Dân số, thanh niên, nạn thất nghiệp và việc
đào tạo nghề.
Ta có 83 triệu dân, thanh niên chiếm quá nửa, 70%
là nông dân. Số thanh niên thành thị và nông thôn học xong cấp 2
và 3 đông vô kể. Họ đang không có việc làm, là một nỗi lo.
Việc xuất khẩu lao động ta thả nổi cho các công
ty, họ bóc lột người lao động, bọn lừa đảo không ít... Việc dạy
nghề của nhà nước h́nh như vắng bóng. Việc sản xuất có mở rộng,
nhưng thu nhập thấp, người lao động quá khổ cực v́ đắt đỏ và xa
gia đ́nh.
Ba Lan hàng chục % dân số lao động ở nước ngoài,
tiền gửi về nhà quá lớn, GDP tự nó nâng cao... Việc phát triển
công nghiệp và các nông trấn Trung quốc ở một số vùng làm tốt...
Đă đến lúc cần nh́n lại: Giải quyết việc làm là
vấn đề chính trị xă hội rất lớn, là việc nâng cao kinh tế rất
hiệu quả. Đảng và Nhà nước phải có chính sách lâu dài vấn đề này
và Nhà nước phải bắt tay vào làm với ư thức đây là một chủ
trương lớn thuộc loại quốc sách.
B. Bộ máy Đảng và Nhà nước
Hiện nay, ở ta trong việc quản lư phát triển đất
nước, người dân coi Đảng với Nhà nước như là một. Một cán bộ cấp
thấp, dù chưa là đảng viên, người dân cũng coi là một đại diện
của Đảng.
Giữa người dân và Đảng, Nhà nước, mối quan hệ đă
khác xưa: trứơc là một, nay như đă xa cách.
Tôi đóng thuế, tôi trả lương cho anh, anh lười biếng, lại “hành
là chính”, trước tôi và anh như nhau.
Sao anh giầu nhanh thế, tôi vẫn nghèo, nay hô hào
anh và tôi đoàn kết, nghe khó lọt tai quá!
Tôi có gặp một vài người, hiện đang làm việc, là
người sạch sẽ, cũng có nghiệp vụ, họ đều tỏ ra chán nản với môi
trường làm việc của họ.
Suy nghĩ ǵ về bộ máy Nhà nước và Đảng non trẻ
của chúng ta?
1. Đường lối và tổ chức có mối quan hệ hữu cơ: Ta
có nhiều chính sách nhưng hoặc nói rồi để đấy, làm thời gian rồi
quên đi, làm kéo dài, không đo đếm được kết quả, thông tin về
thực hiện không có, bao trùm là thiếu một đường lối tổng quát
như các nước xung quanh đă thực hiện để trở thành “con rồng”. Ta
giống như một người lúc làm lúc nghỉ; làm không gọn, dọn không
sạch; không rèn dũa được ḿnh, không dạy dỗ con cái, gia đ́nh
không căn cơ để trở nên giàu có.
2. Bộ máy là bao gồm rất nhiều người, từng người
đều có trách nhiệm cá nhân, như con ốc nhỏ bé, nếu vặn không
chặt, cả bộ máy cũng ngừng chạy... Ta làm việc ǵ cũng ào ào,
người nọ làm việc người kia, thừa chỗ này thiếu chỗ khác... tốt,
xấu không biết, sai đúng không thuộc về ai. Ông Đỗ Quang Trung
thừa nhận: “Ở ta xác định trách nhiệm cá nhân thật là khó”. Thế
sao gọi được là bộ máy! Làm sao có cá nhân kiệt xuất, có nhân
tài trong cái hỗn độn đó.
3. Ta vận hành bộ máy với nguyên tắc cũ kỹ:
Đảng tối hậu quyết định, chính trị là thống soái,
mà đáng lẽ ngày hôm nay trong khi “đổi mới” ta phải thực hiện kỹ
trị: giao việc quyết định của nhiều vấn đề cho các nhà khoa học,
các nhà chuyên môn. Các cấp uỷ Đảng không đủ trí tuệ, thời gian,
sức lực để quyết định hết thảy. Lúc này không phải là lúc bàn
đánh hay hoà, mà lúc này bàn có làm việc ấy không, làm thế nào,
ai làm, tiền, người,... kết quả ra sao... Phải chăng các thành
phố ngập lụt, xấu xí, đánh bắt xa bờ trắng tay, đồi Vọng Cảnh,
nước Hồ Tây... là thiếu vai tṛ quyết định, chứ không phải là
nghiên cứu, đề xuất của các chuyên gia, các nhà văn hoá.
4.
Ta thực hiện một cách lệch lạc nguyên tắc: tập
thể lănh đạo, v́ chúng ta quên mất vế thứ hai: cá nhân phụ
trách.
Có nghĩa là bàn th́ nhiều người, nhưng trong thi hành, trách
nhiệm thuộc về một người. Người cầm đầu nếu thuộc thiểu số phải
rút lui. Ông Kozumi bị thiểu số, đặt ra vấn đề ông c̣n cầm đầu
đảng ông, cầm đầu nước Nhật nữa hay không. Nguyên tắc luật h́nh
sự: khi một tập thể phạm lỗi, việc truy cứu trách nhiệm chỉ nhằm
vào người chủ chốt...
Hiện tại: tập thể như là một tấm màn của tṛ ảo
thuật, như bức tường thành che dấu cho những người theo đóm ăn
tàn, gió chiều nào che chiều nấy, âm mưu, thủ đoạn... hoặc chí
ít là khuyến khích sự lười biếng, chậm chạp, mà chậm chạp là mất
thời cơ, mất tiền bạc, là tụt hậu... Việc to cũng chậm chạp,
việc nhỏ cũng chậm chạp, cái ǵ cũng vội vội, vàng vàng.
5.
Chọn người làm việc chúng ta sai phạm nghiêm
trọng nhất.
Chúng ta coi nhẹ nguyên tắc v́ việc mà t́m người. Việc bỏ phiếu
là bỏ phiếu cho ai có thể thực hiện được một nhiệm vụ nào đó chứ
không phải về người đó như thế nào. Họ không làm được theo yêu
cầu, họ phải rút lui, dù họ thực hiện được yêu cầu, họ cũng sẽ
rút lui theo nhiệm kỳ v́ một t́nh thế mới, một yêu cầu mới, cần
những người mới, thích hợp hơn.
Một người ở ta được chọn có hàng chục, hàng trăm
lư do, nói ra không hết, có cả nhầm lẫn, có xấu xa...
Ngay việc chọn lựa trong sạch nhất cũng có sai
lầm: người kém cỏi cầm đầu th́ dạy dỗ được ai, biết ai tài giỏi
mà chọn, biết việc làm thế nào mà t́m người... Người quanh quẩn
trong bốn bức tường, khi chọn người chỉ biết vài người thân cận,
thành ra: một ít người chọn người tài trong một số ít người...
Nhiều khi một người khéo ứng xử được quư trọng hơn một người có
khả năng cống hiến. Ở ta màu sắc triều đ́nh phong kiến đă có.
C̣n Dumas th́: “Triều đ́nh là nơi làm băng hoại
con người”.
Tôi luôn luôn tự hỏi: v́ sao Bộ trưởng Giáo dục
Anh là mù loà, Bộ trưởng Quốc pḥng Pháp lại là nữ, chưa hề cầm
súng, Bộ trưởng Ngoại giao Đức lại là người không thích thắt
ca-vát... mà công việc của họ vẫn tốt.
6. Bộ máy nhà nước có đối tượng phục vụ là dân
hay hay đối tượng là chính nhà nước, câu hỏi phải đặt ra.
Việc xây dựng nhà cửa tách biệt, cao sang, hội
họp rầm rộ, h́nh thức, tốn kém, nội dung các chính sách, các thể
lệ đều buộc người dân vào quỹ đạo nhà nước, hay nói đúng hơn là
ư chí của người cầm quyền.
Khi làm các việc này, nên suy nghĩ lại: làm cho
ai, đưa lại cho họ cái ǵ, họ cần cái ǵ?...
7. Đầy rẫy nghịch lư trong công việc xây dựng bộ
máy Đảng và Nhà nước:
- Ta nói Đảng suy yếu, nhưng ta không có kế hoạch
củng cố, chúng ta lại mở rộng việc phát triển đảng viên, làm
phức tạp thêm.
