Bứt Phá Mạnh Dạn Về Tư Duy
Nguyễn Minh Cần
Lan Hương: Ông Nguyễn Minh Cần sinh năm 1928 tại Huế. Từ tháng 10
năm 1954 đến 1962 ông là Ủy viên Thường vụ Thành ủy Hà Nội, kiêm Chủ nhiệm báo
Thủ Đô Hà Nội. Năm 1962 ông được cử đi học ở trường Đảng cao cấp ở Liên Xô. Do
bất đồng những chính sách cai trị của đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN), ông bị
khủng bố về tư tưởng nên đă thoát ly khỏi đảng năm 1964, trong khi đó đảng
CSVN ra lệnh bắt giam nhiều sĩ quan, cán bộ đảng ở Việt Nam trong cái gọi là
“vụ án xét lại chống đảng”. Từ đó ông xin cư trú chính trị ở Nga cho đến hôm
nay. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu với các độc giả bài phân tích mới nhất
của ông nhân dịp ở trong nước mới xuất hiện bài viết của ông Vơ Văn Kiệt.
http://vietnamhonnuoc.tripod.com/vovankiet.html
---------------------------------------------
Sau bài “Đại đoàn kết dân tộc, cội nguồn sức mạnh của chúng ta”, ông Vơ Văn
Kiệt lại vừa tung ra một tác phẩm mới – bản
“Góp ư kiến vào báo cáo tổng kết lư luận và thực tiễn
hai mươi năm đổi mới”.
Đây là một sự kiện đáng lưu ư trong đời sống chính trị của Việt Nam. V́ nó là
văn bản của một nhân vật đă từng đứng vào hàng cao cấp nhất của Đảng cộng sản
(ĐCS) và nhà nước Việt Nam xă hội chủ nghĩa (VN XHCN) công khai tŕnh bày quan
điểm của cá nhân ḿnh nhân dịp chuẩn bị đại hội đảng, đồng thời nói đến những
sai lầm của ĐCS – dù là lời nói đó quá muộn màng, sơ sài, và không đầy đủ so
với biết bao nhiêu người đă nói hàng chục năm trước đây và c̣n đang bị đau khổ
v́ những lời nói thẳng thắn của ḿnh.
Bất kể văn kiện này được tác giả của nó tung ra với động cơ chính trị nào
trong t́nh h́nh đấu tranh phe phái hiện nay ở VN, nhưng nó cũng mang tính tích
cực v́ có thể tạo điều kiện cho những ai quan tâm đến số phận của Tổ quốc và
dân tộc chịu động năo đôi chút để nghĩ đến tiền đồ của đất nước và của thế hệ
mai sau, tức là con cháu ruột thịt của ḿnh. Nó cũng tạo dịp tốt để những
người dân chủ trong nước khơi dậy những cuộc trao đổi ư kiến rộng răi trong
dân chúng nhằm lắng nghe ư kiến của người dân và truyền bá quan điểm dân chủ
về các vấn đề căn bản của đất nước, tạo một dư luận xă hội sôi nổi ngay trước
ngày họp đại hội đảng lần thứ X.
Ông Vơ Văn Kiệt vốn là nhân vật lănh đạo số một ở miền Nam VN trước và sau sự
kiện tháng 4 năm 1975, sau này ông lại là thủ tướng chính phủ VN XHCN trong
nhiều năm. Tên tuổi của ông gắn với biết bao sự kiện đau buồn của đất nước
trong 30 năm qua, kể từ năm 1975. Ông “có vai tṛ lớn” trong việc đàn áp tệ
hại các tôn giáo, trả thù hèn mạt những người trong chế độ cũ, bỏ tù nhiều năm
trong các “trại cải tạo” hàng loạt công chức, sĩ quan, binh lính, thậm chí cả
những trí thức, văn nghệ sĩ, tráo trở gạt bỏ Mặt trân dân tộc giải phóng miền
Nam”, vứt bỏ Chính phủ lâm thời miền Nam VN, tổ chức nhiều đợt cải tạo công
thương nghiệp, “đánh tư sản mại bản” để cướp đoạt tài sản của người dân, đàn
áp những trí thức yêu nước đ̣i tự do, dân chủ, đàn áp “Câu lạc bộ những người
kháng chiến cũ”, bắt bớ ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Ṭng và những người đứng đầu khác
của Câu lạc bộ. Ông cũng là người cho tổ chức những đợt “vượt biên bán chính
thức” hồi cuối thập niên 70 để vơ vét vàng bạc của người dân trước khi thả họ
ra biển cả. Việc ô nhục nhất khi làm thủ tướng là ông đă kư tên vào cái “nghị
định” 31/CP mang tính phát xít cho phép công an tuỳ tiệân quản chế bất cứ ai
không cần chứng cớ, không cần toà án, làm tăng cường thêm cái chế độ “công an
trị” trên đất nước ta. Cho đến bây giờ cái nghị định đó vẫn c̣n nguyên hiệu
lực và biết bao người trí thức dân chủ, những người cách mạng bất đồng chính
kiến với ban lănh đạo Đảng, những vị tu hành của các tôn giáo, như Phật giáo,
Công giáo, Cao Đài, Tin Lành, Phật giáo Hoà hảo... vẫn c̣n đang bị “cầm tù tại
gia” bởi cái nghị định đó.
