Lật
tẩy việc mạo danh UNESCO
Để lường gạt Quốc tế và 84 triệu Dân VN suốt 15 năm qua
&
1. Về Chủ Tịch Hồ Chí Minh
Phương Nam – Australia
‘‘Bao nhiêu sao sáng bấy nhiêu anh hùng v́ dân, mà bác Hồ ngôi sao sáng vô
ngần, cuộc đời của bác chói ngời gương người cộng sản, quyết làm theo lời bác
dạy khuyên. Quê hương yêu dấu Bắc – Nam chung một ḍng máu, đoàn kết bên nhau
đàn cháu ngoan của bác Hồ,…, nguyện xứng cháu của bác Hồ Chí Minh!’’.
Có thể nói rằng không ai là người Việt Nam lại không biết đến CT Hồ Chí Minh,
các thế hệ thanh, thiếu niên, nhi đồng lại càng được giáo dục kỹ lưỡng về ông.
Những bài hát như trên là xuất hiện ở mọi lúc mọi nơi, dù ông mất đă hơn 30
năm nay. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách giáo khoa các
cấp cũng luôn nói tới ông từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ. Tất cả đều nhằm mục
đích làm cho mọi người hiểu rằng: không bao giờ được quên công lao to lớn của
ông đối với dân tộc và kêu gọi hăy ‘‘Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo
gương của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.’’.
Tài liệu “Giáo Dục Công Dân lớp 7”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục năm 1997, trang 53
có một bài đọc thêm nhan đề: Tinh Hoa Của Dân Tộc Việt Nam Góp Phần Vào Tinh
Hoa Thế Giới, nội dung khẳng định một sự kiện là: vào năm 1990, nhân dịp kỷ
niệm lần thứ 100 ngày sinh của Hồ Chủ Tịch, Tổ Chức Giáo Dục, Khoa Học Và Văn
Hóa của Liên Hiệp Quốc, tức UNESCO (United Nations Educational, Scientific and
Cultural Organization), đă ra một Nghị quyết công nhận ông là danh nhân văn
hóa thế giới. Trong đó có đoạn: ‘‘Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hiện tượng kiệt
xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đă cống hiến trọn đời ḿnh cho sự nghiệp
giải phóng cho nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các
dân tộc v́ ḥa b́nh, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ…’’. (Trích nghị quyết
UNESCO, sách đă dẫn).
Trong bài Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Danh Nhân Văn Hóa Của Nhân Loại, Bộ trưởng
ngoại giao Nguyễn Dy Niên, nguyên chủ tịch ủy ban UNESCO Việt Nam, viết vào
tháng 5 năm 2000 vừa qua cũng tiếp tục khẳng định như vậy. (xem website:
http://www.cpv.org.vn/hochiminh/cuocdoisunghiep/docs/nguyendynien_danhnhanvanhoa.htm
Dù có ư đọc kỹ nhưng tôi không thấy cả hai bài viết trên ghi cụ thể đấy là
Nghị quyết số mấy? Kư ngày nào và ai đă kư nó như thông thường đối với việc
trích dẫn một Nghị quyết quan trọng như thế ? Tuy nhiên ở nước ngoài, v́ có
điều kiện được tiếp cận với những nguồn tài liệu khác th́ tôi lại thấy những
bài viết quả quyết rằng: không hề có một Nghị quyết nào như vậy cả! Điều đó có
nghĩa là CT Hồ Chí Minh chưa bao giờ được UNESCO công nhận là danh nhân văn
hóa thế giới, mà ông mới chỉ có tên trong danh sách được đề cử, rồi dừng lại ở
đó thôi.
Nhận thấy đây là một vấn đề lớn nên làm rơ, v́ dù ai có chấp nhận hay không
th́ trong thực tế ông cũng đă là nhân vật lịch sử của Việt Nam trong thế kỷ
thứ 20 vừa qua. C̣n cái lịch sử ấy đă và sẽ tiếp tục diễn ra như thế nào? Tốt
hay xấu? v.v… th́ đó không phải là mục đích chính mà tôi muốn đề cập đến trong
bài viết này.
Ngoài ra c̣n là vấn đề bức xúc hơn, nó liên quan đến sự nghiệp trồng người của
dân tộc: những học sinh lớp 7 kia rồi sẽ lớn lên và với thời đại bùng nổ thông
tin như ngày nay, th́ việc các em được tiếp cận với những nguồn tài liệu khác
là rất dễ dàng. Khi ấy liệu các em c̣n biết tin vào đâu? Nguồn nào đúng, c̣n
nguồn nào sai? Nếu chúng tự phát hiện ra sự thật lại ngược hẳn với những ǵ đă
được dạy dỗ từ nhỏ đến lớn th́ sao? Từ đó rất có thể chúng sẽ oán trách các
thế hệ cha anh đă lừa dối chúng, rồi cứ theo cái vết ṃn ấy, biết đâu chúng
lại đi lừa dối tiếp những thế hệ sau, th́ hậu quả sẽ tai hại biết nhường nào?
Cả một Dân tộc cứ đi lừa dối lẫn nhau măi như vậy th́ Dân tộc ấy sẽ đi về đâu?
(1)
Chính v́ những lư do trên mà ở phần dưới đây, tôi xin được nêu ra một số câu
hỏi liên quan đến thân thế và sự nghiệp của CT Hồ Chí Minh, nhưng đến nay vẫn
chưa được làm rơ. Tôi rất mong các nhà nghiên cứu ở cả trong và ngoài nước,
vốn quan tâm đến lịch sử Việt Nam hiện đại, nhất là đến thế hệ trẻ Việt Nam
tương lai hăy giải đáp giúp. Tôi nghĩ rằng đây không chỉ đơn thuần là mối quan
tâm của riêng tôi - một độc giả, mà c̣n là của hàng chục triệu phụ huynh học
sinh đang có con cháu ḿnh đi học ở Việt Nam. Mặt khác theo tôi, nếu những
việc mới diễn ra trong thế kỷ 20 vừa qua, thậm chí chỉ mới 11 năm nay thôi mà
chúng ta không làm rơ được, th́ nói ǵ đến việc đi t́m hiểu, xác minh những
chuyện lịch sử xa vời có từ hàng trăm, hàng ngàn năm trước? Những câu hỏi của
tôi là:
1 - Có phải trước khi xuống tầu buôn Pháp làm phụ bếp vào ngày 5 tháng 6 năm
1911, th́ chàng trai 21 tuổi Nguyễn Tất Thành, với tên mới là Văn Ba đă có sẵn
ư định ra đi t́m đường cứu nước hay chưa? Nếu anh Ba đă có sẵn mục đích rơ
ràng như sau này anh kể lại: ‘‘…Tôi muốn được đi ra ngoài, xem nước Pháp và
các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào
ta…’’ th́ thật đáng quư biết bao. Tuy nhiên nó lại mâu thuẫn với một sự kiện
sau do những tài liệu ở nước ngoài viết rằng: Ngày 15.9.1911, khi vừa đặt chân
đến cảng Mác-Xây (Marseille) – Pháp, tức là chỉ hơn 3 tháng sau khi rời bến
Nhà Rồng - Sài G̣n, th́ anh Thành đă vội vàng viết đơn xin được vào học nội
trú Trường Thuộc Địa (Ecole Coloniale). Nhưng đă bị nhà trường từ chối với lư
do: Đơn không được xét v́ anh là đối tượng di chuyển tự túc đến Pháp chứ không
phải được tuyển chọn từ xứ Đông Dương sang, theo như quyết định ban hành ngày
30.4.1910 của Bộ Thuộc Địa Pháp. (lá đơn này do ông Nguyễn Thế Anh sưu tầm
được trong văn khố Pháp ngày 2.2.1983, có sao chụp lại cẩn thận. Cũng cần lưu
ư rằng theo những tài liệu trong nước th́: Trường Thuộc Địa là nơi chuyên đào
tạo những tên Việt gian phản động, tay sai của thực dân Pháp lúc bấy giờ.).
Nếu câu chuyện trên là có thật th́ sẽ có thêm một câu hỏi hệ quả là: nếu năm
1911 Trường Thuộc Địa chọn anh Thành, th́ 9 năm sau anh có c̣n chọn con đường
của Lênin cho cách mạng Việt Nam nữa hay thôi? (theo suy luận chủ quan của tôi
th́ có lẽ là anh Thành sẽ thôi!).
2 - Phải chăng lư do chính rời nước ra đi của anh Thành là bởi trước đó một
năm, trong gia đ́nh anh đă có một biến động lớn diễn ra? Đó là: năm 1910, cha
anh là ông Nguyễn Sinh Huy, tức cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1863 – 1929), tri
huyện B́nh Khê - B́nh Định, trong một cơn say rượu đă sai người đánh chết anh
nông dân tên là Tạ Đức Quang bằng roi và gậy. Sở mật thám Pháp sau khi điều
tra xong đă kết ông vào tội ngộ sát khi đang say rượu. Hội Đồng Nhiếp Chánh
tại Huế sau đó đă ra quyết định kỷ luật: hạ bốn bậc trong ngạch quan lại thời
bấy giờ, bị triệu hồi về Huế, rồi cuối cùng là ông bị sa thải luôn. (bà Thanh
con gái ông cũng kể : ông là người nghiện rượu nặng, hồi nhỏ bà vẫn thường bị
bố đánh rất đau bằng roi, có khi lại c̣n quẳng cả roi đi để đánh bằng tay.).
Một số tài liệu lịch sử trong nước th́ viết rằng: “…Cụ Sắc nhà nghèo, ham học,
thông minh, thi đậu phó bảng,‘‘bị ép’’ ra làm quan. Có lần cụ nói: “Quan
trường là chốn nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn.”. Cụ thường
làm những việc trái ư bọn quan lại, nên bị cách chức.”(!?).
