| ||||||
|
QUỐC HỘI PHẢI KIỂM SOÁT ĐƯỜNG LỐI LĂNH ĐẠO QUỐC GIA
NGUYỄN HỌC TẬP Ai trong chúng ta cũng biết trong một Quốc Gia Dân Chủ, quyền lực Quốc Gia được ủy thác theo nguyên tắc phân quyền, Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp theo tinh thần “ Kiểm soát và Cân Bằng” ( Checks and Balances) Hiến Pháp Philadelphia 1787 của Hoa Kỳ. Và danh từ Lập Pháp được dùng để nói lên phận vụ của Quốc Hội. Nhưng nói như vậy, không có nghĩa là Quốc Hội cán đáng hết, từ đầu đến cuối tiến tŕnh “ Lập Pháp ” ( làm ra luật) để cai quản Quốc Gia. Bởi lẽ, nếu một số đạo luật do chính các Ủy ban Quốc Hội đề xướng ra, th́ nhiều dự án luật do chính Chính Quyền, đụng chạm với thực tế trong cuộc sống hằng ngày đề xướng ra, để giải quyết các vấn đề và chuyển giao cho Quốc Hội để biểu quyết. Ở nhiều Quốc Gia Dân Chủ và Tản Quyền, các Tiểu Bang thành viên, Cộng Đồng Địa Phương, các tổ chức xă hội trung gian cũng có quyền đề xướng dự thảo luật (Điều 79, đoạn 3 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức; điều 23; 71; 99; 121 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc) Các dự án luật được nhiều thành phần đề xướng, soạn thảo, phải được chuyển đến Quốc Hội, được Quốc Hội duyệt xét và chấp thuận hay từ chối, sau đó các dự án luật mới trở thành luật và có hiệu luật áp dụng. Nói cách khác, nhiệm vụ “ Lập Pháp ” chính yếu của Quốc Hội là “chuẩn y hay bác bỏ ” luật pháp hơn là “ làm luật ”, soạn thảo, tạo ra luật. Phần đông chúng ta hiểu nhiệm vụ “ Lập Pháp ” của Quốc Hội ở lằn mức đó. Trong nhiều nước dân chủ, nhiệm vụ “ Lập Pháp ” của Quốc Hội đươc hiểu rộng răi hơn những ư nghĩa hạn hẹp chúng ta vừa tŕnh bày. Là cơ quan dân cử, được dân chúng tín nhiệm và giao phó cho đời sống Quốc Gia trong tay, nhiệm vụ của Quốc Hội là thay mặt dân chúng trong quyền hạn rộng răi hơn, lănh đạo Quốc Gia, và “ Lập Pháp ” chỉ là một trong những phương thức để lănh đạo Quốc Gia. Vai tṛ lănh đạo Quốc Gia của Quốc Hội gồm hai phương diện: - hướng dẫn chính hướng hay đường lối chính trị Quốc Gia, - kiểm soát định hướng đúng đắn và thực thi hiệu năng vào thực tế. Vai tṛ hướng dẫn đường lối chính trị Quốc Gia hay “ xác định mục đích cần đạt được ” là vai tṛ thúc đẩy cho các cơ quan hiến định, Hành Pháp và cả Tư Pháp thực thi lư tưởng được Hiến Pháp đề ra, áp dụng vào thực tế. Nhiệm vụ đó Quốc Hội bắt đầu thực hiện ngay khi duyệt xét và đồng thuận chuẩn y đường lối chính trị Quốc Gia, được Chính Quyền đề ra và xin Quốc Hội chấp thuận bằng động tác bỏ phiếu tín nhiệm, khi Chính Quyền vừa được thành lập: - “ Chính Phủ phải được sự tín nhiệm của Lưỡng Viện Quốc Hội. Nội trong mười ngày sau khi được thành lập, Chính Phủ đến tŕnh diện trước Lưỡng Viện Quốc Hội để được tín nhiệm ” (Điều 94, đoạn 1 và 3 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc). Sau đó nhiệm vụ hướng dẫn đường lối chính trị Quốc Gia, tín nhiệm Chính Phủ, đường lối chính trị của Chính Phủ, cho phép Chính Phủ bắt đầu hành xử quyền lực Quốc Gia, Quốc Hội có thể chu toàn nhứt là bằng cách soạn thảo các dự án luật, tự ḿnh hay cùng chung với các cơ chế hiến định khác, Chính Quyền, Cộng Đồng Địa Phương, các tổ chức xă hội trung gian, như đă nói và nhứt là “ chuẩn y hay bát bỏ ” các dự án luật hợp hiến hay bất hợp hiến. Đường lối chính trị hay đường lối lănh đạo Quốc Gia có thể là - đường lối ngoại giao và các mối tương quan quốc tế, - chương tŕnh quốc pḥng, - phương cách xử sự đối với các cuộc khủng hoảng quốc tế, - mối tương quan giữa các Tiểu Bang thành viên, Cộng Đồng Địa Phương với nhau và với trung ương, - các dự án kinh tế và ngân sách, - các lănh vực tổ chức hành chánh về an ninh công cộng, xă hội, y tế, giáo dục…( De Vergottini G. Indirizzo politico della difesa e sistema costituzionale,Giuffré, Milano 1971, 240). Tiến tŕnh soạn thảo và “ chuẩn y hay bát bỏ ” các dự án luật, chúng ta sẽ có dịp trở lại trong một bài viết khác. Với chủ đề của bài viết hôm nay, “ QUỐC HỘI KIỂM SOÁT ĐƯỜNG