Với một con người có nhiều “thành tích” như vậy, ít ai có kỳ vọng ở bản “Góp ư
kiến...” của ông ta sẽ mở ra một con đường mới mẽ, thật sự cần thiết cáp bách
cho đất nước và dân tộc. Mà thật vậy, đằng sau những từ ngữ rất... “hoành
tráng” theo văn phong ưa chuộng của giới lănh đạo VN, như “trước hết đ̣i hỏi
một sự bứt phá mạnh dạn về tư duy, về đường lối, về tổ chức...”, người ta có
thể dễ dàng nhận thấy là ông Vơ Văn Kiệt về cơ bản vẫn cứ đứng yên tại chỗ mà
không có một chút “bứt phá mạnh dạn” nào.
Tôi muốn nói đến vấn đề mà ông Kiệt quan tâm nhất đặt lên hàng đầu: chủ nghĩa
Marx-Lenin. Ông Kiệt viết: “Từ bao nhiêu năm nay, lúc nào chúng ta cũng khẳng
định rằng: Chủ nghĩa Marx-Lenin là nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam
của cách mạng Việt Nam. Chưa bao giờ chúng ta chủ trương làm trái chủ nghĩa
Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng tại sao chúng ta vẫn mắc nhiều sai
lầm? Nếu có một kim chỉ nam trên tay, th́ khó có thể lạc hướng. Nhưng tại sao
vẫn có những giai đoạn lạc hướng”. Rồi ông đi đến kết luận: “Điều đó chứng tỏ
rằng chúng ta không đọc được những mă số của nó. Vậy vấn đề bây giờ không c̣n
là nêu lên những khái niệm chung chung, mà phải xác định rơ nội hàm của những
khái niệm đó”. Ở một đoạn khác, ông Kiệt nói thêm: “... lâu nay không có một
đảng cộng sản hay công nhân nào nói rằng không đi theo chủ nghĩa Marx-Lenin,
không kiên tŕ chủ nghĩa Marx-Lenin. Nhưng mỗi đảng đi theo một con đường khác
nhau, đảng này lại c̣n phê phán đảng kia là làm sai những nguyên lư của chủ
nghĩa Marx-Lenin. Vậy là có nhiều cách hiểu về chủ nghĩa Marx-Lenin”.