Như vậy là giữa hai nguồn tài liệu đă có những điểm mâu thuẫn lớn cần làm rơ,
nhất là lư do ra khỏi chốn quan trường của ông: phải chăng ông ra khỏi đấy v́
như ông nói là không muốn bị ‘‘nô lệ hơn’’ trong số những người nô lệ? Hay là
bởi rượu đă đưa ông ra? Và v́ bị ra khỏi chốn ấy nên ông lại càng uống nó
nhiều hơn? (nếu đúng là do say rượu làm chết người ta, th́ cũng khó ḷng mà
làm vừa ư ai được!).
Cũng qua những sách báo ở trong nước kể lại th́ : khi từ chiến khu Việt Bắc
trở về Hà Nội sau chiến thắng Điện Biên Phủ (tháng 10.1954), ông đi thăm rất
nhiều vùng quê trên miền Bắc, đi ra nước ngoài, v.v… Nhưng riêng quê ông th́
măi tới ngày 16.6.1957, tức là phải gần 3 năm sau ông mới về thăm lần đầu. Có
một cái ǵ đó không ổn trong tinh thần v́ nước quên … quê của ông không? Hay
ông ngại cán bộ, chiến sỹ và nhân dân biết tấn bi kịch trên của gia đ́nh ḿnh?
3 - Ai là người đă viết cuốn Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch
vào mùa xuân năm 1948? Cuốn sách ghi tác giả tên là Trần Dân Tiên. Năm 1985,
giáo sư Hà Minh Đức đă xuất bản cuốn Những Tác Phẩm Văn Của Chủ Tịch Hồ Chí
Minh, trong đó có đoạn: ‘‘…Đáp lại t́nh cảm mong muốn của đồng bào và bạn bè
trên thế giới. Hồ Chủ Tịch với bút danh Trần Dân Tiên đă viết tác phẩm Những
Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch…’’. (Hà Minh Đức, sách đă dẫn, Tr
132, NXB Khoa Học Xă Hội, Hà Nội, 1985).
Như vậy có nghĩa là tác giả Trần Dân Tiên và Hồ Chủ Tịch thực ra chỉ là một
người. Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn, người biết rất rơ ông từ những năm 30, khi
cả hai cùng học tập và làm việc ở Liên Xô đă viết lời tựa cho cuốn sách cũng
đă khẳng định như vậy. Tôi tin là hai giáo sư ấy viết đúng, v́ 2 lẽ: Thứ nhất,
đó là việc rất quan trọng mà nếu nói sai th́ chính hai giáo sư có thể sẽ bị
mang họa, chắc chắn là hai ông đă cân nhắc rất kỹ trước đó. Thứ hai, cứ theo
tư duy lôgic mà suy luận: nếu ông Trần Dân Tiên và cụ Hồ là hai người th́ nay
ông Trần Dân Tiên kia đâu? C̣n sống hay đă chết? Nếu sống th́ bao nhiêu tuổi
rồi? Vợ, con ra sao? Nếu chết th́ chết vào năm nào? Hiện chôn ở đâu? v.v…
C̣n một khi lại chỉ là một người th́ xét theo khía cạnh nào cũng đều không ổn.
Chúng ta hăy nghe một vài đoạn Chủ Tịch Hồ Chí Minh viết về … Hồ Chủ Tịch như
sau : ‘‘…Bác Hồ của chúng ta vô cùng khiêm tốn; Bác không muốn kể cho ai nghe
về hoạt động của ḿnh; rồi Bác Hồ được nhân dân ta coi là cha già của dân tộc;
Bác c̣n vĩ đại hơn Lê Lợi, Trần Hưng Đạo v́ đă đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên xă
hội chủ nghĩa…’’! và nữa: ‘‘…Một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta với đức
tinh khiêm tốn nhường ấy và đang lúc bề bộn biết bao nhiêu công việc, làm sao
có thể kể cho tôi nghe b́nh sinh của Người được?…’’! (Trần Dân Tiên, sách đă
dẫn). Cũng cần lưu ư rằng vào năm 1948 th́ ‘‘vị cha già của dân tộc’’ ấy mới
có 58 tuổi !
Trong thực tế nhân loại cũng đă có những người dùng quyền lực hay tiền bạc để
bắt người khác ca ngợi ḿnh. Nhưng nếu Hồ Chủ Tịch lại tự ḿnh đứng ra làm
việc đó th́ quả là chuyện … xưa nay hiếm! Theo tôi chỉ với một‘‘đóng góp’’ấy
thôi th́ cũng đủ để ông vi phạm hàng loạt những giá trị văn hóa mà ông cha ta
từ bao đời nay vẫn hằng nâng niu, trân trọng.
Tôi cũng không rơ là những người đang‘‘giữ ǵn và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí
Minh’’có coi đây như là một trong những‘‘yếu tố cấu thành’’ nên tư tưởng của
ông hay không? Và giả sử ở dưới cơi âm kia, nếu ông gặp các vị cách mạng đàn
anh khác như Stalin, Mao Trạch Đông, v.v…th́ không nói. Nhưng nếu không may,
ông lại gặp Trần Hưng Đạo, Lê Lợi th́ biết ‘‘ăn, nói’’ thế nào cho phải với
những vị anh hùng chân chính của dân tộc ấy đây?
Một điều nữa đáng lo ngại hơn: trong cuốn Dàn Bài Tập Làm Văn lớp 7 (NXB Giáo
Dục 1997, Tr 39). Tức là 12 năm, sau khi tác phẩm của giáo sư Hà Minh Đức nói
trên được xuất bản, th́ các tác giả biên soạn cuốn sách giáo khoa kia vẫn tiếp
tục mập mờ, mà không chịu viết thẳng ra đấy là hai hay chỉ có một người. Nếu
cứ cung cấp thông tin và bắt các thầy cô giáo dạy học sinh theo kiểu này, th́
đến ngay như người lớn cũng c̣n bị nhiễu loạn chứ nói ǵ đến trẻ con?
Hồi đất nước c̣n chiến tranh, tôi đă được một sỹ quan QĐND Việt Nam cho xem
cuốn nhật kư của anh, trong đó có đoạn:
‘‘Ngày 2 tháng 9 năm 1969.
Hôm nay Đài Tiếng Nói Việt Nam báo tin Bác Hồ bị bệnh nặng. Bác ơi! Chúng cháu
hiểu là chúng cháu thật có lỗi với Bác, v́ đất nước đến lúc này vẫn c̣n bị
chia cắt. Đơn vị của chúng cháu đă được vinh dự nhận lệnh vào miền Nam chiến
đấu, chỉ vài hôm nữa thôi là lên đường. Cháu xin hứa với Bác rằng: dù phải
trải qua gian khổ, hy sinh đến đâu th́ chúng cháu cũng quyết tâm hoàn thành
mọi nhiệm vụ mà đảng và quân đội giao phó; góp phần giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ Quốc, để sớm được đón Bác vào thăm đồng chí, đồng bào trong ấy…’’.
Cũng cùng một tinh thần đó, từ miền Nam, nhà thơ Lê Anh Xuân viết ra:
Gửi miền Bắc ḷng miền Nam chung thủy
Đang xông lên chống Mỹ tuyến đầu…
Nghĩa là tất cả đều hướng lên Ba Đ́nh tràn đầy một niềm tin trong sáng, một
niềm kính trọng vô biên. Bởi v́ ở nơi ấy ‘‘có Trung Ương Đảng, có bác Hồ’’
luôn chỉ lối dẫn đường cho cách mạng Việt Nam tiến lên. Theo tôi, nếu trong
một cuộc chiến tranh, giả sử tất cả những yếu tố khác đều ngang nhau, th́ bên
nào có thêm yếu tố tin tưởng và kính yêu lănh tụ như trên là sẽ rất có lợi thế
để giành chiến thắng.
Thế nhưng, nếu v́ muốn trở thành một‘‘ngôi sao sáng vô ngần’’ mà chính vị lănh
tụ lại cho ra đời một sản phẩm kiểu như Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của
Hồ Chủ Tịch, th́ lại là điều không thể chấp nhận được. Bởi v́ đó thực chất là
quan điểm giành chiến thắng bằng mọi giá, mọi cách. Kể cả những cách rất thiếu
tử tế: chủ động đi hủy hoại những giá trị văn hóa của nhân loại nói chung và
dân tộc nói riêng mà hậu quả để lại sẽ rất nặng nề cho hậu thế. Bằng cách đó ở
một giai đoạn nhất định, có thể ông cũng tự đưa được uy tín của ḿnh lên vị
trí rất cao trong ḷng một bộ phận dân tộc. Song nếu xét về lâu về dài, khi
phần lớn đă nhận ra sự thật th́ cái h́nh ảnh: ‘‘Cả đoàn quân tiến theo Người
như thác đổ’’ sẽ trở nên phũ phàng và thật đáng xấu hổ với bạn bè thế giới.
Tôi cũng được biết một câu chuyện sau: gia đ́nh ấy có 2 anh em; người anh đi
bộ đội, c̣n người em gái ở lại nhà và lấy chồng. Năm 1954 khi người anh từ
chiến khu trở về th́ em gái ḿnh đă cùng chồng di cư vào Nam. Sau gần 30 năm
xa cách, hai anh em mới được gặp lại nhau, khi người em ra Bắc bốc mộ cho
chồng; ông bị chết trong thời gian học tập cải tạo ở ngoài ấy. Cô em nói trong
nước mắt giận hờn: ‘‘ Tại anh và những người cộng sản như anh nên bây giờ em
gái anh khổ, các cháu của anh phải mồ côi cha.’’. - Xúc động không kém, người
anh nói: ‘‘ Thôi em ạ, đằng nào th́ mọi việc cũng lỡ rồi. Em cứ nghĩ thế này:
nếu một người em không hề tin yêu, kính trọng mà làm em đau khổ th́ đấy chỉ là
một nỗi khổ đau. Nhưng nếu đấy lại là người em hằng kính trọng, tin yêu bao
năm trời, kể cả sẵn sàng đem cuộc đời của ḿnh ra để hy sinh, cống hiến, mà
nay em lại phát hiện ra rằng thực chất sự tin yêu, kính trọng ấy của ḿnh lại
bắt nguồn từ sự giả dối của người kia, th́ lúc ấy nỗi đau khổ trong em sẽ phải
nhân lên gấp 5, gấp 10. Đấy chính là tâm trạng của anh lúc này, em ạ.’’. Trên
đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta trong hơn nửa thế kỷ qua, đă có bao
nhiêu con người và gia đ́nh phải lâm vào hoàn cảnh tương tự như vậy?