- Bộ máy nhà nước kém hiệu lực, ta đă kiểm tra và
kết luận: 10 người có 3 làm được việc, 3 người cố gắng tạm dùng
được, c̣n 4 th́ phải bỏ đi, 10 năm rồi, ta không loại ai, chỉ
thấy biên chế ph́nh ra.
- Ta kêu tiền lương bất hợp lư, hàng 10 năm chưa
sửa được. ta vẫn tiếp tục nuôi số người ăn bám (loại con sâu
ngân sách) và trả lương không đủ sống.
- Những người sai phạm, kỷ luật họ rất khó, sa
thải họ càng khó hơn.
8. Người ta hỏi nhà du hành vũ trụ Liên Xô
Ti-tốp: “Thế nào là một cán bộ tốt?”. Trả lời: “là người yêu
nước và yêu nghề nghiệp”. Đúng thế: yêu nước th́ yêu dân, hết
ḷng làm việc cho dân; yêu nghề th́ trau dồi, chăm chỉ để thành
chuyên gia, bác học. ở ta có khi vừa ḷng cấp trên là được tất
cả, như vậy làm sao có được bộ máy tinh nhuệ.
9. Bộ máy nhà nước có ba nhiệm vụ. Cả ba đều kém:
Quản lư môi trường th́ có hai thành phố lớn nhất:
không mưa cũng lụt, mưa nhỏ cũng lụt,
rác rưởi... đâu cũng quy hoạch treo, mất rừng, mất biển... và
quan trọng bậc nhất là quản lư đất đai th́ lỗi thời không biết
bao giờ th́ chấm dứt... đâu đâu cũng cảng biển, xi măng, nhà máy
đường.
Quản lư con người từ đào tạo đến sử dụng, bồi
dưỡng, sàng lọc th́ đều kém cỏi... không t́m
được người tốt, người giỏi, thanh niên th́ suy thoái về lư
tưởng, đạo đức...
Quản lư về đồng tiền th́ có hai loại người: có
tấm ḷng nhưng kém cỏi thường vứt tiền qua
cửa sổ; tháo vát, thông minh th́ đút tiền vào túi, bao nhiêu
tiền cũng hết, thế là tiền mất, tật
mang... Đồng tiền này lại quay trở lại thành công cụ làm rối ren
thêm đất nước.
Bao giờ ta có người tốt quản lư đất nước từ cấp
cao đến cơ sở. Đă đến lúc bộ máy nhà nước cần lên bàn để đại
phẫu thuật, ghép tạng, thay máu... Nếu không ta sẽ tụt hậu dài
dài.
10. Khi nói đến Nhà nước, bao giờ cũng phải lấy
tiêu chí: “lấy dân làm gốc”; “của dân, do dân và v́ dân”; “dân
làm, dân kiểm tra”...
Những điều này người ta cho là chúng ta chỉ nói
cho
vui v́ không thấy có cơ chế, biện pháp, h́nh thức cụ thể để thực
hiện tiêu chí này.
Đích thân tôi được nghe Thủ tướng Phạm Văn Đồng
nói với bộ phận giúp việc: “Các anh làm việc theo lối thơ
lại, nghĩ chỉ để nói và viết làm sao không ai bắt bẻ là được,
các anh không bao giờ nghĩ để làm!”.
Các văn bản của ta đều tiến hành chỉ đạo hành
động, không có lộ tŕnh thực hiện từ A đến Z, không có căn cứ
khai thác nguồn lực, không có các biện pháp cụ thể, không có
thưởng phạt nghiêm minh... V́ thế không thể buộc các ngành các
cấp triệt để thực hiện. Có như thế, qua các đợt ta có thể điều
chỉnh chủ trương, biện pháp, điều chỉnh con người... và từng
việc, từng việc ta hoàn thiện bộ máy. Mặt khác, lúc nào cũng
phát động nhân dân cùng làm, cùng kiểm tra với tinh thần công
khai, minh bạch. Ta sẽ tránh được tự ta làm hại ta và tránh được
cho nhân dân chống đối ta, mọi việc sẽ tốt đẹp.
Dân là nước, bộ máy nhà nước là thuyền, nước nâng
thuyền và có thể lật thuyền.
Chủ trương và thực hiện, Đảng và dân, là 4 yếu tố của thành
công.
C. Tham nhũng và chống tham nhũng
1. Đâu là nguyên nhân tham nhũng?
Có người cho: Có tư hữu th́ có nhà nước; có nhà
nước th́ có tham nhũng. Đông Tây, cổ kim đều thế cả. LHQ ngày
nay cũng đang điêu đứng v́ tham nhũng.
Có người cho đói nghèo sinh ra tham nhũng. Các
nước nghèo nhất thế giới trong đó có Việt Nam cũng là những nước
có tham nhũng nặng hơn cả. Mười năm trước Lê Khải Ca, đạo diễn
lừng danh Trung quốc sang Mỹ, người ta hỏi t́nh h́nh Trung quốc,
Lê Khải Ca khái quát: “Sự biến Thiên An Môn trước đây là do sự
lo sợ mất quyền hành, cướp bóc về kinh tế hiện nay là do lo sợ
đói nghèo”.
Tôi nghiêng về phía muốn chống tham nhũng phải
làm cho dân giàu, nước mạnh, phải thượng tôn pháp luật, mọi việc
phải được dân kiểm tra: công khai minh bạch như các nước giàu có
nhất, ổn định nhất, bộ máy nhà nước trong sạch nhất: Na uy, Thuỵ
điển, Đan mạch, Hà lan... kể cả Đài loan, Singapore.
2. Ở Việt Nam, ư thức pháp luật trong nhân dân
chưa cao. Người Việt Nam tuân thủ một thứ pháp luật truyền
thống, không thành văn, nhưng được thể hiện qua ca dao, tục ngữ.
Cũng như Hồi giáo có luật sary, Tây Nguyên có luật tục...
a)
“Một người làm quan cả họ được nhờ”:
Thời thuộc địa Pháp, người Pháp đă nói: “Trong đầu mỗi người An
nam đều có một ông quan”. Vở chèo Lưu B́nh Dương Lễ ca ngợi việc
học đưa đến quan trường: “vinh thân, ph́ gia”. Ngay sau nạn đói
1945, bộ máy nhà nước vừa ra đời chưa được một năm, Hồ Chủ tịch
đă phải lên tiếng chống tham ô, lăng phí...
Một người vào Đảng, vào bộ máy nhà nước, đă không
cảnh giác với các người xung quanh, với chính bản thân ḿnh, có
khi họ trở thành tan bạo: ăn vào cả thương binh, liệt sĩ như ở
Việt Nam, cả Sóng thần như ở Inđônêxia.
b)
“Thượng bất chính, hạ tắc loạn”; “Nhà dột từ
nóc”:
Người có chức cao, quyền trọng, quá thiển cận, không biết việc
làm sai trái của ḿnh sẽ thúc đẩy nhiều người làm theo. Trên thế
nào, dưới như thế. Ngay đến cái ghế ngồi họp, chạm trổ cầu kỳ,
nặng nề, tưởng chỉ xuất hiện ở Hà nội, nay thấy phổ biến đến cấp
Huyện... Trách nhiệm đối với tham nhũng của các cán bộ, càng cao
càng nặng nề.
Làm ǵ cũng có người biết, người đồng phạm, người
có chức quyền cao lại phải có người giúp sức... Khi vỡ lở, kẻ
cấp dưới ngang nhiên thách thức: “Trạng chết th́ Chúa cũng chẳng
c̣n”, thành ra cấp trên “há miệng mắc quai”, phải bao che, lẩn
tránh. Loạn càng thêm loạn.
Có người có chức quyền nhưng sai phạm, ngay chính
cấp dưới của ḿnh lợi dụng, lâu rồi khống chế chính ḿnh như
hoạn quan, có lúc chi phối cả triều đ́nh. Lịch sử nước ta đă có
t́nh h́nh như trên.
c)
“Toét mắt là tại hướng đ́nh, cả làng toét mắt
riêng ḿnh em đâu”:
Ở ta cái mới mà đơn độc th́ bị đánh tơi bời, mặc
dù là cái tốt. C̣n cái xấu, một người làm sẽ bị lên án, nhưng
nhiều người làm th́ thành ra chấp nhận được, không bị coi là xấu
nữa. Nếu việc xấu đù nghiêm trọng, những người cầm quyền làm
trước th́ nó vẫn phát triển như vũ băo.