Nói một cách khác, ông Vơ Văn Kiệt chủ trương là ĐCS vẫn phải kiên tŕ chủ
nghĩa Marx-Lenin, vẫn phải lấy chủ nghĩa Marx-Lenin làm nền tảng tư tưởng của
Đảng, chỉ có điều là phải “đọc được những mă số của nó”, “phải xác định rơ nội
hàm của những khái niệm” của chủ nghĩa Marx-Lenin. Cái gọi là “đọc được những
mă số của nó” quả thật là một câu bí hiểm đánh đố người đọc, nó vừa huênh
hoang, vừa rỗng tuếch, không có nội dung ǵ thực tế. C̣n cái gọi là “nội hàm”
(hay nói dễ hiểu hơn, nội dung cơ bản) của chủ nghĩa Marx-Lenin th́ phải chăng
là không có, mà đến bây giờ cần phải xác định rơ? Thực ra, nó nằm sờ sờ trong
các tác phẩm, các văn bản của những người mà giới lănh đạo cộng sản VN tôn
vinh là “những nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx-Lenin”. Nội dung cơ bản của
chủ nghĩa Marx-Lenin bao gồm bốn điểm được coi là bốn trụ cột bất di bất dịch
của chủ nghĩa Marx-Lenin, nghĩa là không có chúng th́ không c̣n là chủ nghĩa
Marx-Lenin nữa. Thứ nhất, là học thuyết đấu tranh giai cấp; thứ hai, là đấu
tranh giai cấp của giai cấp công nhân nhất định phải đi đến chuyên chính vô
sản; thứ ba, là ĐCS phải độc quyền lănh đạo, tuyệt đối không được phân chia
quyền lănh đạo đó cho bất cứ đảng nào; và thứ tư, là chủ nghĩa tập trung dân
chủ là nguyên tắc tổ chức của ĐCS và của hệ thống chính trị do đảng độc tôn
thống trị (xin chú ư: chủ nghĩa tập trung dân chủ, chứ không phải chủ nghĩa
dân chủ tập trung, v́ theo những người lănh đạo ĐCS, tập trung là chính, là cơ
bản). Từ ông Marx đến ông Lenin, ông Stalin, ông Mao Trạch Đông, và các ông
lănh tụ khác đều khẳng định bốn cái cốt lơi đó. Trên 80 năm qua, các ĐCS ở các
nước gọi là XHCN đă dựa trên bốn trụ cột đó, tức là đă “kiên tŕ chủ nghĩa
Marx-Lenin”. Kết quả th́ thế nào? Nếu ông Vơ Văn Kiệt “xác lập một thái độ
trung thực và có trách nhiệm, dám nh́n thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật” –
như ông đă nhắc nhở – th́ chắc ông phải thấy rơ ràng rằng ở các nước XHCN mà
ĐCS “kiên tŕ chủ nghĩa Marx-Lenin”, th́ bao nhiêu đầu rơi máu chảy, bao nhiêu
đau thương tang tóc, hàng chục triệu người đă chết oan uổng, bao nhiêu lực
lượng sản xuất đă bị lăng phí... để cuối cùng xác lập nên một chế độ cực quyền
toàn trị độc ác khủng khiếp, không kém ǵ chế độ của phát xít. Trên thế giới,
chưa hề có một nước nào do ĐCS “kiên tŕ chủ nghĩa Marx-Lenin” mà thực hiện
được ước mơ tốt đẹp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Như vậy,
không phải v́ các ĐCS đó chưa “xác định rơ nội hàm” của chủ nghĩa Marx-Lenin”
mà phải thẳng thắn nói rơ là thực tiễn đă chứng tỏ rằng chủ nghĩa Marx-Lenin
không thể làm “kim chỉ nam” đúng đắn được. Lịch sử thế giới trên 80 năm qua đă
chứng minh điều đó. Thế mà đến bây giờ ông Kiệt vẫn nói loanh quanh “phải xác
định rơ nội hàm” th́ có khác ǵ hai mươi năm trước, khi bắt đầu đổi mới, nghĩa
là khi đă thấy rơ (nếu nói nhẹ một tí)... sự “bất cập”, “bất lực” của chủ
nghĩa Marx-Lenin, ban lănh đạo ĐCS VN đă từng quyết nghị: “cần phải có nhận
thức đúng về chủ nghĩa Marx-Lenin” – mà chính ông Kiệt cũng thấy rơ đấy: hai
mươi năm sau... ĐCS vẫn chưa thể đưa ra “nhận thức đúng về chủ nghĩa
Marx-Lenin” là như thế nào cả! “Phải xác định rơ nội hàm” chỉ là một câu nói
nhằm trốn tránh sự thật, để “hoăn binh”, trong lúc thực ra cần phải giải quyết
dứt khoát “vấn đề của mọi vấn đề” để đất nước tiến lên.