4 - Một vài điểm khác cần xác minh :
Trong số những người Việt Nam hoạt động ở Paris vào những năm 1910s -1920s là
chỉ có duy nhất 1 ông Nguyễn Ái Quốc hay là có đến 5 ông Nguyễn Ái Quốc?
Vai tṛ của chàng trai Nguyễn Ái Quốc – Nguyễn Tất Thành trong các hoạt động
như : thành lập Hội Người Việt Nam Yêu Nước, soạn thảo Bản Yêu Sách 8 Điểm Gửi
Hội Nghị Véc - Xây năm 1919, ra báo Người Cùng Khổ năm 1922, viết Bản Án Chế
Độ Thực Dân Pháp năm 1925, v.v … là tới đâu? Liệu có đúng như các sách báo
trong nước hoặc chính CT Hồ Chí Minh đă kể lại hay không? Bởi v́ nếu theo các
tài liệu ‘‘ngoài luồng’’ th́ :
- Hội Người Việt Nam Yêu Nước đă được thành lập tại Pháp từ năm 1914, mà tiền
thân của nó là Hội Đồng Bào Thân Ái c̣n có trước đó nữa. Đấy là do công lao
của những ông Nguyễn Ái Quốc khác, chứ anh Thành lúc ấy lại không có mặt ở
Pháp mà là đang mưu sinh ở Anh! (anh Thành ở Anh từ cuối năm 1913 đến 1917.
Cuối năm 1917 anh mới rời Anh để sang Pháp và là thường trú nhân ở đấy đến năm
1923 th́ sang Liên Xô.).
- Bản Yêu Sách 8 Điểm gửi hội nghị Véc - Xây có rất nhiều điểm trùng với những
bản yêu sách đă có trước đó của cụ Phan Chu Trinh (1872-1926) gửi khâm sứ
Trung kỳ, gửi toàn quyền Đông Dương và gửi chính phủ Pháp. Như vậy có phải như
CT Hồ Chí Minh đă kể: ‘‘…Ư kiến đưa yêu cầu do ông Nguyễn đề ra, nhưng lại do
luật sư Phan Văn Trường viết, v́ lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng
Pháp…’’. (Trần Dân Tiên, sách đă dẫn). Hay những ư kiến ấy phải là của cụ Phan
Chu Trinh mới đúng? V́ cụ Phan đă có mặt và hoạt động ở Paris liên tục trước
đó, cụ cũng là sáng lập viên của Hội Đồng Bào Thân Ái. (cụ Phan thi đậu phó
bảng năm 1901, cùng khóa với cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh anh Thành.)
- Báo Người Cùng Khổ (Le Paria) là do những‘‘ông Tây’’(người Pháp) lập ra, chứ
đâu phải của một‘‘ông ta’’nào như sự xác nhận sau: ‘‘Ban biên tập báo Người
Cùng Khổ do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút, giao cho Nguyễn Thế
Truyền là một Việt kiều được anh Nguyễn giới thiệu vào Hội Hiệp Thuộc…’’.(?)
(Trần Dân Tiên, sách đă dẫn).
Bây giờ giả sử đúng là có ông Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút tờ
báo kia đi, nhưng chính xác là ông Nguyễn Ái Quốc nào? V́ ở Paris lúc ấy, như
trên đă nói là có tới 5 ông Nguyễn Ái Quốc, c̣n gọi là nhóm Ngũ Long gồm các
ông: Phan Chu Trinh, sang Pháp năm 1911/phó bảng; Phan Văn Trường/1908/luật
sư; Nguyễn Thế Truyền/1910/cử nhân; Nguyễn An Ninh/1917/năm thứ 2 trường luật;
Nguyễn Tất Thành/1917/tiểu học. Ai ở trong nhóm viết bài cũng kư tên là Nguyễn
Ái Quốc.
Ngoài ra chúng ta cũng phải t́m hiểu thêm cả việc ai đă giới thiệu ai? V́ anh
Thành mới chân ướt chân ráo đến Pháp, th́ nào đă quen biết ai mà giới thiệu
cho ông Nguyễn Thế Truyền - một người đă ở đấy lâu hơn, bằng cấp cũng cao hơn
anh? (ông Truyền có 2 bằng cử nhân văn chương và hóa học, có vợ người Pháp.)
- Cũng theo Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch th́ :
‘‘Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển Bản Án Chế Độ Thực Dân
Pháp’’, thế nhưng với điều kiện thông tin lúc đó, th́ theo tôi chính quyển này
mới là quyển ông ít có cơ hội tham gia nhất. Bởi v́ cả tài liệu trong và ngoài
nước đều xác nhận rằng: cuốn sách được xuất bản lần đầu tại Pháp vào năm 1925,
nhưng lúc ấy th́ ông Nguyễn không có mặt ở Pháp, mà là đang hoạt động ở Trung
Quốc! (ông ở đấy từ tháng 11.1924 đến tháng 5.1927 ông mới rời khỏi đấy để
sang lại Liên Xô.).
Hơn nữa, cứ giả sử các tài liệu đều viết sai về năm xuất bản, th́ cũng cần lưu
ư là: chính anh Thành cũng đă phải công nhận rằng anh là người có bút lực yếu
ở trong nhóm, nếu như không muốn nói là yếu nhất. V́ anh Thành chỉ mới tốt
nghiệp trường tiểu học Pháp – Việt Đông Ba, Huế niên khoá 1906-1907. Tháng
9.1908 anh vào học trường Quốc Học Huế, nhưng chưa đầy 1 năm sau (tháng
5.1908) th́ đă bị đuổi khỏi đấy rồi. Tức là tấm bằng Thành Chung đối với anh
cũng vẫn c̣n xa vời! (xem
http://www.cpv.org.vn/hochiminh/tieusu/thoinienthieu/index.htm).
Tiện đây, chúng ta cũng nên t́m hiểu thêm cả việc có đúng là anh Thành đă tốt
nghiệp bậc tiểu học đạt hạng ưu, như trang tiểu sử trên đă viết hay không? V́
tấm bằng học vấn duy nhất mà anh đạt được trong đời ấy th́ nay không ai thấy.
Tuy nhiên nếu chỉ căn cứ vào chữ viết th́ cũng khó có cơ sở để kết luận rằng
đây là một học sinh giỏi được. Bởi một lẽ đơn giản là: ở bậc tiểu học thời ấy
hay thời nay cũng vậy, và dù các thầy cô giáo có theo trường phái ta hay tây
học ǵ, th́ cũng rất chú trọng đến việc đánh giá chất lượng bài làm của thí
sinh qua chuyện viết chính tả, nhưng rất tiếc là về điểm này th́ anh Thành lại
quá yếu. (cứ nh́n vào các bút tích của Hồ Chủ Tịch cũng đủ thấy.).
Cuối cùng, giả sử rằng các thầy giáo hồi ấy đă châm chước cho chuyện viết chữ
xấu của anh, và tấm bằng hạng ưu kia là có thật, th́ cũng không có ǵ đáng kể
mà phải làm ầm ĩ. V́ khi giành được nó th́ anh Thành cũng đă 17 tuổi rồi (1890
– 1907).
Theo tôi, với bất cứ ai, dù có là vĩ nhân đi chăng nữa nhưng nếu chỉ dựa trên
nền tảng học vấn ấy, th́ nội việc đi tiếp thu tư tưởng của người khác cũng đă
là quá sức rồi, chứ nói chi đến việc c̣n h́nh thành nên được một cái ǵ đó gọi
là “tư tưởng” cho ḿnh, rồi hôm nay lại c̣n bắt cả một dân tộc phải đi theo
(!?).
Nói tóm lại, những điểm c̣n chưa rơ ràng trong thân thế và sự nghiệp của CT Hồ
Chí Minh là c̣n rất nhiều. Một lần nữa tôi rất mong các nhà nghiên cứu, các sử
gia ở cả trong và ngoài nước hăy v́ tính trung thực, khách quan của lịch sử và
nhất là v́ thế hệ trẻ Việt Nam tương lai, để xác minh cho được chúng càng sớm
càng tốt.
Viết về CT Hồ Chí Minh, lại lật ngược những vấn đề khá phức tạp và tế nhị lên
như thế này, tôi hiểu rằng sẽ làm cho nhiều người vốn tôn kính ông đau ḷng.
Nhưng theo tôi, thà làm như vậy một lần cho rơ c̣n hơn là cứ dễ dăi với nhau,
để rồi tự làm khổ nhau và làm khổ măi con cháu chúng ta sau này.
5 - Một ư kiến đề nghị:
Như ở đầu bài đă nêu, từ 11 năm qua đă có rất nhiều bài viết với hai xu hướng
ngược nhau: thứ nhất, khẳng định rằng CT Hồ Chí Minh đă được UNESCO chính thức
công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Thứ hai là phủ nhận nó.
Nay tôi xin có một ư kiến đề nghị : dù ai thuộc xu hướng nào cũng được, nhưng
nếu đă có tấm ḷng quan tâm, mong rằng hăy cùng nỗ lực giải quyết dứt điểm vấn
đề này. Đối tượng tiếp cận chính là UNESCO, đây là vị trọng tài khách quan, vô
tư và hữu hiệu hơn cả. Sẽ có hai khả năng xảy ra:
a) Nếu CT Hồ Chí Minh đă thực sự được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa
thế giới th́ với tinh thần trung thực, những cơ quan nào đă đưa tin sai lạc
trước đó cần ra một bản tin đính chính lại. Đó cũng là hành động thể hiện sự
tôn trọng các độc giả, thính giả của ḿnh .
b) Nếu UNESCO chưa hề có một quyết định như giả thiết a) nêu trên, th́ cá nhân
hay tổ chức nào có điều kiện tiếp cận được với tổ chức ấy, cần làm sao có được
một văn bản phủ nhận chính thức của họ. Dù chỉ là vài ḍng thôi, nhưng nó sẽ
có tác dụng thuyết phục mọi người hơn là hàng chục, hàng trăm bài báo mà chúng
ta cứ cố gắng viết tới viết lui, xong lại không có ai đứng ra làm trọng tài.