“Quan trên trông xuống” đă làm ngơ, “người ta
trông vào” cũng hùa làm theo, “đảng viên đi trước làng nước
đi sau” th́ tham nhũng trở thành phổ biến và trầm trọng là điều
dễ hiểu, cũng như bao nhiêu t́nh h́nh tiêu cực trong đời
sống hàng ngày.
3. Việc chống tham nhũng tỏ ra kém hiệu quả và
nếu suy nghĩ kỹ th́ thấy như vô hiệu.
Công khai, minh bạch là lối giải quyết hiện đại
nhất, nhưng chúng ta lại “việc nhà, đóng cửa
bảo nhau”, “xấu chàng hổ ai”, “con dại cái mang”, không nên
“vạch áo cho người xem lưng”, “tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”,
hay là tránh né để “không thành việc chính trị, giữ vững ổn
định”... thế th́ làm sao để răn đe được ai.
Người tham ô càng cao bao nhiêu càng được che dấu
bấy nhiêu, gượng nhẹ bấy nhiêu, cho nên dân có câu “chỉ đánh từ
vai...”.
Việc xử lư th́ lề mề chậm chạp: Việc chiếm đất ở
Đồ sơn, rơ như ban ngày, nhưng nay xử lư một cách, mai một cách,
nay người này ém nhẹm, người kia phanh phui, cấp này im lặng,
cấp kia lên tiếng, tội danh là chiếm đoạt, toàn bộ tài sản,
“chiếm công vi tư”, nhưng được biến hoá thành “phù thu lạm bổ”,
“chấm mút”, “bớt xén”, nhẹ hơn nhiều.
Tham ô trở nên trầm trọng kéo dài bao nhiêu năm,
đến năm nay mới có luật. Thời gian sẽ minh định là tác dụng luật
sẽ rất thấp: Dân ta c̣n lâu mới sống theo điều này, khoản nọ của
luật. Rơ ràng là khi Quốc hội thảo luận Luật chống tham nhũng là
lúc Đồ sơn xảy ra cuộc cướp bóc đất đai.
Bản thân luật mới chứa đựng nhiều bất cập, nghịch
lư: Lấy bộ máy hiện hành để chống tham nhũng khác nào bắt kẻ
“chân ḿnh th́ lấm bét bê, lại mang bó
đuốc mà rê chân người”, làm sao thành công được.
Ông Đỗ Mười nói một câu rất hay: “Có khi ta phải
chém vào tay, vào chân ta” mới giải quyết được t́nh h́nh. Người
đời có câu, “kẻ thù chính của ta lại là bản thân ta”. Đây mới là
cái khó nhất, một bi kịch lớn nhất, là nỗi đau của dân tộc.
4. Mọi khó khăn, con người trước sau đều giải
quyết được, đó là điều tất yếu. Chúng ta có thể hạn chế được
tham nhũng.
Khởi tố vụ án, bỏ tù một số người, kể cả những
người ở cấp cao, luôn luôn răn dạy con người, trong gia đ́nh, ở
nhà trường, ngoài xă hội “đói cho sạch, rách cho thơm”.
Cần phải có các biện pháp toàn diện mới mong cứu
văn được t́nh h́nh: thanh đảng, xếp lại bộ máy nhà nước, chọn
người tin cậy và giao cho đảm nhiệm chức vụ từ cao đến thấp, đề
cao trách nhiệm cá nhân, ban bố luật và thực thi luật, sửa lại
lề lối, áp dụng nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch... coi
tiêu chuẩn gương mẫu là không thể thiếu của người thủ trưởng, từ
cấp cao đến cấp thấp thực hiện. Trong khi ấy, phấn đấu để nâng
cao tŕnh độ, khả năng kinh tế. Nghiên cứu t́nh h́nh nước giàu
nhất, sạch sẽ nhất để noi theo. Phát động quần chúng, tổ chức
quần chúng chống tham nhũng với cơ chế rơ ràng: có tổ chức, có
nhiệm vụ, có quyền hạn, với các biện pháp rơ ràng.
5. Ai cũng biết, ai cũng nói, nhưng tham nhũng
ngày một nặng hơn, rộng hơn. Đâu là nguyên nhân sự bế tắc này:
Phải chăng v́ các người cầm đầu địa phương, đơn vị đă tránh né,
không ra tay. Có thể họp muốn che dấu sợ làm xấu mặt đơn vị
ḿnh, có thể họ sợ “dứt dây động rừng”, hay là “tay họ đă nhúng
chàm” mà nay họ sợ “cháy nhà ra mặt chuột”, “lạy Ông! Tôi ở bụi
này”... Tôi thấy có việc, có cả 4 t́nh huống này.
Tham nhũng lộ mặt do quần chúng tố cáo, báo chí
xuất trận. Cho nên chỉ có phát động quần chúng mới mong giải
quyết được t́nh h́nh.
Tôi lại thấy Đảng và Nhà nước ta rụt rè trong
việc này, có lẽ sợ quần chúng nhân dân đứng lên sẽ gây ra biến
động, đe doạ đến an ninh...
Bệnh th́ nặng, thuốc th́ độc, đó là t́nh thế
tiến, thoái đều khó khăn.
6.
Chúng ta chưa nhận thức được nguy hại của tham
nhũng: Bao nhiêu đảng phái tan ră, bao nhiêu chính phủ bị đổ do
tham nhũng, bao nhiêu dân tộc đói nghèo triền miên v́ tham
nhũng. Đó là nguy cơ thực sự. Nguy cơ có thù trong, giặc ngoài
xét c̣n xa vời, nhưng nguy cơ tham nhũng là là hiện hữu ngay
trước mắt, ngay trong ḷng chúng ta, nó sẽ nhấn ch́m tất cả.
Ta luôn luôn nói: “Học tập theo gương Bác Hồ”
nhưng chúng ta không làm theo Bác Hồ: Chống tham nhũng từ lúc
ban đầu có Đảng và Nhà nước, bản thân Người sống đạm bạc, một
phần do bản chất, nhưng cũng có thể một phần để có tác dụng
gương mẫu.
Ông Đỗ Mười, cầm một món tiền lớn của nước ngoài,
ai cũng biết, thế nhưng ông vẫn hiện diện ở vị trí người đại
diện cao nhất của Đảng ta, nước ta, kể cả ở những ngày lễ lớn
nhất, không ít người tỏ ra bức xúc và lo ngại, nghĩ rằng Đảng và
Nhà nước không biết có thực ḷng chống tham nhũng không?
D. Ruộng đất và nông nghiệp, nông thôn, nông dân
a) Ruộng đất: Có t́nh trạng người người lấn chiếm
đất, lấn chiếm tất cả các loại đất, lấn chiếm lớn và vụn vặt,
nhiều khi trắng trợn, không c̣n phép nước, không có t́nh người.
Ở từng địa phương, nhân có việc xây dựng cơ bản, có các chương
tŕnh, h́nh thành một đường dây tham nhũng thông qua đất đai: Ra
quyết định, tổ chức thu hồi đất, giao đất, bán đất... đầu cơ để
lấy chênh lệch, để có đất ban phát cho người thân... thị trường
nhà đất sôi động, thực chất là mua đi bán lại...
Thị trường gần đây đóng băng v́ thủ đoạn quá lộ
liễu, v́ giá ngất trời, người có nhu cầu không thể đủ sức mua...
Khiếu kiện đến mức nghẹt thở... một vài tỉnh đă lộ diện những
lănh chúa: chiếm đất rộng mệnh mông để “làm trang trại”.
Từ đầu óc: không công nhận sở hữu tư nhân, rồi
buông lỏng quản lư, vẫn giữ quyền chi phối đất đai trong tay nhà
nước, tức là quyền thuộc về các cấp chính quyền, tham nhũng được
mở cửa, đó là hệ quả thứ nhất.