Nếu đă nói như ông Kiệt “cần phải có một sự bứt phá mạnh dạn về tư duy...” th́
phải nói thẳng ra rằng sự bứt phá mạnh dạn đó chính là phải từ bỏ chủ nghĩa
Marx-Lenin, một chủ nghĩa đă bị thực tiễn lịch sử gạt bỏ. Khác với ông Kiệt,
nhiều người dân chủ VN trong và ngoài nước từ lâu đă nói dứt khoát như vậy. Và
“nội hàm” của khái niệm từ bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin cũng đă từng được nêu ra
rất cụ thể:
Trước tiên, là phải xoá bỏ điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, tức là xoá bỏ
quyền thống trị độc tôn của ĐCS; thứ hai, phải tách ĐCS ra khỏi chính quyền
nhà nước, xoá bỏ t́nh trạng nhập nhằng hiện nay và làm cho chính quyền, quân
đội, công an thực sự là của nhân dân, không một đảng phái nào được thao túng;
thứ ba, tổ chức đầu phiếu thật sự dân chủ và tự do để cử các cơ quan lập pháp,
hành pháp; thứ tư, ban hành và bảo đảm thực thi các quyền tự do dân chủ, trước
tiên là tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do tôn giáo, đồng
thời xoá bỏ ngay những đạo luật, cũng như những văn bản dưới luật vi phạm các
quyền tự do dân chủ nói trên, trước tiên là băi bỏ nghị định 31/CPù; thứ năm,
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải phân lập rơ rệt; thứ sáu, xây
dựng một xă hội dân sự mạnh mẽ; và thứ bảy, phải xây dựng Hiến pháp mới cho
nước Việt Nam mới được thông qua bởi một cuộc bỏ phiếu toàn dân. Đó chính là
những việc làm cụ thể để xoá bỏ chế độ cực quyền toàn trị, nhằm xây dựng một
chế độ dân chủ, tự do đích thực, tức là một chế độ dân chủ đa nguyên, tạo điều
kiện cho đất nước tiến lên mạnh mẽ, thoát khỏi nguy cơ tụt hậu.
Vấn đề, theo tôi, đặt ra rơ ràng, cụ thể và dứt khoát như vậy, mà sao ông Kiệt
lại tránh né, không dám nói đến? Mà sao ban lănh đạo ĐCS lại không dám đặt ra
để trong toàn ĐCS thảo luận? Sở dĩ như vậy, v́ nếu từ bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin
th́ giai cấp thống trị quan liêu, tức là giai cấp các “quan cách mạng” hiện
nay nhất định sẽ bị tiêu vong, cái ách mà ĐCS đă đặt lên đầu người dân được tô
son trát phấn bằng cái khẩu hiệu lừa mị “đảng lănh đạo, nhân dân làm chủ” nhất
định sẽ bị vứt bỏ, nhân dân nhất định sẽ được giải phóng. Chính v́ sợ mất
quyền mất lợi, mà họ phải nói quanh, nói “bí hiểm”, nói mơ hồ, “nói để mà
nói”. Ông Kiệt làm ra vẻ là người “tiến bộ”, nhưng thực chất ông cũng không
hơn ǵ ban lănh đạo ĐCS hiện nay.
Bây giờ xin bàn đến vấn đề mà ông Kiệt gọi là “phương pháp tư tưởng”, trong đó
ông vạch những cái gọi là “phương pháp tư duy “tả khuynh” trong đảng” qua các
thời kỳ. Thực ra, trước ông Kiệt rất lâu, nhiều người – kể cả những người
trong ĐCS – đă vạch ra những sai lầm đó của ĐCS, đầy đủ, thẳng thắn và sâu sắc
hơn ông Kiệt rất nhiều. Chẳng hạn, ta thấy ông Kiệt tránh không nhắc đến “vụ
án Nhân Văn-Giai Phẩm”, “vụ án Xét lại-Chống Đảng”, vụ giải tán Mặt trân giải
phóng miền Nam VN và giải tán Chính phủ lâm thời miền Nam VN, vụ đàn áp Câu
lạc bộ những người kháng chiến cũ, v.v... Nhưng thôi, cái đó chưa phải là vấn
đề đáng nói ở đây. Vấn đề đáng nói là ông quy những sai lầm đó vào “phương
pháp tư tưởng”, hàm ư những sai lầm đó chỉ là do “phương pháp tư duy “tả
khuynh”” mà thôi. Cách đặt vấn đề như thế không đúng, v́ thật ra những cái mà