Đây cũng là trách nhiệm của mỗi người nhằm giúp UNESCO. Nó cũng là quyền lợi
của UNESCO cần phải tự bảo vệ ḿnh, khi có ai hoặc quốc gia nào lợi dụng uy
tín của họ để làm những việc khuất khúc. Tôi cũng rất mong rằng nếu trường hợp
là b) th́ những nhà biên soạn sách giáo khoa ở Việt Nam cần rà soát lại toàn
bộ những điểm liên quan và điều chỉnh chúng cho đúng sự thật. (Đă có câu trả
lời rơ ràng. Xem tài liệu của Trần Hải, USA, kèm dưới đây).
6 - Một ư kiến ủng hộ:
Trong bức thư ngỏ viết vào tháng 5.2001 vừa qua của 2 tác giả Trần Khuê và
Nguyễn Thị Thanh Xuân, gửi tân Tổng bí thư ĐCS Việt Nam Nông Đức Mạnh có một ư
kiến đề nghị là: Hăy hỏa táng thi hài của Hồ Chủ Tịch. Bức thư giải thích
rằng: những người lănh đạo đảng và nhà nước vào thời điểm CT Hồ Chí Minh qua
đời đă vi phạm ư nguyện ghi trong di chúc của người quá cố. (trong đó ông đă
viết rơ ràng như sau: “…Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là hỏa táng.
Tôi mong rằng cách hỏa táng sau này sẽ được phổ biến, và như thế đối với người
sống đă tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện th́
điện táng càng tốt hơn…”.). Và nay th́ những người lănh đạo mới cần phải sửa
lại sai lầm ấy, nếu cần th́ tổ chức một cuộc Trưng Cầu Dân Ư về vấn đề này.
( xem website: http://www.thongluan.org/VN2/viet_frame.htm, 4.6.2001).
Hai tác giả cũng phân tích thêm rằng: h́nh thức ướp xác, tức chôn nổi là hoàn
toàn không phù hợp với phong tục tập quán của người Việt Nam, vốn quen với hai
h́nh thức phổ biến là địa táng hoặc hỏa táng. Rồi cảnh báo là nếu không nghiêm
chỉnh tuân theo di chúc của người đă khuất, th́ gia đ́nh ḍng họ và đất nước
luôn bị‘‘sái’’, không ngóc đầu, ngóc cổ lên được. Ngoài ra c̣n là chuyện lăng
phí tiền bạc: để duy tŕ hệ thống lăng CT Hồ Chí Minh th́ hàng năm phải tốn
kém 100 tỷ đồng VN, dù đấy là tiền thuế đóng góp của nhân dân hôm nay hay là
đi vay mượn của nước ngoài, th́ sau này con cháu chúng ta cũng phải nai lưng
ra trả nợ.
Tôi hoàn toàn ủng hộ ư kiến trên và tin rằng nguyện vọng của đa số nhân dân
Việt Nam hôm nay cũng là như vậy. Chúng ta chỉ cần thử làm một bài toán nhỏ:
để xoá đói giảm nghèo cho một hộ gia đ́nh nông dân, theo 2 tác giả là cần 5
triệu đồng VN tiền vốn, giả thiết mỗi hộ có 4 người. Như vậy tổng chi phí cho
công tŕnh ấy trong suốt 26 năm qua là 2600 tỷ đồng VN (không tính chi phí xây
lăng), là một số tiền rất lớn, đủ để giúp hơn 2 triệu người Việt Nam thoát
khỏi cảnh đói nghèo; c̣n nếu mỗi hộ cần 10 triệu đồng tiền vốn, th́ cũng giúp
được cho hơn 1 triệu người. Nhưng theo tôi, cái chính của vấn đề là sự lăng
phí kia rất vô lư, không đáng có.
Ngoài ra tôi cũng xin được bổ sung 1 ư kiến nữa, hy vọng rằng nó sẽ góp thêm
cơ sở để dân tộc cùng dứt khoát hơn với đề nghị trên của 2 tác giả. Ư kiến của
tôi liên quan đến khía cạnh kiến trúc của lăng:
Kể từ khi lăng được khánh thành nhân dịp quốc khánh mùng 2.9.1975 đến nay, th́
từ những người dân b́nh thường tới các kiến trúc sư, nhà xây dựng, v.v… từ Bắc
chí Nam mà tôi có dịp được tiếp xúc, phần lớn đều cho rằng: công tŕnh này
không có những đường nét của kiến trúc hiện đại, cũng lại rất nghèo tính dân
tộc. (mà chỉ được dựng nên bởi sự giàu quyết tâm của bộ chính trị ĐLĐ Việt Nam
lúc đó.).
Tức là nếu xét thêm về khía cạnh kiến trúc, th́ cũng không có giá trị ǵ đáng
kể để mà phải tiếc nuối nó nữa. Có lẽ v́ chạnh ḷng với công tŕnh quốc gia
khá nặng nề và đơn điệu này, ai đó đă sửa lại lời những câu đầu của bài hát
Viếng Lăng Bác (Nhạc Hoàng Hiệp, thơ Viễn Phương) mà thành: ‘‘Con ở miền Nam
ra thăm lăng Bác, con thấy lăng Ông đẹp hơn lăng Bác, trăm phần trăm,…’’!
(lăng Ông: lăng ông Lê Văn Duyệt - một vơ tướng đầu triều Nguyễn, lập tại khu
Bà Chiểu - Sài G̣n; trăm phần trăm = 100%.).
7 - Những lời thay cho kết luận:
Trong diễn văn đáp từ của nguyên Tổng bí thư ĐCS Việt Nam Lê Khả Phiêu đọc tại
Hà Nội ngày 18.11.2000 vừa qua, nhân dịp Tổng thống Mỹ lúc ấy là Bill Clinton
sang thăm Việt Nam có đoạn: ‘‘…Điều chắc chắn là trong thế kỷ 21, khoa học
công nghệ sẽ phát triển như vũ băo. Nhưng lại có một nghịch lư là hố ngăn cách
giữa nước giầu và nước nghèo lại ngày càng lớn. Ngày nay, tổng số tài sản của
hơn 300 tỷ phú trên thế giới bằng thu nhập của hơn 2 tỷ người ở các nước
nghèo…’’.
Đúng! đấy là thực tế, và người đọc hiểu ngay rằng ư ông muốn nhấn mạnh đến sự
bất công của một thế giới ngày càng bị phân hóa giầu – nghèo hôm nay. Nhưng
c̣n một thực tế nữa là: liệu những người lănh đạo trong ĐCS Việt Nam trước và
sau ông, có dám làm triệt để việc kê khai danh sách của 300 người giầu nhất ở
Việt Nam hôm nay hay không? Họ là những ai? Có bao nhiêu tiền? Để ở những đâu?
Bằng cách nào họ đă làm giầu được nhanh như vậy, khi không phải là của ông bà
hay cha mẹ họ để lại? Tổng số tiền mà họ đă tích lũy được là bằng thu nhập của
bao nhiêu triệu người nghèo ở Việt Nam? v.v…
Theo tôi sự khác nhau về chất của vấn đề là ở chỗ: 300 nhà tỷ phú trên thế
giới kia hoàn toàn có quyền tự hào chính đáng về con đường làm giầu của họ,
càng giầu bao nhiêu th́ họ lại càng tự hào bấy nhiêu. C̣n nếu như có một danh
sách tương tự ở Việt Nam (số triệu phú USD chẳng hạn), th́ chưa chắc những
người có tên trong danh sách lại có được niềm tự hào đó. Chẳng phải là cũng đă
từng hô hào rất nhiều, nhưng ở Việt Nam không ai dám làm cái việc kê khai này
tới nơi tới chốn đó sao? Tôi tin là ông Lê Khả Phiêu cũng rất thấm thía điều
này.
Một cuộc Trưng Cầu Dân Ư như 2 tác giả Trần Khuê và Nguyễn Thị Thanh Xuân đề
nghị, nếu nó được tiến hành sẽ là cuộc tổng diễn tập cho một bước dân chủ cao
hơn. Đó là: dân tộc Việt Nam phải được quyền tự ḿnh lựa chọn giữa thể chế
chính trị dân chủ đa nguyên và đa đảng của thời đại mới, hay là cứ phải tiếp
tục duy tŕ măi thể chế nhất nguyên, đơn đảng của‘‘thời đại Hồ Chí Minh’’đầy
đau thương hôm qua, lắm bất công hôm nay và vô vàn những rủi ro, bất trắc vào
ngày mai. Tôi nghĩ rằng nếu toàn thể dân tộc ta ở cả trong và ngoài nước, một
khi đă nhận thức lại được đúng những vấn đề của quá khứ và hiện tại, th́ sẽ
vượt qua được những khoảng cách biệt c̣n lại. Để trong tương lai có thể đoàn
kết thành một khối thống nhất, tạo ra một sức mạnh tổng hợp, nhằm đấu tranh có
hiệu quả hơn với các thế lực bảo thủ hiện nắm thực quyền trong ĐCS Việt Nam.
Trong thực tế có những người giận ngày ‘‘quốc hận’’ 30 tháng 4, giận mùa xuân
năm 1975, rồi giận lây sang cả mùa thu năm 1945 với cuộc Cách Mạng Tháng 8
lịch sử, v́ cho rằng đây là chiến công riêng do CT HỒ Chí Minh và ĐCS Đông
Dương lúc đó lănh đạo. Theo tôi đây là điều chứa đựng nhiều sai lầm, bởi v́ để
có được sự thành công của cuộc CMT8 phải là do chiến công chung, trong đó có
cả vai tṛ của các đảng phái khác. Tất cả lúc ấy đều đă sẵn sàng gác bỏ mọi
quyền lợi riêng, để cùng đồng ḷng đứng lên giành lại nền độc lập tự do cho Tổ
Quốc.