Hệ quả thứ hai là các giao dịch dân sự hỗn loạn,
cản trở phát triển. Nông dân trồng mía, giá thị trường thấp,
nông dân bán mía theo hợp đồng cho nhà máy đường, giá mía thị
trường cao, nông dân liền “xù”, bán mía cho tư thương. Nhà máy
có kiện ra Ṭa th́ cũng không tịch thu được ruộng đất v́ ruộng
đất nông dân chỉ được “tạm giao”. Xă hội hoá giáo dục, Bộ giáo
dục đào tạo, họp đi, họp lại, trong Nam, ngoài Bắc, tiêu tốn bao
nhiêu tiền... Hỏi ông Thứ trưởng: Trường dân lập sở hữu là của
ai? Ông trả lời thật là thanh thoát: Sở hữu thuộc về cộng đồng -
không rơ “cộng đồng” là ai? Mười lăm năm rồi, trong đầu óc lănh
đạo ngành giáo dục “dân lập” thực chất là “tư thục” c̣n chưa dứt
khoát.
Ở Hải pḥng, thành phố loại I, có trường Đại học
dân lập loại lớn của cả nước, ba năm trời, đấu đá giữa Hiệu
trưởng và Hội đồng quản trị xem ai là chủ. Hết đoàn nọ, đến đoàn
kia về thanh tra, kiểm tra, vẫn chưa phân định thắng thua.
Giải phóng mặt bằng, trả tiền đất cho nông dân
theo giá thấp, nông dân không thể mua đất theo giá đầu cơ, tranh
chấp kéo dài, kế hoạch xây dựng cơ bản chậm hàng mấy năm...
Hướng giải quyết đất đai th́ đi vào ngơ cụt: bối
rối, làm đi, làm lại, sai rồi sửa. Luật nặng về phục vụ cho thị
trường bất động sản, cho việc di dời, giải tỏa, chưa hé mở được
con đường tiến lên của đất đai, nhằm phục vụ cho phát triển.
C. Mác nói thật đúng “ở đâu, sở hữu không được
xác lập th́ ở đó sinh ra hỗn loạn”
b) Nông nghiệp và nông thôn.
Ở nơi đất rộng người thưa th́ có di dân tự do,
phá rừng bừa băi, cán bộ gian tham “xẻ thịt đất đai”, chia chác
lập “trang trại”, kinh doanh sản xuất th́ kém, hoang hóa th́
nhiều, cốt là để giữ đất... Các nông trường quốc doanh làm ăn
kém, giao đất cho nông trường viên và thu sản phẩm, thực chất là
địa tô. Sẽ có làm nhà, sinh con đẻ cái, tách hộ. Đất đai xa mạc
hóa, kinh tế trở thành tiểu nông, các làng xóm ra đời... kinh tế
nhỏ lẻ, năng suất thấp, không ổn định, công nghệ sau thu hoạch
yếu kém, sau 20, 30 năm giá trị xuất khẩu thấp, thu nhập b́nh
quân/ha thấp so với các nước xung quanh.
Thị trường ngoài nước mà coi Trung quốc là chính
th́ thật là bấp bênh.
Lưu thông qua thay thương lái th́ mất tiền và
không ổn định. Có được vài mặt hàng độc đáo nhưng không t́m được
thị trường: mận, vải, hoa quả ở miền Nam.
Mục tiêu, từ các miền đất rộng và ph́ nhiêu được
khai thác xuất khẩu để làm giàu đất nước, có thể nói là chưa làm
được bao nhiêu.
Ở nơi đất chật, người đông, đă có điện, cơ giới
nhỏ, có giống lúa năng xuất cao, nạn đói
không c̣n, lao động bớt cực nhọc. Ruộng đất manh mún, một mẫu
bắc bộ có đến 4,5 mảnh, đường ruộng chi chít, đất đai suy thoái
v́ quá nhiều phân đạm và thuốc trừ sâu, môi trường ô nhiễm, tôm
cá cạn kiệt... Sản xuất lúa th́ trả tiền phân, thuốc trừ sâu,
công cày, bừa, tuốt lúa cho cơ giới nhỏ, số lăi c̣n lại rất nhỏ.
Thời gian nông nhàn c̣n nhiều, thanh niên không có việc làm...
Có thể chăn nuôi, trồng trọt thêm nhưng sản phẩm khối lượng nhỏ
bé, không tạo được thị trường, thành bó tay.
Các chính sách đối với nông thôn, nông dân, nông
nghiệp như xóa đói giảm nghèo th́ bấp bênh: có thiên tai, có
bệnh tật là một phút thành quả tiêu tan; các chính sách xă hội,
y tế, giáo dục khác nói th́ to, có bài bản nhưng tiền th́ quá
“hẻo”, bộ máy lại thiếu nhiệt tâm nên hiệu quả thực tế nặng về
tuyên truyền cổ động, để các tổ chức quốc tế có điều kiện “bốc
thơm” chúng ta.
Báo chí nói rất nhiều cựu chiến binh, người tàn
tật làm trang trại, nhưng xét nó là thành quả của một con người
cụ thể, của một môi trường cụ thể, tính phổ cập không rơ ràng,
nông dân coi đó là bài học đạo lư hơn là một việc ḿnh cần làm
và có thể làm. Ở nơi có xây dựng cơ bản, có thu hồi đất đai, có
giải phóng mặt bằng, nạn tham nhũng và đầu cơ làm cho mâu thuẫn
giữa nhà nước và nông dân nóng bỏng. Hiện nay cấp xă chỉ làm
việc quản lư hành chính, việc quy hoạch, chương tŕnh, kế hoạch
hướng dẫn sản xuất coi như bỏ ngỏ. Người nông dân cá thể không
tiền vốn, không có tŕnh độ, loay hoay, bế tắc, không biết làm
ǵ.
Loại việc mà người ta gọi là “mục tiêu thiên niên
kỷ” theo tôi là khó thực hiện: Đói nghèo là ở nông thôn, sinh đẻ
không kế hoạch là ở nông thôn; sản xuất lệ thuộc thiên nhiên,
nhiều nơi công cụ vẫn thô sơ, hàng chục năm giá trị không tăng;
chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn, cũng chính là giữa thành
thị và nông thôn; các tệ nạn xă hội, nhũng bức bối ở thành thị:
mại dâm, trộm cắp, ma túy... một phần lớn từ nông thôn mà ra.
Thiên tại: băo lụt, hạn hán, lũ quét, vỡ đê là việc xảy ra ở
nông thôn.
Nông thôn, nông nghiệp vẫn là nền tảng cuộc sống
của đất nước ta. Dân số trong nông thôn chiếm hơn 70%. Thế mà
mặt này lại thành một góc khuất. Tôi vô cùng băn khoăn v́ chưa
t́m được một thông tin nào về một quốc gia 70% nhân dân là nông
dân, với đơn vị sản xuất là hộ nông dân, đất đai manh mún, kỹ
thuật lạc hậu mà có thể tạo được một xă hội dân giàu, nước mạnh,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, văn minh, dân chủ...
c) Cải tạo nông thôn, nông nghiệp, coi như một
cuộc cách mạng, cần phải có suy nghĩ kỹ càng, một cuộc vận động
sâu rộng, toàn diện, tóm lại một chính sách, một tư duy độc lập.
Với công nghệ thông tin, cầu đường, điện, đóng tàu biển... ta có
thể học một cách máy móc các nước tiên tiến. C̣n cải tạo nông
thôn có lẽ chỉ riêng có ở ta - ở các nước tiền tiến việc này xảy
ra trước 200, 300 năm - thời các cụ của các chuyên gia đang làm
việc ở Việt nam lúc này.
V́ lẽ đó, tôi không dám nói nhiều. Với suy nghĩ
nông cạn của tôi, chỉ xin đề xuất 2 việc:
1.Phải công nhận quyền sở hữu cá nhân
về ruộng đất cho nông dân, một cách trọn vẹn.
Làm như vậy sẽ thúc đẩy người nông dân có ư thức,
có quyền tự do định đoạt tài sản của ḿnh. Họ có thể đổi ruộng
cho nhau để sản xuất thuận lợi; có thể bán, mua theo lợi ích
riêng...; họ có thể chung gom để sản xuất lớn, theo lối công ty;
người có vốn, có kỹ thuật có thể tự ḿnh mua bán đất, thuê đất
để sản xuất quy mô lớn. Quyền sở hữu trọn vẹn đất đai sẽ mở ra
một con đường mới, sản xuất lớn, mở rộng cánh cửa để công nghiệp
hóa, hiện đại hóa...
Ta hăy quên đi khẩu hiệu “người cày có ruộng” mà
thay bằng “người công nhân nông nghiệp có máy móc”.
1.