ông gọi là sai lầm “tả khuynh” đó nằm ngay trong bản chất của chủ nghĩa
Marx-Lenin, chúng là biểu hiện của chủ nghĩa Marx-Lenin. Nếu chúng ta b́nh
tĩnh đọc lại “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” hay những tác phẩm của ông Marx
viết về Công xă Paris chẳng hạn, th́ thấy – so với thực tiễn – có nhiều điều
ông Marx nói sai, “tả khuynh” rơ rệt, thậm chí “không tưởng”. Đến thời ông
Lenin th́ lại càng có nhiều điều “tả khuynh” nữa. Chẳng hạn như, ông Lenin đă
thực hiện cái gọi là “chủ nghĩa cộng sản thời chiến”, ông Lenin nhận định chủ
nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản giăy chết, là đêm trước của cách mạng vô
sản, nên ông vội vă huy động lực lượng giai cấp vô sản gấp rút làm cách mạng
thế giới, v.v... và v.v... Đến thời ông Stalin, ông Mao Trạch Đông – hai ông
này cũng là những nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx-Lenin đấy – biết bao nhiêu
chủ trương, chính sách của hai ông đều đáng gọi là “đại tả khuynh”. Chính v́
“xu hướng tả khuynh” nằm trong bản chất của chủ nghĩa Marx-Lenin, nên khi một
cán bộ CS phạm sai lầm “tả khuynh”, th́ nói chung họ không hề bị kỷ luật nặng,
thậm chí có khi c̣n được coi là “lập trường giai cấp vững” chỉ có “phương pháp
tư tưởng” sai mà thôi. Có thể có người sẽ phản đối tôi bằng cách đưa ra dẫn
chứng là trong cuộc cải cách ruộng đất (CCRĐ) ở miền Bắc có bốn ông “trùm sỏ”
lănh đạo CCRĐ (các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Hồ Viết
Thắng) đă bị thi hành kỷ luật. Đúng, họ có bị “thi hành kỷ luật”, nhưng cái
kiểu kỷ luật đó thực tế chỉ là tṛ “giơ cao đánh khẽ” để xoa dịu nỗi bất b́nh
đang dâng lên hừng hực của dân chúng và đảng viên cán bộ mà thôi. Thi hành kỷ
luật cái ǵ khi cả bốn ông đó đều được chuyển sang những cương vị lănh đạo vào
loại cao nhất ở các cơ quan đảng và chính quyền! Thử hỏi rằng cái gọi là “kỷ
luật” đó có cân xứng với việc thảm sát hàng ngh́n người dân và đảng viên vô
tội, bắt bớ, tù đày hàng chục ngh́n người vô can, làm đảo lộn cả nếp sống và
đạo đức truyền thống của xóm làng VN hay không? Tóm lại, theo cách nh́n thông
thường của giới lănh đạo ĐCS th́ sai lầm gọi là “tả khuynh” chẳng qua chỉ là
chứng tỏ người cán bộ đó có “lập trường vững” mà thôi. Họ chỉ sai về “phương
pháp tư tưởng” nên đáng được chiếu cố! C̣n những người bị ĐCS quy kết cho cái
tội gọi là chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại (mà lắm khi sự quy kết đó rất
sai lầm) th́ bị coi như là phản động, bị đảng ch́ chiết, trù ếm họ, bị thành
kiến lâu dài, và “sinh mệnh chính trị” của họ thế là tiêu vong.
Như tôi đă tŕnh bày trên, cái mà ông Kiệt gọi là “phương pháp tư duy “tả
khuynh” hay “xu hướng tả khuynh” chính là nằm trong bản chất chủ nghĩa
Marx-Lenin. V́ thế, không thể nói vẫn phải tiếp tục “kiên tŕ chủ nghĩa
Marx-Lenin” mà chỉ cần thay đổi “phương pháp tư tưởng” thôi. Muốn tránh những
cái gọi là “tả khuynh” đó, đă từng gây ra biết bao tai hoạ cho người dân th́
rơ ràng chỉ có một cách là từ bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin.
Nh́n lại lịch sử của ĐCS Liên Xô và các ĐCS khác, ta đều thấy rất rơ cái “lập
trường giai cấp” nhất quán của họ. Chẳng hạn, đối với vấn đề “thị trường”.