Nó cũng là kết quả được hun đúc bởi truyền thống dựng nước và giữ nước từ ngàn
đời xưa, từ lịch sử gần 100 năm kháng Pháp của ông cha ta, và mọi người Việt
Nam đều có quyền tự hào chính đáng về nó.
Với một nước Việt Nam mới, chắc chắn trang sử hào hùng ấy của Dân tộc cũng
phải được các sử gia viết lại cho khách quan và chính xác hơn. Một ngày hội
lớn về dân chủ của non sông nhất định sẽ được mở ra trong tương lai, khi mà
khối đoàn kết toàn dân gồm 80 triệu người, với hơn 76 triệu đồng bào ta ở
trong nước và gần 3 triệu đồng bào ta ở ngoài nước đă được xác lập. Đó là niềm
tin mănh liệt của tôi! v
Phương Nam – Australia. Tháng 7 năm 2001
(1) Xem thêm vấn đề “đại quốc nhục v́ dối trá của VN” trong bài “Vấn đề tương
lai gần của VN” của Lm Nguyễn Văn Lư ngày 08.8.2005 và bài “V́ sao học sinh
hiểu biết rất kém về lịch sử VN” do Việt Long, đài RFA, phỏng vấn bạn Lê
Phương, Hà Nội ngày 28.8.2005, trong đó bạn Lê Phương xác nhận : ví dụ đầu năm
2005, chính Gs Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN đă công khai xác
nhận trên Truyền h́nh VN rằng : “Ngọn đuốc sống Lê Văn Tám chỉ là chuyện hư
cấu để tuyên truyền trong chiến tranh thôi”! Dù thế vẫn có đường, trường học,
công viên…mang tên Lê Văn Tám cách trắng trợn ngang nhiên! Văn hóa VN đi về
đâu ???
2. Giải đáp cho Phương Nam :
Trích Hồ sơ của UNESCO về Hồ Chí Minh
Kính gửi mạng Ư Kiến,
Trong bài viết về CT Hồ Chí Minh, tác giả Phương Nam Đỗ Nam Hải có yêu cầu
kiểm chứng các thông tin từ Việt Nam nói rằng Cơ Quan Liên Hiệp Quốc về Giáo
Dục, Khoa Học, và Văn Hoá (UNESCO) đă vinh danh CT Hồ Chí Minh vào năm 1990.
Chúng tôi đă tra t́m hồ sơ lưu trữ của UNESCO từ 1986 đến 1995 và tên "Hồ Chí
Minh" chỉ xuất hiện trong 1 (một) tài liệu với một số chi tiết như sau (1) :
Title: Records of the General Conference, 24th session, Paris, 20 October to
20 November 1987, v. 1: Resolutions
Publ Year: 1988 Imprint: Paris, Unesco, 1988 Collation: 215 p.Original
Language: English. Other Lang. versions: Arabic; Chinese; French; Russian;
Spanish Other lang. title: Actes de la Conférence générale, vingt-quatrième
session, Paris, 20 octobre-20 novembre 1987, v. 1: Résolutions; Actas de la
Conferencia General, 24a reunión, París, 20 de octubre-20 de noviembre de
1987, v. 1: Resoluciones
Conference: UNESCO. General Conference Meeting session: 24th Meetings (date):
1987
Document code: 24 C/Resolutions + CORR. in eng, fre Microfiche no: 88c0002
[v.1: eng-3mf, fre-3mf, spa-3mf, rus-2mf, chi-2mf, ara-2mf]; 88c0003 [v.2:
eng-4mf, fre-4mf, spa-4mf, rus-4mf, chi-6mf, ara-mf]; 88c0004 [v.3, mul]
Document Type: Unesco document Catalog Number: 76995 Level: Full
On line: Yes
Trong tài liệu này, ở chương 18 có các phần
External relations and public information . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . .
18.1 European co-operation... . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
...........
18.2 Co-operation with National Commissions . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . .
18.3 Co-operation with international non-governmental organizations 18.4
Co-operation with Unesco Clubs, Centres and Associations. . . . . . . ..
18.5 Co-operation with voluntary foundations and organizations . . . . . . .
18.6 Commemoration of anniversaries
18.61 Calendar of anniversaries of great personalities and events
The General Conference,
Recalling that, as stipulated in Article I, paragraph 2, of its Constitution,
one of the main objectives of Unesco consists in advancing the mutual
knowledge and understanding of peoples,
Convinced that international commemoration of the anniversaries of great
personalities and events constitutes an important contribution to the
fulfillment of Unesco’s objectives relating to the strengthening of
international understanding and co-operation,
Noting that the commemoration of anniversaries of great personalities and
events by Unesco has been largely approved and supported for many years and
will gain in importance in the framework of the World Decade for Cultural
Development,
Recalling 18 C/Resolution 4.351, in which it authorized the Director-General
to publish a two-year calendar of anniversaries of great personalities and
events,
Mindful of the wishes of Member States of Unesco regarding renewed publication
of the calendar,
1. Recommends to the Director-General that he resume preparation for the
publication, beginning in 1990, of the Unesco calendar of anniversaries of
great personalities and events, making the appropriate provision in section IV
(Public Relations) of Chapter 4 of Part II.B and adding after paragraph 15470
of document 24 C/5: 'A calendar for the years 1990 and 1991 of anniversaries
(centenaries and multiples of centenaries) of great personalities and events
connected with education, science, culture and communication will be prepared
in 1989 on the basis of information provided by National Commissions and will
be widely distributed';
2. Invites the National Commissions for Unesco to submit to the
Director-General lists with selected anniversaries.
18.61 Calendar of anniversaries of great personatities and events
18.62 Centenary of the birth of Phya Anuman Rajadhon
18.63 Five-hundredth anniversary of the birth of Thomas Müntzer
18.64 Centenary of the birth of Anton Semionovitch Makarenko...... . . . . . .
.
18.65 Centenary of the birth of President Ho Chi Minh........... . . . . . . .
. . . . . ..
18.66 Centenary of the birth of Jawaharlal Nehru . . . . . . .
18.67 Four-hundredth anniversary of the death of the architect Sinan. . . . .
.
Participation programme ...............................................
Sau đó, chi tiết nội dung đoạn 18.65 ở trang 34 là:
18.65 Centenary of the birth of President Ho Chi Minh.
The General Conference,
Considering that the international celebration of the anniversaries of eminent
intellectual and cultural personalities contributes to the realization of
Unesco’s objectives and to international understanding,
Recalling 18 C/Resolution 4.351 concerning the commemoration of the
anniversaries of great personalities and events which have left an imprint on
the development of humanity,
Noting that the year 1990 will mark the centenary of the birth of President Ho
Chi Minh, Vietnamese hero of national liberation and great man of culture,
Considering that President Ho Chi Minh, an outstanding symbol of national
affirmation, devoted his whole life to the national liberation of the
Vietnamese people, contributing to the common struggle of peoples for peace,
national independence, democracy and socialprogress,
Considering that the important and many-sided contribution of President Ho Chi
Minh in the fields of culture, education and the arts crystallizes the
cultural tradition of the Vietnamese people which stretches back several
thousand years, and that his ideals embody the aspirations of peoples in the
affirmation of their cultural identity and the promotion of mutual
understanding,
1. Recommends to Member States that they join in the commemoration of the
centenary of the birth of President Ho Chi Minh by organizing various events
as a tribute to his memory, in order to spread knowledge of the greatness of
his ideals and of his work for national liberation;
2. Requests the Director-General of Unesco to take appropriate steps to
celebrate the centenary of the birth of President Ho Chi Minh and to lend his
support to commemorative activities organized on that occasion, in particular
those taking place in Viet Nam.
Điều này cho thấy vào năm 1987, theo yêu cầu của các quốc gia hội viên, kỳ họp
khoáng đại của UNESCO có đề nghị là sẽ tái ấn hành lịch lưỡng niên, 1990-1991,
về một số nhân vật và sự kiện lớn lao. Các quốc gia hội viên được mời đề cử
các nhân vật và Cộng sản Việt Nam đề cử cố CT Hồ Chí Minh với các chi tiết nêu
trên.
Tuy nhiên, đến năm 1990-1991, tên "Hồ chí Minh" không được đề cập đến trong
bất kỳ một tài liệu nào khác của UNESCO. Điều này có nghĩa là đề nghị năm 1987
đă không được chấp thuận.
Như vậy, đă không có Nghị quyết nào của UNESCO tưởng niệm cố CT Hồ Chí Minh
vào năm 1990. v
Trần Hải - USA
(1) T.B. Tôi có toàn văn tài liệu nói trên.
(Đọc lại hồ sơ) 3. Giải trừ huyền thoại
HỒ CHÍ MINH & UNESCO
Đầu năm 1987, ô Trần Văn Ngô (Từ Nguyên) là chuyên viên theo dơi thời cuộc
trong tập thể tranh đấu tại Pháp, đă triệu tập một buổi họp các nhân sĩ cùng
đại diện đoàn thể ở khu vực Paris-Ile de France để báo động: đảng CSVN vận
dụng UNESCO để vinh danh Hồ Chí Minh, hy vọng lấy lại hào quang ngụy tạo «anh
hùng giải phóng dân tộc» cho xác ướp mà họ đă dựng thành biểu tượng của Chủ
nghĩa Xă hội.
Theo tin tức nhận được, CSVN căn cứ vào tập tục UNESCO nhắc nhở ngày sinh nhật
thứ 100 của các vĩ nhân trong lănh vực cơ quan Liên Hiệp Quốc hành động, xếp
đặt ghi tên Hồ Chí Minh vào danh sách sinh nhật bách niên năm 1990, rồi dự
tính vận động tiếp để đến năm ấy sẽ có khoản tài trợ của UNESCO dùng tổ chức
rầm rộ kỷ niệm ở trụ sở Paris, đài thọ những buổi lễ cùng thời điểm ở VN và
tại một số thủ đô, thành phố lớn khắp thế giới, tổ chức triển lăm và ấn hành
sách báo đặc biệt về sự nghiệp lừng lẫy của Hồ Chí Minh, «nhà cách mạng và nhà
văn hóa trác tuyệt»! ! !