Phải ra
sức thu hẹp sản xuất nhỏ lẻ bằng cách mở mang dịch vụ mọi mặt
phục vụ nông nghiệp: cơ khí, vận tải, phân bón, thủy lợi,
điện... Trên tất cả các việc là t́m ra nguồn tiêu thụ sản phẩm,
khâu ngoại thương sẽ giữ vai tṛ chủ yếu.
Cho phép người nước ngoài vào kinh doanh nông
nghiệp. Đó là người thầy rất tốt cho chúng ta để mở rộng quy mô
sản xuất.
Dần dần, người trực tiếp lao động trên đồng
ruộng, trang trại chăn nuôi, càng ngày càng ít đi, tỷ lệ nông
dân trong dân số do đó cũng ngày càng thấp đi.
d)
Nghĩ về nông thôn, nông dân, có người bực tức cho
rằng Đảng và Nhà nước coi nhẹ nông thôn; họ c̣n cảnh báơ mọi
biến động sẽ bắt nguồn từ nông thôn.
Có người bực tức kêu lên: “Suốt ngày đón rước, lễ bái, hội họp,
không c̣n thời gian để học triết học”. Tôi nghĩ, nếu khoan dung,
loại bỏ cái vỏ khiếm nhă của câu nói, mà chỉ xét đến cái lơi,
th́ có lẽ câu này gợi mở cho chúng ta nhiều suy nghĩ.
Phần III
Lại bàn về đảng
A. Về đường lối chiến lược của Đảng, nhiều người
t́m hiểu nhưng không hiểu. Ngay từ “xă hội chủ nghĩa” có nội hàm
thế nào cũng chưa rơ. Cụm từ “kinh tế thị trường theo định hướng
xă hội chủ nghĩa” lại càng khó hiểu hơn.
So sánh sự khác nhau, cũng là một cách định
nghĩa. Nền kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa
khác với mọi nền kinh tế khác ở điểm nào, có định hướng XHCN và
không định hướng XHCN về cơ bản và về cụ thể, có những khác nhau
ra sao, chưa bao giờ được đề cập.
Đi sâu vào các chính sách về từng mặt, từng
ngành, t́m ra những điểm chung, t́m ra hệ thống, khái quát lên
cũng có thể t́m ra hướng chủ đạo, con đường đi lên của đất nước
do Đảng đề ra. Rất tiếc là các chính sách của ta, có cái có dạng
bao cấp, có cái giống nước này, nước kia, có cả Âu và Á, có cái
học phương Tây, có cái của phương Đông, nhiều cái ứng phó với
t́nh h́nh, chắp vá, làm rồi sửa, nói rồi lại quên, có cái không
hiểu v́ sao lại có, các văn bản về đường lối thường như là bài
văn hơn là một cẩm nang của hành động, nó được nhắc đi nhắc lại,
tháng năm này qua tháng năm khác, ở nơi này cũng như nơi kia.
Nhiều người nhận xét là Đảng ta đang khủng hoảng
về ư thức hệ, nghĩ cũng không có ǵ là quá đáng.
B. Thời thế đổi thay, đất nước lâm nguy, thường
xuất hiện các cá nhân kiệt xuất
Họ có các tư chất đặc biệt: nh́n xa trộng rộng,
nắm bắt thời cơ, bao giờ cũng nh́n được cái lơi của sự kiện, của
t́nh h́nh, vạch ra được đường lối lâu dài và trước mắt... họ
đoàn kết được mọi người, ứng phó hữu hiệu với thù trong, giặc
ngoài, cân bằng giữa các thế lực bên ngoài để có độc lập tự chủ,
lôi kéo được mọi người vào công việc chung, kể cả những người có
bất đồng... họ từng trải gian nguy, vào sinh ra tử... họ có đời
sống riêng tư làm cho mọi người khác ngưỡng mộ... Họ là các vị
Thánh theo tâm thức á đông của dân ta. Họ được người dân suy tôn
và công nhận là lănh tụ.
Nhiều người buồn phiền v́ thấy các vị lănh đạo
đất nước hiện nay tầm vóc xa vời so với nhiệm vụ.
Điều ấy cũng dễ hiểu:
Các vị lănh đạo hiện nay xuất thân từ các viên
chức thời b́nh, tiến dần lên theo thang bậc hành chính, trong
khung cảnh một bộ máy nhà nước nhiều khuyết tật.
Thời đại mới lại đ̣i hỏi thêm những tiêu chí mới đối với những
người cầm đầu đất nước: V́ phải làm ăn, phải sử dụng đồng tiền
nên cần có đầu óc của nhà tài phiệt như Bush, Beclucconi,
Thatsin...; v́ phải công nghiệp hoá đất nước đ̣i hỏi phải có
những người nh́n nhận được sự phát triển của khoa học, duyệt
được các kế hoạch vĩ mô, như kiểu Clinton, Chirac, Lư Quang
Diệu... và để giải quyết các vấn đề lớn của đất nước, cân bằng
được lực lượng các nước lớn, ứng phó mọi thách thức như các
chính khách Putin, Đặng Tiểu B́nh...
Các vị lănh đạo như của chúng ta, ở Indonesia họ
gọi là “các viên chức lớn”, thiếu cả những điều kiện của các bậc
đi trước, thiếu cả những điều kiện phù hợp với thời đại hiện
nay.
Suy cho cùng, cũng không phải là thiếu sót của
một ai. Đó là những vấn đề của lịch sử.
Tháng 6/2005, ông Hữu Thọ trả lời phóng viên:
“Trong lịch sử chúng ta, triều đại nào cũng thế, bao giờ Thái
Tổ, Thái Tông cũng tuyệt vời, nhưng sau Tổ, Tông th́ con cháu
bắt đầu hư hỏng, ăn ṃn vào cái vốn của ông, cha để lại”.
Phải chăng, sau cách mạng và chiến tranh, ta đă ngủ quên qua
lâu, cuộc sống mới đă làm ta quên dĩ văng, một dĩ văng rất gần.
Lề lối làm việc; cách chọn và bồi dưỡng nhân tài, vai tṛ của
người cầm đầu, trách nhiệm trước dân, cơ chế giám sát đều bất
cập đă đưa đến t́nh trạng hiện nay...
Khao khát một người kiệt xuất, xung quanh là một
bộ máy gồm những người tài giỏi, hiện đang nóng bỏng trong nhân
dân.
Nói rằng, chúng ta khủng hoảng về lănh tụ là rất
đúng.
C. Khủng hoảng của quan hệ giữa Đảng và Dân đă
xảy ra, không thể chối căi
Đảng và Dân khăng khít, hữu cơ như hai mặt của
một đồng tiền.
Mối quan hệ này, nay đă thay một bộ áo mới, với
con người mới, với các suy nghĩ mới. Trước đây, toàn dân chỉ một
ư chí: không có ǵ quư hơn độc lập tự do. Toàn dân tŕnh độ văn
hoá c̣n thấp, hiểu biết thế giới hạn chế... Mọi người đều sống
đạm bạc như nhau, công việc tuy gian khổ, khó khăn nhưng giản
đơn một phía... Các người cầm đầu, vào sinh ra tử, nói là làm.
Lúc này hô hào và thực hiện “Đoàn kết... thành công” là đương
nhiên v́ toàn dân một mục tiêu, một ư chí, một quyền lợi.
Nay tất cả đă thay đổi, có khi là lật ngược...
Ngay trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, kỷ luật sắt, ăn lương
tháng, mà “trên bảo, dưới không nghe”, trong Đảng phải nêu ra 19
điều cấm kỵ, mà có người cho đó làm mất quyền công dân, là vi
phạm điều lệ Đảng, vi phạm pháp luật.
Làm sao có sự đoàn kết giữa người măi măi nghèo
bên cạnh những người giàu lên rất nhanh mà không gọi lên được
nguyên nhân.
Làm sao, tôi đă đọc sách báo, tôi đă đi qua nước nọ, nước kia,
đă quan sát họ, đă suy ngẫm về ḿnh, mà Đảng và Nhà nước cứ bắt
tôi nghe và làm mà không được bàn soạn, lại bắt chỉ được bàn
soạn để thực hiện, không được phản biện... Hơn thế nữa, ngay hôm
nay vẫn hô hào khẩu hiệu: “Đoàn kết ... đại thành công”, không
dám nh́n thẳng, hoặc thấy mà làm như không muốn thấy là đoàn kết
giữa Đảng và Dân đang bị thương tổn nặng nề.