Theo chủ nghĩa Marx-Lenin th́ phải triệt tiêu cái gọi là “thị trường tự do”
th́ mới thực hiện được chủ nghĩa xă hội. Dưới thời Lenin, chính sách triệt
tiêu đó đă đưa đất nước đến khủng hoảng trầm trọng, công nhân, nông dân cực kỳ
bất măn, chính quyền Xô-viết có nguy cơ sụp đổ, Lenin phải vội vă đưa ra
“chính sách kinh tế mới” nới cho người dân được buôn bán, nên “quy luật thị
trường” được phát huy tác dụng, nhờ đó kinh tế được phục hồi. Cái gọi là “mở
cửa” của Trung Quốc, “đổi mới” của VN sau này cũng làm theo cách đó của LX.
Đến khi kinh tế LX cứng cáp lên được một tí th́ Stalin phế bỏ “chính sách kinh
tế mới”, lại tiếp tục bóp nghẹt “thị trường tự do” đúng tinh thần triệt tiêu
thị trường tự do của Marx. Lại khủng hoảng kinh tế, nên đến thời Khrutshev lại
phải nới ra cho “thị trường tự do” được thoi thóp thở, bằng cách cho phép nông
dân nông trang được nuôi ḅ, cừu, dê riêng (tất nhiên, với số lượng rất hạn
chế) và cho mở “chợ nông trang” để nông dân đem sản phẩm làm được trên “mảnh
ruộng phần trăm” và chăn nuôi gia đ́nh ra bán ở chợ. Kinh tế phục hồi được một
chút th́ đến thời Brezhnev lại bóp nghẹt “thị trường tự do”, lại khủng hoảng
nặng nề, đến thời Gorbachev lại “cải tổ” cố mở rộng “thị trường tự do”, nhưng
rồi cuối cùng th́ LX sụp đổ, kéo theo sự suy bại của ĐCS. Và bây giờ th́ø ở
Nga nền kinh tế thị trường mở rộng như ở các nước khác và người dân thấy dễ
thở hơn trước.
Hay đối với vấn đề gọi là “đoàn kết dân tộc” cũng thế, khi thế lực của ĐCS c̣n
yếu th́ họ cố sức kêu gọi đoàn kết, họ cố lôi kéo cả các giai cấp mà trong
ḷng họ cho là thù địch, như địa chủ, tư sản, trí thức tư sản, họ làm ra vẻ
hiền lành với các đảng phái mà họ chưa diệt được, nhưng khi có lực lượng vững
vàng rồi họ lần lượt đấu tố địa chủ, đấu tố tư sản, tước đoạt tài sản của
những người này, rồi tiêu diệt các đảng phái chống đối họ, thậm chí giải tán
cả những “đảng bạn” đă từng theo họ làm tṛ “tung hứng” suốt mấy chục năm
trường. Đối với cái gọi là “lực lượng thứù ba” cũng thế, khi cần lôi kéo vào
“mặt trậân” nầy, “mặt trận” nọ, lập “chính phủ” lâm thời”, c̣n khi đă đạt được
mục tiêu chính trị của ḿnh rồi th́ “a-lê, hấp!”, nói thẳng ra là “đá đít”.
Những cái ngoắt ngoéo kiểu dích-dắc này chẳng nhẽ gọi đó là “tả khuynh”, là
“phương pháp tư tưởng” sai? Phải thẳng thắn nói rơ đó là sách lược, là chiến
thuật giai đoạn của những người theo chủ nghĩa Marx-Lenin, là “lập trường giai
cấp” của ĐCS.
Bản “Góp ư kiến...” của ông Vơ Văn Kiệt nêu ra rất nhiều vấn đề. Để không làm
mệt óc bạn đọc, người viết chỉ xin đề cập đến một vấn đề quan trọng nhất mà
ông Kiệt đă đưa lên hàng đầu là vấn đề chủ nghĩa Marx-Lenin, và một lần nữa
xin nói rơ là: cần phải dứt khoát từ bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin, v́ nó là “nguyên
nhân của nguyên nhân” (từ ngữ này của ông Kiệt) của t́nh trạng độc tài toàn
trị, tham nhũng tràn lan và tụt hậu trầm trọng của đất nước, t́nh trạng vô
quyền và khốn khổ của người dân. Từ bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin chính là sự bứt
phá mạnh dạn nhất về tư duy, dẫn đến sự bứt phá về đường lối và tổ chức. Chỉ
có một sự bứt phá thật sự như vậy mới tạo tiền đề cho việc xây dựng một đất
nước tự do, dân chủ, giàu mạnh, để đất nước vươn lên thoát khỏi t́nh trạng tụt
hậu thê thảm hiện nay.
29/09/2005