Hội nghị đă thảo luận, phân tách hoàn cảnh cùng thời cơ thuận lợi cho CSVN :
- Dư âm cuộc chiến thắng 30.4.1975 khiến Hồ Chí Minh c̣n lưu giữ cảm t́nh:
trong tả phái Âu Mỹ Úc chưa đủ can đảm thừa nhận sai lầm quá khứ, trong quần
chúng Á châu, Phi châu thiếu thông tin nghị luận chính xác.
- Phái đoàn đại diện CSVN, theo nguyên tắc luân phiên trong Tiểu ban Văn hóa
UNESCO, đến lượt tham gia Ban Chấp hành Tiểu ban, đề nghị của họ chắc chắn
được sự chấp nhận của đa số thành viên là những nước Á Phi khi trước từng biểu
lộ cảm t́nh thiên lệch trong cuộc chiến VN-2.
- Khi Tiểu ban đă tán thành, Đại Hội Đồng thường thông qua đề nghị do Tiểu ban
chuyển lên, không có thảo luận ǵ cả.
- Một yếu tố thuận lợi quan trọng khác cho CSVN là hậu thuẫn của ông M’Bow,
Tổng Thư Kư kiêm Giám đốc Văn pḥng trung ương UNESCO. Ông trấn nhậm hai nhiệm
kỳ liền trụ sở Paris nhờ sự ủng hộ của Nga Xô cùng chư hầu CS, và các nước Á
Phi chống đối Hoa Kỳ.
Theo vết thân phụ là lănh tụ độc tài tham nhũng ở một quốc gia chậm tiến Phi
châu, ông đă trắng trợn khai thác thủ lợi guồng máy quản trị cơ quan quốc tế.
Thành tích nổi bật của ông M’Bow là cài đặt rất nhiều thành viên bộ tộc
(tribu) của ông – đương nhiên với lương cao bổng hậu không cần chiếu theo bằng
cấp hay khả năng, thậm chí không phải làm việc, không cần có mặt ở sở - vào số
viên chức thực thụ (nếu sa thải phải bồi thường rất nặng) của Văn pḥng. Nhân
số ăn bám cộng với chi tiêu bừa băi – có hà lạm, nhưng về sau không ai muốn
bới móc thêm ra – khiến cho ngân quỹ UNESCO liên tục thâm thủng trầm trọng. V́
thế, tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ phủ quyết (veto) đề nghị gia tăng
ngân sách dành cho UNESCO, sau đó tạm đ́nh chỉ sự đóng góp cho riêng cơ quan
này. Anh quốc với vài nước Âu Mỹ hưởng ứng sự tẩy chay góp tiền cho cá mập.
Chỉ riêng niên liễm của Hoa Kỳ đă là ngân khoản cao nhất trong thu nhập của
UNESCO mỗi tài khóa. Ông M’Bow lúc đó chuẩn bị tái ứng cử nhiệm kỳ thứ ba, tất
sẽ ra sức tán trợ đề nghị vinh danh Hồ Chí Minh để tranh thủ lá phiếu của khối
CS và các nước Đệ Tam, luôn thể, để trả đũa sự phản kháng cùng hành động thắt
chặt túi tiền của Hoa Kỳ.
Hội nghị cũng lượng định một cách thực tiễn trở ngại lớn lao phải đương đầu v́
thiếu phương tiện tài chính và nhân sự, v́ thái độ thờ ơ bất động dễ phỏng
đoán của nhiều thành viên Liên Hiệp Quốc không Cộng sản gồm cựu thân hữu của
VN Cộng Ḥa như Nhật Bản, Đại Hàn, Phi Luật Tân, của giới truyền thông và dư
luận kể cả Hoa Kỳ, v́ địa vị cô đơn và thiểu số của tập thể tị nạn VN khó gây
nên sức mạnh chuyển đổi cần thiết. Tuy nhiên, hội nghị vẫn quyết tâm đương đầu
và nhất trí nỗ lực t́m phương cách giải trừ kế hoạch CSVN lợi dụng UNESCO để
tuyên dương Hồ Chí Minh và chế độ tàn bạo phi nhân ông tạo lập. Một ủy ban
hành động được tức thời thành lập, với ông Nguyễn Văn Trần là Tổng thư kư, Phụ
tá là một số tuyển chọn trong các nhân sĩ, đại diện đoàn thể hiện diện.
Tại một buổi họp thường kỳ sau đó ở trụ sở Hội Thanh niên Tị nạn cho sử dụng,
ủy ban chọn danh hiệu là Ủy ban Tố cáo Tội ác Hồ Chí Minh. Chủ đích ủy ban tự
vạch là tiến tới một luận định quốc tế vô tư, đúng đắn, về các hành động của
Hồ Chí Minh và CSVN vi phạm nhân phẩm nhân quyền, hủy diệt văn hóa, mâu thuẫn
với mục tiêu của Liên Hiệp Quốc và UNESCO. Ủy ban cũng có ư mong công luận thế
giới nhân dịp, duyệt lại những biến cố lịch sử đă bị xuyên tạc, bóp méo, bởi
thành kiến với nhăn quan một chiều của phe phản chiến, đặc biệt là Ṭa án
Chiến tranh VN do Bertrand Russell đề xướng. Công tác khẩn yếu là thâu thập
những dữ kiện đích xác về tội ác của Hồ Chí Minh và đảng CSVN, yêu cầu chứng
nhân và nạn nhân tiếp tay với Ủy ban lập thành hồ sơ sẽ tŕnh bày trong một
cuốn «hắc thư» (livre noir) coi như bản cáo trạng trước thế giới. Cùng lúc,
chiến dịch gửi thư phản kháng tới UNESCO được phát động.
Hầu hết các cơ quan truyền thông Việt ngữ – báo chí, chương tŕnh phát thanh,
bản tin nội bộ – ở các nước định cư đă sốt sắng phổ biến tin tức và tài liệu
do Ủy ban cung cấp; lại tự động đăng tải nhiều bài viết, nhiều thư tố cáo
huyền thoại Hồ Chí Minh do kư giả, nhân sĩ, nhà văn hóa giáo dục, đại diện
đoàn thể, gửi đến. Vị Giám đốc Đông Nam Á Vụ của UNESCO sau này cho Ủy ban hay
đă tiếp nhận tổng cộng hơn ba-mươi ngàn thư phản kháng. Cộng đồng người Việt ở
Pháp và một vài nước lân cận đă hăng hái tham dự cuộc biểu t́nh chống đối do
Ủy ban đề xướng nhân Ngày Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc 1987 ở công trường Nhân
quyền, đối diện tháp Eiffel.
Tại cơ quan tranh đấu trực diện là UNESCO, Ủy ban trù liệu tiếp xúc rộng răi
với các thành viên quốc gia không cộng sản, các thành viên là tổ chức ngoài
chính quyền (Organisation Non Gouvernementale - ONG), các nhân vật chủ chốt ở
cơ quan Liên Hiệp Quốc, kể cả Tổng Thư Kư M’Bow đương nhiệm. Luận cứ đầu tiên
Ủy ban tŕnh bày là CSVN muốn UNESCO lấy ngày 19. 5. 1990 làm sinh nhật bách
niên của Hồ Chí Minh. Nhưng theo sự kê khai của đương sự hồi sinh tiền và theo
các tài liệu chính thức của đảng, Hồ Chí Minh có tới 5 ngày tháng năm sinh
khác nhau. Thời điểm lễ kỷ niệm quốc tế ấn định một cách hồ đồ sẽ khiến cho uy
tín của UNESCO và Liên Hiệp Quốc bị thương tổn. Bằng chứng gần cận về lề thói
thay đổi dữ kiện lịch sử bởi CSVN là họ đă loan báo Hồ Chí Minh tạ thế ngày
03. 9. 1969, trong khi ông mất từ ngày hôm trước, 02. 9. 1969.
Và để tạo áp lực phía chính phủ Pháp - có ảnh hưởng đáng kể v́ Paris là nơi
đặt trụ sở UNESCO – Ủy ban tranh thủ được sự ủng hộ triệt để của Hội Người
Pháp Đông Dương (ANAI – Association des Françaises d'Indochine) gồm các gia
đ́nh Pháp kiều, cựu quân nhân khi trước cư trú hay phục vụ tại ba nước
Viêt-Miên Lào. Hai bên đồng ư phối hợp chương tŕnh và phương thức vận động.
Hội ANAI sẽ nhường cho cộng đồng VN ra mặt trước công luận, đi hàng đầu khi
biểu t́nh, hội họp, để Hội khỏi vướng mắc lời đối phương cáo buộc có hành động
trả thù sự thất trận năm 1954.
Do sự thúc đảy của Hội ANAI và lời thỉnh cầu của Ủy ban, một số dân biểu, nghị
sĩ đối lập lên tiếng chất vấn trên diễn đàn quốc hội, yêu cầu chính quyền – do
tả phái lănh đạo sau khi ô. Mitterand đắc cử tổng thống năm 1981 - bác bỏ sự
vinh danh Hồ Chí Minh. Thêm lời rỉ tai ở hậu trường: nếu chính phủ Pháp có
thái độ tán thành, Hội ANAI, các chính đảng phái hữu, và Ủy ban hành động của
người Việt, sẽ huy động cựu chiến binh gồm thương binh và gia đ́nh tử sĩ trận
chiến VN-1, cùng với thuyền nhân, người tị nạn CS mọi quốc tịch, các đoàn thể
như Hội Y sĩ Thế giới, Hội Nhân quyền, v. v… xuống đường liên tiếp khắp nơi.