Đảng như Achille, bất khả chiến bại v́ bàn chân
để trên Đất Mẹ đó là nhân dân. Trước đây, Đảng là như thế, nhưng
nay Đảng như một “Achille mới”, moi đất ở dưới chân ḿnh, mỗi
ngày một tư, và càng ngày cái hàm ếch càng cao hơn, sâu hơn,
rộng hơn... sự nguy hiểm đă gơ cửa.
D. Về việc chuẩn bị Đại hội X
1. Về nhân sự:
Tôi vẫn giữ nguyên tắc: Bầu ban Chấp hành mới là
bầu những người để thực hiện Nghị quyết mới, đường lối mới, biện
pháp mới... là v́ việc mà t́m người.
Đường lối mới đang được các cấp bàn thảo, nó thế
nào chưa được tổng hợp, phân tách... Thế th́ cái đầu c̣n chưa
xuôi, ta đă quyết định cho lọt cái đuôi.
Các nguyên tắc chọn người theo bằng cấp, tuổi
tác, thành phần giai cấp, dân tộc, nam, nữ, mới cũ... mà ta gọi
là cơ cấu sao cho đủ mặt, sao cho đẹp, như là một thói quen khó
sửa mà quên tiêu chí của người lănh đạo: đứng đầu toàn Đảng,
đứng đầu toàn ngành, đứng đầu từng địa phương, từng lĩnh vực
hoạt động của đất nước, có khả năng thực hiện nghị quyết mà toàn
Đảng đề ra.
Cho đẹp nhưng thiếu hiệu quả, nên một vài người
cầm đầu khuynh loát tất cả, những người đẹp mă chỉ có cách là
vâng theo... tất yếu sẽ đi vào sai lầm và suy thoái.
Việc đầu tiên là t́m ra người đứng đầu. Coi như
là lănh tụ. Cơ chế để thực hiện phải là sự góp ư của cơ sở, các
ngành, các cấp, các nhân vật tiêu biểu của đất nước, phải có sự
trao đổi rộng răi gần như là cuộc bầu bán... Những ứng viên phải
được công bố rộng răi để lấy ư kiến đa số...
Cũng theo cách này, ta t́m những người ưu tú của
các ngành hoạt động: chính trị, kinh tế, văn hoá, xă hội để tham
gia Ban chấp hành. Nói một cách khác, việc chọn lựa là rộng răi,
dân chủ, công khai.
Việc chọn lựa ban chấp hành mới, nếu suy nghĩ kỹ,
có lẽ là một cuộc quyết chiến chiến lược để dành lấy sự tồn tại
của Đảng, một sự bứt phá để đưa đất nước tiến lên.
Đảng ta tồn tại hay không tồn tại, chính là việc
có chống được tham nhũng hay không.
Tôi đă đọc báo thấy một nhà văn hoá mà tôi quên tên, ông đă tức
bực khi thấy có một cuộc họp bàn về một vấn đề văn hoá dân tộc:
“Bọn tham nhũng, làm sao có thể bàn về
văn hoá dân tộc được”.
Cho nên rất nhiều người muốn rằng, những người có
thể tham gia ban chấp hành mới, những người là đại biểu đi dự
Đại hội đều phải kê khai tài sản, công bố rộng răi, trước khi
Đại hội họp một thời gian cần thiết và hơn thế nữa, là không có
những nghi vấn tham nhũng.
2. Về đường lối:
Tôi đă đọc bản hướng dẫn thảo luận dự thảo nghị
quyết ở cơ sở. Tôi thấy nó dàn trải quá,
chung chung quá... không thể bảo là sai, không thể nói là đúng,
cái có thể nói là nó tù mù, đọc xong không thể nắm được ǵ,
không biết phải làm ǵ.
Cũng dịp này, tôi vô t́nh đọc được các bài viết
của hai nhân vật trụ cột của việc làm dự thảo: ông Hồng Hà và
ông Nguyễn Khoa Điềm.
Phóng viên hỏi: “Khái niệm về nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN h́nh như chưa rơ ràng”. Ông Hồng Hà
trả lời: “Ta cứ làm rồi sáng tỏ dần, cứ đọc văn bản trên đưa
xuống sẽ hiểu”, “đến Đại hội X thể nào cũng rơ...”. Thật là tù
mù, một vấn đề đặt ra hơn 20 năm mà nay c̣n chưa nói được rơ!
Ông Nguyễn Khoa Điềm tổng kết hội thảo “Văn hoá
Đảng...” bằng những lời tốt đẹp vô bờ bến, nhưng văn hoá Đảng là
ǵ, có tiêu chí thế nào, nó giải quyết các mối quan hệ theo
nguyên tắc ǵ, nó là văn hoá dân tộc nhưng nó có đặc thù ra
sao... v.v... Chỉ có ca ngợi, cũng là một dạng của tù mù.
Tôi lo lắng là dự thảo đường lối cũng cùng một
dạng nói trên. Tôi đă đọc một tài liệu về cuộc đảo chính của
Pinôchiê ở Chilê; người ta nhận xét Đảng Cộng sản của Agienđê
mắc một sai lầm là các bài viết và nói đều dùng một văn phong mà
người dân thấy xa lạ. Cách viết đă làm giảm uy tín của Đảng.
Nhiều người mong mỏi Đề cương chỉ nêu lên vài vấn
đề then chốt, có các điểm đột phá: làm một việc mà dọn dẹp được
nhiều việc khác, làm một việc mà tạo ra thành công ở nhiều việc,
đó là mong mỏi của toàn Đảng, toàn dân. Toàn đảng, toàn dân sẽ
nức ḷng thực hiện theo tiếng gọi của Đảng. Đấy là thành công,
đấy là sự tồn tại của Đảng trong vinh quang. Đề cương phải được
góp ư kiến rộng răi một cách thực sự.
Chúng ta lúng túng về nội dung hay lúng túng về
việc thể hiện, hay là chúng ta lúng túng về cả hai, cái nọ lại
làm cho cái kia bế tắc.
Giai đoạn đầu chúng ta tung ra nội dung để thảo luận, giai đoạn
hai chúng ta thu về để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Nếu chúng
ta không có được điểm ǵ mới, không có được điểm đột phá, th́
chúng ta sẽ không thể chối căi là chúng ta đă không thành công,
chúng ta đă gây lăng phí sức người, sức của. Thủ phạm không ai
khác là cái bệnh tù mù, mọi người sẽ công nhận lời nói của một
số người: “Đại hội, cái chính chỉ là nhân sự”.
E. Đảng ta như một kỵ sĩ mệt mỏi, bộ máy Đảng và
Nhà nước như con ngựa bất kham, què
quặt, trong tay kỵ sĩ có bản vẽ chỉ
đường, nhưng xem măi cũng thấy như không phù hợp với thực địa,
trời đă về chiều, làm sao tới đích được trước khi trời tối.
Phần IV
Nghĩ về việc đổi mới chính trị
1. Trên những nét lớn, sự suy thoái của Đảng đă
biểu hiện rơ rệt: đường lối chung chung không rơ ràng, với những
khẩu hiệu khó hiểu... Trong những người lănh đạo chủ chốt không
có ai được dân tín nhiệm đến mức suy tôn là lănh tụ. Các chính
sách lớn: giáo dục, tổ chức, nhân sự, đất đai, xây dựng Đảng,
trên một mặt nào đó cả về ngoại giao, th́ nói rồi không làm hoặc
nửa chừng bỏ dở và mấy mặt lớn ấy cứ lúng túng kéo dài, không
lối thoát. Nạn tham nhũng tràn lan, phá phách nội bộ Đảng, quan
hệ đảng và dân...
Bao trùm lên các mặt suy thoái này, nhiều người
nghĩ đến việc Đảng đă che dấu. Nhiều người cho rằng Đảng ta coi
như bó tay trước nhiều đ̣i hỏi của dân, của thời kỳ mới, của sự
phát triển.
2. Nhiều người suy nghĩ về thể chế chính trị mà
Đảng muốn thực thi.
Muốn duy tŕ sự lănh đạo khi đă suy thoái, thường
phải phát xít hoá. Nhưng nếu muốn cũng
không làm được: dân ta nay đă hiểu biết nhiều; từ thôn xóm đến
trung ương. không thiếu những người vào sinh ra tử, thành thạo
đấu tranh chính trị, đầu óc luôn: tự do hay là chết, liệu có thể
dập tắt được ngọn lửa thần này không? Ta có những tổ chức như:
chống bạo loạn, đ̣i nọ, đ̣i kia... Các tổ chức này đă có lúc ra
quân nhưng xem quá nhún nhường trước đàn bà, trẻ em, người
già... Ta thiếu hẳn một đội quân phát xít, sẵn sàng bắn vào đám
đông, vào bà con họ hàng của ḿnh và coi đó là một hành vi yêu
nước. Nước ta nhiều nước biết đến, xảy ra biến động họ sẽ lên
tiếng, các nước lớn dễ dàng thâm nhập để chi phối nền chính trị,
kinh tế của ta...
Muốn chia sẻ thực quyền, mở rộng dân chủ, đa
nguyên, đa đảng th́ đảng viên không chấp nhận v́ sợ mất quyền,
mất lợi lộc. Nhiều người chưa hiểu đa đảng là như thế nào nên có
hiềm nghi!
Nhiều người chưa hiểu thực trạng Đảng ta và vẫn
nghĩ là ta vẫn mạnh, ta như người có bệnh nhưng vẫn ăn ngủ được
nên không lo lắng.
Có những người im lặng và chờ đợi, và phương châm
là “thiên hạ thế nào, ta thế nấy...”.
Muốn gắng gượng duy tŕ thực trạng, cố gắng tự
thân vận động để tiến lên. Xem ra sự gắng gượng rất mệt nhọc và
tương lai mờ mịt v́ nhiều mặt cứ xuống, những khó khăn vẫn chất
chồng.
Cái khó lớn nhất là sức thuyết phục, sức mạnh
quyền uy không c̣n trong nội bộ và giữa Đảng và dân.
Chờ đợi, tôi không hiểu chờ đợi cái ǵ và làm sao
sự chờ đợi
không uổng công, trong khi chờ đợi th́ làm ǵ để
tiến lên, dựa vào con người nào, ai chèo lái...
Trong ba h́nh thức, Đảng đang duy tŕ h́nh thức
kéo dài và chờ đợi. Tôi tin không có phép mầu nào cả. Càng kéo
dài càng bế tắc. Đó chỉ là vấn đề thời gian, sự đổi thay như đă
được báo trước.
3. Hàng ngày, dù không muốn, ta cũng tiến dần đến
đa nguyên, đa đảng
Ta luôn có luật mới, có việc thay đổi luật, quy
chế, thể lệ, phương pháp... với các lư do không úp mở: để phù
hợp với thông lệ quốc tế; để hoà nhập, theo chuẩn mực quốc tế;
thể theo công ước này, thoả thuận kia; theo sự khuyến cáo của tổ
chức này, hiệp hội nọ. Tất cả những lời hay ư đẹp này là của
những nước tư bản, đa nguyên đa đảng. Từ những điểm thấp nhất
đến những vấn đề cao nhất, ta tiếp thu của họ, mặc nhiên ta chấp
nhận chế độ chính trị của họ rồi c̣n ǵ. Gần đây rộ lên nguyên
tắc: công khai, minh bạch mà ta rất thích thú. Công khai, minh
bạch là phải có đối tác, có giám sát lẫn nhau... đây chả là
nguyên tắc cơ bản của đa nguyên đa đảng là ǵ. Ta như cô gái
quê, “mỗi lần ra tỉnh về, hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”.
Một lần, lại lần nữa ra tỉnh, mỗi lần là mỗi thay đổi, cuối cùng
có thể bay hết... Oái oăm thay, cô vẫn nhận ḿnh là “chân quê”.
Ta hoà nhập, ta không hoà tan, nhưng cái mới, cái tiến bộ có sức
lôi kéo đến kỳ lạ. Gần 100% nhân loại theo cái gọi là đa nguyên
đa đảng, số c̣n lại khoác cái áo cộng sản nhưng trong ḷng th́ ở
phía bên kia. Hơn thế nữa, cái đa số lại có sức mạnh kinh tế vô
biên đến mức ta rời họ ra, chắc sống sẽ khó khăn, hay là không
sống nổi.
Kỳ lạ hơn nữa là bao nhiêu năm qua, chúng ta chỉ
được nói mặt đẹp của chủ nghĩa cộng sản, mặt xấu của chủ nghĩa
tư bản, nói ngược lại là đă coi như phạm tội.
Ta vẫn không thoát khỏi cái định kiến của ông,
cha: họ ta đều người tốt, làng ta hay hơn các làng khác, cái ǵ
của ta cũng tốt hơn của người. Nguy hiểm hơn là các nước tư bản
luôn có sức ép ta theo họ, mà ta không cưỡng lại được.
Thay đổi về kinh tế tất yếu đưa đến thay đổi về
chính trị.
Đa nguyên, đa dảng, tôi thấy nó cứ đến dần, ngoài
ư muốn của chúng ta.
4. Tôi chấp nhận đa nguyên, đa đảng, cũng mong
mỏi Đảng ta chấp nhận đa nguyên, đa đảng, với nhiều lư do:
Trước đây ta đă nói đến 3 ḍng thác, các ḍng
thác này lúc ấy như sóng thần có thể lôi kéo toàn thể nhân loại
vào trong ḷng nó. Gần một thế kỷ qua, nó tỏ ra không phải là
như thế.
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản, nó không dẫy chết và
nó vùng lên như áp đảo tất cả. Ta không thể tránh khỏi ḍng thác
này, trong khi đối nội ta nhiều bất cập quá, mà cái nguyên nhân
là do ta khư khư giữ cái gọi là chủ nghĩa xă hội, dù có thêm cái
đuôi kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN... cái khẩu hiệu
tù mù này cũng làm rơ sự suy yếu của ta. Ta cố tránh cái mà ta
không thể tránh khỏi, đó là điểm thứ nhất.
Thứ hai, xét cho cùng đa nguyên đa đảng, trong
thực tế có những ưu điểm có thể nâng cao kinh tế, văn hoá, đạo
đức của nhân dân ta.
Phản biện sinh ra chân lư. Ở chế độ họ, bao nhiêu
cuộc tranh căi đông người, ít người, việc lớn, việc nhỏ, trưng
cầu dân ư, bỏ phiếu để đi đến một kết luận. Có chân lư mới có
thành công.
Về con người, họ chọn lựa rộng răi từ toàn quốc
đến địa phương. Họ chọn người v́ mục đích công việc của sự phát
triển. Làm được việc, họ có cơ chế giữ, làm không được việc họ
có cơ chế loại trừ. Mà dù có thành công cũng chỉ làm việc có
thời hạn v́ xă hội luôn luôn phát triển, con người luôn lạc hậu
với t́nh h́nh. Thế là họ có nhân tài, không thể tham quyền cố
vị, luôn luôn mới và tiến bộ.
Họ coi trọng khoa học kỹ thuật, coi đây là động
lực của sự phát triển, biện pháp nâng cao đời sống... Họ chế
diễu chúng ta theo một chế độ mà đầu óc th́ rỗng tuếch, dạ dày
th́ lép kẹp.
Họ coi trọng luật pháp, họ giữ ǵn luật pháp để
tránh t́nh trạng có luật nhưng không được thực thi. Luôn luôn
hết nước này đến nước kia có việc Tổng thống, Thủ tướng phải
điều trần trước Quốc hội, bị luận tội, bị phế truất... bị phạt
tù. Luật pháp của họ chi tiết cả vào các mặt lặt vặt của cuộc
sống.
Bao trùm lên tất cả là họ có cơ chế dân chủ, h́nh
thức để dân nói lên ư nguyện, để dân quyết định các vấn đề lớn:
từ tự do hội họp, tự do phát biểu, đến tự do báo chí, tự do lập
Đảng, đến trưng cầu dân ư, đến bầu cử tự do... tóm lại một nền
tự do thực sự, phát động được nhân dân là yếu tố đi đến thành
công.
Tôi đă nghĩ nhiều về mặt trái nền dân chủ của họ:
cũng có lừa bịp, có tham nhũng, có gian lận bầu cử, mua phiếu...
thậm chí đến ám sát chính trị, biểu t́nh, xô xát vũ trang...
người ta kêu nước Pháp luôn biểu t́nh, đ́nh công, không sống
nổi... “Con người vừa là thần thánh, vừa là súc vật”, “cái huân
chương cũng có mặt trái” mà!