Kết quả là chính phủ Pháp hứa đứng ngoài không bỏ phiếu nếu Đại hội đồng
UNESCO thảo luận nghị quyết đề cao Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, như đă dự đoán, Tiểu ban Văn hóa với đa số thuận, đă ghi vào nghị
tŕnh Đại hội đồng UNESCO năm 1987 danh sách sẽ được tuyên dương năm 1990 gồm
7 nhân vật: Phya Anuman Rajadhon (Thái Lan), Thomas Munzer (Đông Đức), Anton
Semionovitch Makarenko (Liên Sô), Hồ Chí Minh (Việt Nam), Jawaharlal Nehru (Ấn
Độ), và Sinan (Thổ Nhĩ Kỳ). Lời tuyên dương Hồ Chí Minh dùng trọn bản văn do
phái đoàn CSVN soạn cũng như lời tuyên dương các nhân vật khác do phái đoàn
quốc gia liên hệ đề nghị - được Đại hội đồng thông qua không thảo luận.
Ủy ban đành chuyển qua vận động giảm thiểu tầm vóc tổ chức kỷ niệm. Hai biến
cố thời sự đem lại thời cơ thuận lợi cho hành động của Ủy ban và các đồng minh
:
- Ông M’Bow thất cử Ông Frederico Meillor nhân sĩ Tây-Ban-Nha (Espagne), thay
thế làm Tổng Thư Kư UNESCO.
- Rồi những chính thể Cộng sản ở Đông Âu kế tiếp sụp đổ;
- Chấn động vang dội nhất là sự phá hủy «bức tường ô nhục» ở Bá-Linh (Berlin)
và
- Sự thống nhất Đức quốc sớm hơn các lời tiên đoán.
- Sự phát triển mạnh mẽ của trào lưu dân chủ có hiệu lực xóa bỏ luôn những
công tŕnh che dấu, thổi phồng, hóa trang, của guồng máy tuyên truyền cộng
sản.
Bộ mặt thực của mô h́nh chế độ cộng sản, của các lănh tụ tối cao Staline, Mao
Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Ceaucescu, Kim Nhật Thành, v. v… dần dần bộc lộ, làm
tiêu tan những h́nh ảnh thần tượng tuyệt đỉnh hoàn mỹ dựng lên từ mấy chục
năm.
Ủy ban được vị tân Tổng Thư Kư Frederico Meillor trấn an: không thể hủy bỏ
nghị quyết 1987 (phải do một nghị quyết khác của Đại hội đồng), nhưng UNESCO
sẽ không tổ chức kỷ niệm và không can dự bất cứ hành động nào để vinh danh Hồ
Chí Minh tại trụ sở Paris.
Thực tế là ngân sách UNESCO do ông soạn thảo sẽ không dự trù ngân khoản cho
công việc đó. Việt Nam cùng nước nào muốn cử hành lễ sinh nhật bách niên của
Hồ Chí Minh là tùy ư riêng, không liên quan ǵ tới UNESCO cả.
Do đó, Ủy ban nhận định rằng công tác mà cộng đồng ủy nhiệm đạt kết quả tương
đối thỏa măn.
- Ủy ban quyết định chấm dứt chiến dịch thư phản kháng;
- Đ́nh chỉ việc lập hồ sơ, ấn hành hắc thư tố cáo tội ác Hồ Chí Minh và CSVN;
- Không trù liệu tập họp, biểu t́nh phản đối kỷ niệm sinh nhật Hồ Chí Minh bởi
UNESCO v́ sự việc ấy sẽ không xảy ra.
- Nhưng Ủy ban tiếp tục theo dơi nội vụ để phản ứng khi cần thiết.
Quả nhiên trước ngày 19.5.1990, Ủy ban được tin rằng CSVN loan báo mập mờ kỷ
niệm trọng thể sinh nhật bách niên của Hồ Chí Minh tại pḥng khánh tiết
UNESCO.
Một số văn công nghệ sĩ từ quốc nội sang, gồm đoàn múa rối nước, sẽ tŕnh diễn
trong buổi lễ, phụ thêm triển lăm và tiếp tân.
Tổng thư kư Nguyễn Văn Trần lập tức tới gặp ông Giám đốc Đông Nam Á Vụ UNESCO
để chất vấn, mang theo thiệp mời của sứ quán in h́nh Hồ Chí Minh với bối cảnh
là trụ sở UNESCO.
Nhà chức trách đó cho hay UNESCO tiếp đơn giữ chỗ trước, đă theo qui lệ cho sứ
quán mướn 2 căn pḥng thường dành cho mọi sinh hoạt của thành viên mà thôi.
Ông không hay biết chương tŕnh tổ chức, và nếu có thiệp mời, chắc chắn ông
Tổng Thư Kư cùng các cộng sự viên sẽ không tham dự.
Ông ghi nhận lời phản đối hợp lư của Ủy ban, bảo đảm Văn pḥng sẽ đ̣i sứ quán
hủy bỏ thiệp mời có thể gây ngộ nhận.
Hội ANAI tiếp xúc với Bộ Ngoại giao Pháp, cũng được xác nhận không có đại diện
chính quyền, nhân viên chính phủ, đại diện quốc hội, đại diện Đô thành Paris,
tham dự lễ kỷ niệm hay tiếp tân, triển lăm, sứ quán CSVN dự liệu.
Sau đó, sứ quán CSVN đă phải thu hồi thiệp mời in h́nh Hồ Chí Minh gửi cho
ngoại giao đoàn, thành viên UNESCO, các nhân vật chính quyền và dân sự Pháp …Ê
mặt … Thiệp chỉ sử dụng với tính cách nội bộ để mời Việt kiều.
Một đặc phái viên của Ủy ban tới trụ sở UNESCO ngày 19.5.1990 để kiểm tra, báo
cáo rằng chung cuộc, sứ quán CSVN chỉ mướn một pḥng sinh hoạt nhỏ thay v́ hai
(gồm thêm một pḥng lớn có sân khấu).
Nhân số hiện diện khoảng chừng 60, 70 tân khách; hầu hết là hội viên Việt kiều
“Yêu nước”. Lác đác vài khuôn mặt ngoại quốc, phỏng đoán là đảng viên cộng sản
Pháp, thành viên các phái đoàn thân hữu với chế độ như Cuba, Trung quốc, Bắc
Hàn, Mên, Làọ
Một cuộc biểu t́nh phản kháng vào đúng giờ khắc buổi kỷ niệm của sứ quán CSVN
qui tụ hơn một trăm người đă diễn ra ở công trường Fontenoy gần trụ sở UNESCO.
Hành động do Ủy ban Quốc tế Trần Văn Bá, không phải là thành viên Ủy ban Tố
cáo Tội ác Hồ Chí Minh (v́ chưa ra đời năm 1987), đề xướng.
Hai đại diện đoàn biểu t́nh là ông Trần Văn Ṭng và kư giả Olivier Tod đến trụ
sở UNESCO đưa lời phản kháng đă được ông Giám đốc Đông Nam Á Vụ tiếp kiến.
Khi nghe xong lời tŕnh bày về lập trường và thái độ của cơ quan Liên Hiệp
Quốc, sự can thiệp của Ủy ban Tố cáo Tội ác Hồ Chí Minh và các biện pháp đă
thỏa hiệp, hai vị đại diện đồng ư là UNESCO vô can; đoàn biểu t́nh sẽ chỉ tập
trung hành động để đả đảo sự vinh danh Hồ Chí Minh, người có tội trước lịch sử
nhân loại đă tàn hại đất nước và dân tộc Việt Nam và hai nước láng giềng Mên
Lào.
Ủy ban Tố cáo Tội ác Hồ Chí Minh chính thức giải tán cuối tháng 5 dl. 1990.
Đáng tiếc là Ủy ban không chủ trương quảng bá thành quả công tác v́ cho rằng
đó là bổn phận, nên c̣n có thể có dư luận thiếu chính xác ngay tại Pháp về thủ
đoạn của đảng CS mập mờ sử dụng danh nghĩa UNESCO đánh bóng h́nh tượng Hồ Chí
Minh.
Nghiêm Văn Thạch www.hon-viet.co.uk
(Đọc lại hồ sơ) 4. UNESCO & HỒ CHÍ MINH
Bùi Tín – Paris - 15 Aug 2005
(Trích từ cuốn sách «San sẻ t́nh yêu thương», viết riêng cho tuổi trẻ trong và
ngoài nước của nhà báo Bùi Tín, sẽ ra mắt bạn đọc tháng 9 này. Đoạn này là trả
lời bạn Phương Nam hỏi nhà báo Bùi Tín khi c̣n ở Úc, nay ông trả lời chung.)
- Thế c̣n việc UNESCO suy tôn Hồ Chí Minh là “Danh nhân Văn hoá Thế giới” th́
thế nào? Người bảo có, người bảo không, sự thật là thế nào?
Tôi từng dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội
trường Ba đ́nh Hà Nội vào ngày 19-5-1990, có một số bạn bè quốc tế dự đến từ
Liên Xô, Trung Quốc, Cu-ba, Bắc Triều Tiên, Lào, Cam-bốt, Pháp, Anh, Angiêri…
Tôi gặp ông A. Patti (người Mỹ, trong tổ chức t́nh báo OSS từng có mặt ở Việt
Bắc và Hà Nội hồi Cách mạng Tháng Tám 1945) tại đây; có ông R.Chandra, người
Ấn Độ, nguyên trước kia là chủ tịch Hội đồng Hoà b́nh Thế giới dự.
Không có đại diện nào của UNESCO. Và cũng không ở đâu UNESCO đứng ra tổ chức
lễ kỷ niệm cả.
Để trả lời bạn Phương Nam hỏi, tôi đă đến hỏi tại trụ sở chính của UNESCO ở
Paris. Đầu đuôi là thế này.
UNESCO có nếp làm việc: nhân kỷ niệm ngày sinh những nhân vật nổi bật của các
nước thành viên vào những năm chẵn thứ một trăm (năm sinh lần thứ 1, 2, 3 , 4
hay 5 trăm năm) th́ các nước gửi đề nghị đến UNESCO, UNESCO ghi nhận, xem xét
và khuyến cáo các nước thành viên tham gia và Chủ tịch UNESCO có thể ủng hộ,
hỗ trợ các nước ấy nếu cần.