Cái tôi mong mỏi, cái tôi đề nghị là thể chế đa
nguyên đa đảng đích thực. Nếu các đảng phái gồm toàn những người
trí tuệ lùn tịt, đầy “xôi thịt”, thậm chí đến rước voi về dầy mồ
th́ độc đảng như Singapore thời ông Lư Quang Diệu c̣n hơn. Suy
cho cùng,
độc đảng sẽ đưa đến độc quyền, mọi độc quyền đều
đưa đến tha hoá, đó là căn bệnh măn tính, là bệnh hiểm nghèo với
vẻ bề ngoài như ổn định, yên b́nh nhưng cái chết được báo trước,
c̣n đa đảng là bệnh thời tiết, dù nó đau đớn, rên xiết, nhưng
con người vẫn tồn tại dù có lúc khoẻ lúc yếu. Xin đề nghị bỏ nội
dung của dự thảo: cấm đa nguyên, đa đảng. Tôi cho là quá hài
hước: người Việt Nam đa đảng th́ vào tù, người nước ngoài đa
đảng lại được rênh rang cờ biển đón tiếp.
5. Tôi nghĩ rằng Đảng cộng sản phải tồn tại. Điều
kiện là phải thay máu, thậm chí ghép tạng để có cuộc sống mạnh
khoẻ và lâu dài.
Lịch sử cận đại của Việt Nam không thể không tôn
vinh Đảng cộng sản. Đảng Cộng sản có một lịch sử oai hùng...
Không phải là Đảng làm nên lịch sử mà là nhân dân làm nên lịch
sử, nhưng dẫn dắt là Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản hiện có nhiều
người ưu tú, v́ lẽ này, lẽ nọ, vai tṛ của họ không nổi trội.
Với một hoàn cảnh mới, họ có thể là trụ cột. Dù bộ máy Đảng và
Nhà nước c̣n non trẻ có nhiều khuyết tật, những người cộng sản
có tấm ḷng đang suy nghĩ sẽ tự thay đổi, cải tiến và với kinh
nghiệm của ḿnh có thể làm cho bộ máy hữu hiệu. Hơn nữa, giữ
nguyên bộ máy nhà nước, ta sẽ b́nh tĩnh, im lặng chấn chỉnh
Đảng, chấn chỉnh bộ máy nhà nước, đi đến đích mà không gây hỗn
loạn, bê bối...
Đảng Cộng sản phải thay đổi tận gốc. Không phải
là chọn tên ǵ, thờ cái khẩu hiệu nào...
Trước tiên là về mặt đường lối, cái ǵ ta đang nói, xét là đúng,
th́ cần chọn lọc một vài điểm chốt, nói cho dễ hiểu, dễ làm...
mà ta gọi là chính cương. Cái nối tiếp, lợi dụng hoàn cảnh có
một không hai này Đảng loại trừ hết các phần tử cơ hội, xấu, vi
phạm điều lệ, vi phạm luật... bằng cách êm ả là giới thiệu tiêu
chuẩn để mọi đảng viên tự xin gia nhập đảng lại.
Có thời gian để họ suy nghĩ và ta xét kết nạp lại từ từ. Tin
rằng đảng viên xấu sẽ tự
giác rời khỏi Đảng.
Các ban chấp hành lâm thời ở Trung ương và từng
tỉnh, huyện ra đời ta củng cố từ trên xuống. Một số cán bộ chủ
chốt của Đảng hiện nay, một số người mới, với một nhận xét và
quan điểm gần nhau đứng ra lập Đảng mới, song song tồn tại với
Đảng hiện hữu.
Các đảng mới và đảng hiện nay kết nạp thêm đảng
viên mới. Ban chấp hành lâm thời Trung ương củng cố ban chấp
hành tỉnh và từ đó mà h́nh thành tổ chức Đảng từ trên xuống
dưới.
Và như thế là h́nh thành Đảng cầm quyền, đảng đối
lập.
Thể chế th́ cả thế giới họ đă có từ lâu. Ta xem
xét và học tập họ. Việc chuyển đổi chính trị là một quá tŕnh.
6.
Việc thiết lập thể chế đa đảng, là việc làm không
thể dừng được. Ta hiện nay suy thoái nặng nề không lối thoát,
c̣n có con đường nào khác đâu. Cả thế giới một đường, một ḿnh
ta một hướng th́ thật là quá lạ, mà cái hướng của ta lại mù mờ,
ngay trong nội bộ cũng không thông suốt.
Thiết lập thể chế đa dảng là việc làm sáng suốt,
một lựa chọn đúng đắn.
Tôi nghĩ không hề có tự ti, mặc cảm v́ lư luận về
đa nguyên là trí tuệ của nhân loại, là thành quả sự phát triển
của loài người. Ta học là học bài học của nhân loại, không phải
là theo Mỹ, theo Pháp.
7. Chỉ cần Đảng ta chấp nhận đa đảng, ban bố các
đạo luật cần thiết. Mọi việc lúc đầu có khó khăn, sau quen dần.
Hơn nữa thể chế đa đảng đă được không biết bao nhiêu nước, từ
mấy trăm năm nay đă làm. Bài học không thiếu.
Qua một thời gian, các cuộc bầu cử dân chủ và
công bằng trong Đảng và ngoài nhân dân sẽ xác định Đảng nào nắm
quyền, ai là người đứng đầu đất nước.
Thể chế kinh tế đă thay đổi. Thể chế chính trị
thay đổi tiếp. Một vận hội mới cho đất nước được mở rộng, đất
nước sẽ đạt được mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xă hội công
bằng, dân chủ và văn minh./.
*
Tôi không có ư định xấu đả kích cá nhân. Việc nói
về hai ông Hồng Hà và Nguyễn Khoa Điềm chỉ là dẫn chứng để chứng
minh nhận xét của tôi. Tôi rất lo lắng về hai ông. Từ hai ông,
ta có thể có cương lĩnh không được rơ ràng. Tôi gửi kèm hai tài
liệu mới nhất về hai ông để làm tài liệu đối chứng.
Tháng 9/2005.
Trần Lâm
__________________________________________________________________
Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
--------------------------
Hải Pḥng, ngày 12 tháng 10 năm 2005.
Kính gửi: Đại hội Đảng X,
Ban chấp hành Trung ương khoá IX
Tôi là Trần Lâm, 80 tuổi, hiện là luật sư Đoàn
luật sư Hải Pḥng, vào Đảng 14-7-1947,
trú tại 14/97 Mê Linh, Hải Pḥng, ĐT: 031.630.304.
Dựa theo Điều lệ Đảng, với ư thức trách nhiệm trí
óc Đại hội, tôi xin kính gửi những ư kiến đóng góp, mong Đại hội
và những vị có trách nhiệm xem xét.
Dựa theo những thông tin mà tôi nhận được th́
hiện nay, trong Đảng, trong giới trí thức, trong các cán bộ lăo
thành, có nhiều ư kiến khác nhau, khác với kết luận của Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 12, trên những vấn đề quan trọng nhất,
có quan hệ đến sự tiến lên hoặc thụt lùi của đất nước, dẫn đến
sự tồn vong của Đảng.
Dư luận cho rằng cứ giữ nguyên những kết luận của
Hội nghị Trung ương lần thứ 12, th́ chắc chắn đất nước sẽ ngày
càng tụt hậu xa hơn, uy tín của Đảng sẽ c̣n giảm sút nhanh hơn.
Tôi đề nghị Ban chấp hành Trung ương hăy v́ lợi
ích của dân tộc, v́ sinh mệnh của Đảng, cần tổ chức thảo luận
rộng răi, không chỉ trong nội bộ Đảng mà ra cả ngoài quần chúng:
trong giới trí thức, cán bộ lăo thành, cựu chiến binh, các doanh
nhân, trong tầng lớp thanh niên... Lẽ dĩ nhiên, cũng cấn nhấn
mạnh ư thức xây dựng và tinh thần cởi mở, dẹp mọi lo ngại mới
mong cuộc trưng cầu có được sự đóng góp chân thành và bổ ích.
Xin các đồng chí nhận ở tôi lời chào chân thành
và mong mỏi ư kiến của tôi được các đồng chí dành thời giờ xem
xét dủ chỉ là xem xét sơ lược.
Kính
Trần Lâm
Theo thông lệ, thay cho thông tin về nhân thân,
tôi xin gửi phiếu cá nhân do cơ quan cấp cho tôi trước khi về
hưu để tiện việc theo rơi.