V́ đây là tổ chức về giáo dục, khoa học và văn hoá nên người được đề nghị phải
có hoạt động nổi bật về 1 trong 3 mặt này.
Cuộc họp của Đại hội đồng UNESCO lần thứ 24 ngày 20/10 - 20/11 năm 1987 tại
Paris xét đề nghị ngày 14-7-1987 của bộ trưởng Vơ Đông Giang, chủ tịch UNESCO
của Việt Nam, thông báo rằng Việt Nam sẽ tổ chức trọng thể kỷ niệm ngày sinh
lần thứ 100 của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào dịp 19-5-1990, chủ tịch Hồ Chí Minh
c̣n là “nhà văn hoá xuất sắc của Việt Nam”; cuộc họp quyết nghị (bằng một Nghị
quyết ghi nhận đề nghị của VN):
- ghi nhận (noter) thông báo của Việt Nam;
- khuyến cáo (recommander) các Nước hội viên tham gia kỷ niệm;
- yêu cầu (prier) Ngài Tổng giám đốc UNESCO ủng hộ (soutenir) việc kỷ niệm,
nhất là ở Việt Nam.
- Cùng trong phiên họp này, UNESCO ghi nhận đề nghị của Liên Xô kỷ niệm lần
thứ 100 ngày sinh của ’’nhà văn và nhà giáo dục lớn‘’ Semionovitch Makarenko;
ghi nhận đề nghị của Cộng hoà Liên bang Đức về kỷ niệm lần thứ 500 ngày sinh
của nhà ‘’tiên tri cấp tiến’’ (prédicateur progressiste) Thomas Mùnzer ; ghi
nhận đề nghị của Thái Lan về kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của nhà phê b́nh
văn học uyên bác Phya Anuman Rajadhon; và cuối cùng là đề nghị của Thổ Nhĩ Kỳ
(Turquie) về kỷ niệm 400 năm ngày sinh của ‘’nhà kiến trúc kiệt xuất’’ Sinan,
từng xây dựng nhà thờ Hồi giáo kỳ vỹ Suleymaniye giữa thủ đô Istanbul cùng
nhiều công tŕnh ở vùng Balkan và các nước Ả-rập, đều vào dịp 1990.
Nhưng sau đó, một số thư từ, kiến nghị, bài báo gửi đến UNESCO phản đối mạnh
mẽ về ông Hồ Chí Minh trong Nghị quyết này, suốt cả năm 1988, 1989 và đầu năm
1990, nêu bật sự kiện thuyền nhân và trại cải tạo, của chính những người trong
cuộc với phim ảnh kèm theo, nêu rơ bản chất chế độ đàn áp tàn bạo do ông Hồ
Chí Minh lập nên, một chế độ phi nhân - phản văn hoá. UNESCO c̣n tiếp hàng
chục đoàn đại biểu từ Pháp, Mỹ, Anh chống đối việc UNESCO dính vào một việc
không được dư luận tán đồng.
Thế là ông chủ tịch UNESCO quyết định lờ đi, không tham gia việc kỷ niệm để
bảo toàn uy tín tổ chức quốc tế này.
C̣n Chính phủ Việt Nam làm ǵ th́ tùy họ. V́ chưa đến cuộc họp sau nên vấn đề
này không đưa ra Đại hội đồng UNESCO.
- Trước ngày kỷ niệm 19-5-1990, 2 sự kiện dồn đến. Bức tường Berlin đổ sập;
một loạt chế độ Cộng sản Đông Âu tan ră. Hà Nội mất một loạt đồng minh. Tổng
giám đốc UNESCO Amadou M’Bow người châu Phi bê bối về tài chính bị thay thế
bởi ông Frederico Leillor người Tây Ban Nha; ông này ra hẳn chủ trương:
UNESCO không tổ chức cũng không tham dự một h́nh thức nào kỷ niệm ông Hồ; ông
cũng nói rơ: không có khoản tiền nào của UNESCO để chi cho việc này nữa.
Đến ngày kỷ niệm, Sứ quán Việt Nam ở Paris vất vả chạy vạy thuê một pḥng nhỏ
ở trụ sở UNESCO để vớt vát thể diện.
Ban quản trị trụ sở UNESCO c̣n giao hẹn không được treo ảnh và apphích ngoài
hành lang, giấy mời chỉ được ghi là dự một tối văn nghệ.
Giấy mời của sứ quán in h́nh trụ sở UNESCO làm nền bị Văn pḥng UNESCO phản
đối là “không được phép, không nghiêm chỉnh” (incorrect) phải huỷ.
Một đoàn múa rối nước từ Hà Nội sang biểu diễn; cuộc kỷ niệm dự định vài trăm,
chỉ có dưới một trăm người Việt của sứ quán và Hội Việt kiều “yêu nước” cùng
mươi người của đảng CS Pháp.
Đầu đuôi câu chuyện là thế. Cái gọi là “Bác Hồ chúng ta được UNESCO của Liên
Hợp Quốc ra Nghị quyết tuyên dương, công nhận là anh hùng dân tộc và danh nhân
văn hoá thế giới, và UNESCO tổ chức long trọng lễ kỷ niệm” hoá ra là thế. Cần
rơ ràng, minh bạch như vậy./.v
Bùi Tín
4. Phụ lục đặc biệt cho “Lật tẩy việc mạo danh UNESCO…”
I. Trích “Hiến pháp Nước CHXHCN VN” năm 1992.
Điều 69 : Công dân có quyền Tự do Ngôn luận, Tự do Báo chí ; có quyền được
thông tin ; có quyền hội họp, lập hội, biểu t́nh theo quy định của pháp luật.
*** Hiến pháp vừa xác nhận 5 quyền xong, th́ dùng cụm từ “theo quy định của
pháp luật” để phủ nhận lại 5 quyền đó ngay. Các NNCS Âu Á đều luôn luôn biết
ngụy biện chơi chữ như vậy. Kết quả là suốt 60 năm qua VN không có một tờ báo
độc lập hoặc tư nhân nào cả, 6 TG lớn ở VN không hề có một tờ báo nào của
chính TG ḿnh, và nguyên việc photo và chuyền tay nhau đọc bản văn nầy đă có
thể bị CA mời “làm việc”, bị buộc viết kiểm điểm, bị cắt điện thoại, bị đuổi
khỏi trường học/sở làm, bị dọn vệ sinh ở phường/xă, bị không cho vay vốn “quỹ
v́ người nghèo”, bị “giam” bằng tốt nghiệp đại học, bị quản chế, bị đưa vào
trại tù đội lốt là trại “cơ sở giáo dục”, hoặc bao phiền lụy đau đớn khác…
Đây chính là “quyền tự do dân chủ ưu việt định hướng XHCN của VN” rất đẹp mặt
giữa văn minh toàn cầu hiện nay đó !!! C̣n những ai cố t́nh dùng “pháp luật
độc đoán” để ngăn cấm quyền Tự do Ngôn luận rất chính đáng của người Dân, th́
không c̣n ǵ để nói với họ nữa, người Dân chỉ c̣n biết cách “tự nguyện đưa 2
tay vào c̣ng số 8” và hiên ngang tự hào ḿnh là một chiến sĩ ḥa b́nh đích
thật của nền Dân chủ chân chính của VN mới.
II. Trích “Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị”, của LHQ
16.12.1966,
Việt Nam gia nhập 24.9.1982.
Đ́êu 5,1: Không được phép giải thích bất kỳ một quy định nào của Công ước
nầy…nhằm hủy bỏ bất kỳ quyền và tự do nào được công nhận trong Công ước nhằm
giới hạn những quyền và tự do đó quá mức độ quy định trong Công ước nầy.
Điều 5,2: Không được phép hạn chế hoặc hủy bỏ bất kỳ quyền cơ bản nào của con
người đă được công nhận hoặc hiện tồn tại ở một quốc gia thành viên của Công
ước nầy trên cơ sở luật điều ước, các quy định pháp luật, hoặc tập quán với cớ
là Công ước nầy không công nhận những quyền ấy hoặc công nhận ở một mức độ
thấp hơn.
Điều 19,2: Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền nầy bao gồm cả quyền tự
do t́m kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ư kiến, không phân biệt ranh
giới, h́nh thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng h́nh
thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tuỳ theo sự lựa
chọn của họ.
(Các Văn kiện Quốc tế về Quyền Con người, NXB Tp HCM, 1997 trang 109,110,
117).
*** Các Nhà nước độc tài thường lạm dụng điều 19,3,b : đại ư : quyền ở khoản 2
điều 19 trên đây có thể bị hạn chế phần nào “để bảo vệ an ninh quốc gia, hoặc
trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng”(nguyên văn). Nhưng
vấn đề then chốt là :
1/- An ninh quốc gia được gia tăng khi toàn dân được thông tin thông thoáng,
được tiếp cận t́nh h́nh thế giới, được mở rộng tầm nh́n hay nhờ Nhà nước độc
quyền bưng bít như Phát-xít ? hoặc nhờ bịa chuyện để lường gạt Dân nghèo như
chuyện “Lê Văn Tám” (có đường, trường học, công viên… mang tên) và chuyện
UNESCO tôn vinh…trên đây ?
2/- “An ninh quốc gia”, “đoàn kết dân tộc” hay “an toàn cho thế lực cầm quyền”
luôn được tự đồng hóa với Dân tộc, Quốc gia một cách rất ngụy biện xảo trá ?
3/- Dùng đến phương tiện nào th́ mới gây hại cho “Quốc gia”: đao kiếm, súng
đạn, quân đội, khủng bố hay chỉ là 1 Email, 1 tờ giấy? Phải có tiêu chí rơ
ràng được LHQ công nhận như điều 19,2 trên đây, nếu VN không muốn không giống
ai giữa nhân loại văn minh hôm nay, làm ǵ có chuyện “đi trước đón đầu”, “dân
chủ ưu việt hơn bất cứ h́nh thức dân chủ nào trên thế giới” như NNVN hằng rêu
rao ???./. v