LỐI LĂNH ĐẠO QUỐC GIA”, chúng ta muốn cùng nhau t́m hiểu vai tṛ kiểm soát của Quốc Hội đối với những ai có trách nhiệm hành xử quyền lực Quốc Gia, đối với Hành Pháp và các cơ quan hành chánh quản trị của Hành Pháp, hướng dẫn bằng luật pháp và kiểm soát sao cho các lư tưởng Hiến Pháp đề ra phải được thực hiện, hiệu năng, không lệch hướng và không hống hách lạm quyền, không thiên vị. Thể chế Dân Chủ không phải chỉ là thể chế được định nghĩa “ quyền tối thượng của Quốc Gia thuộc về dân ”, mà c̣n tùy thuộc ở việc “ người dân làm cách nào hành xử quyền lực của ḿnh ” qua những người đại diện, mà không bị họ lạm dụng, dùng chính chủ quyền tối thượng của ḿnh để áp đảo, đàn áp và cũng có thể bắt ḿnh làm nô lệ cho họ. Nói cách khác, trong thể chế Dân Chủ, quyền tối thượng của người dân trao cho các người đại diện hành xử phải luôn luôn được kiểm soát. Và qua các kinh nghiệm ê chề đối với các bạo chúa của thể chế quân chủ trong quá khứ, cũng như những bộ mặt độc tài như Hitler và Mussolini, người dân Tây Âu chỉ ngủ yên giấc, nếu quyền bính quốc gia của họ giao phó cho Hành Pháp xử dụng vẫn c̣n được Quốc Hội, cơ chế dân cử do chính họ tín nhiệm tự do tuyển chọn, có thể kiểm soát được. Nói cách khác, quyền hành Quốc Gia vẫn c̣n nằm trong tằm tay của Quốc Hội. Người dân Tây Âu mới ngủ yên giấc, khi giao trọn quyền của tổ chức Quốc Gia vào tay Quốc Hội, sau những kinh nghiệm ê chề vừa kể. Hiểu như vậy, chúng ta hiểu được tại sao hầu hết các Quốc Gia Tây Âu đều theo Đại Nghị Chế (Parlamentarisme), ngay cả các Quốc Gia c̣n có thể chế Quân Chủ như Anh Quốc, Bỉ, Hoà Lan, Na Uy, Thụy Điển…, là những Quốc Gia Quân Chủ Lập Hiến hay Quân Chủ Đại Nghị Chế, mà câu nói đặt điều kiện với vua trong việc trả thuế của dân chúng Anh là một câu nói tiêu biểu, “ No taxation, without reppresentation” ( Nếu Nhà Vua không cho người dân cử thêm người đại diện vào Hạ Viện ( House of Commons), dân chúng sẽ không đồng thuận trả thuế thêm cho vua). Quốc Hội kiểm chứng đường lối hành xử và hiệu năng thực thiện của Chính Quyền theo đường lối chính trị mà Chính Quyền đă tŕnh nhiệm Quốc Hội ngày ra mắt để xin Quốc Hội tín nhiệm. Mục đích của những cuộc kiểm chứng là để Quốc Hội có thể phê b́nh, đặt điều kiện với Chính Quyền và có thể đi đến việc bất tín nhiệm, nếu Chính Quyền cứ bất chấp, hành xử lệch lạc vi hiến, không tôn trọng chính hướng và chương tŕnh đă tuyên hứa hoặc không hiệu năng. Cũng có thể các cuộc kiểm chứng giúp cho Quốc Hội thấy rơ thực tại của các vấn đề hơn và có định hướng thích hợp hơn trong tương lai ( Galeotti S., voce Controllo parlamentare, Enc. di Diritto, X, Milano 1969, 322). Nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm soát, soạn thảo và chuẩn y luật pháp ( lập pháp) để thực hiện định hướng trong vai tṛ lănh đạo Quốc gia của Quốc Hội ngầm chứa việc Quốc Hội phải có được những hiểu biết cần thiết, để quyết định. Để có được những hiểu biết cần thiết vừa kể, Quốc Hội có thể thực hiện bằng hai tiến tŕnh: t́m hiểu và điều tra. a) Trong tiến tŕnh t́m hiểu, phương thức quan trọng đầu tiên là “ lắng nghe ” ( hearings), - được nội quy Hạ Viện Cộng Hoà Liên Bang Đức ( Bundestag) quy định ở điều 73, đoạn 3; - nội quy Hạ Viện Ư Quốc, ở điều 144 và Thượng Viện, điều 48. *Các Ủy Ban Quốc Hội lắng nghe các ư kiến và đón nhận những nguồn tin, ngay cả từ những người không thuộc về thành phần Quốc Hội, mà Ủy Ban cho là có thẩm quyền, những ngựi đặc trách hành chánh và quản trị liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến các cơ quan Quốc Gia chẳng hạn. * Các Ủy Ban liên hệ của Quốc Hội có thể điều tra thêm để có tầm hiểu biết đầy đủ, tương tợ như những cuộc điều tra thực sự ( Predieri A., Per l’introduzione delle undienze legisltative nel parlamento italiano, in Il Potere, 1966, 1109). Để giúp cho công việc t́m hiểu của Quốc Hội được dễ dàng, nhiều Hiến Pháp tiền liệu với các điều khoản rằng Chính Quyền có bổn phận phải tŕnh diện định kỳ trước Quốc Hội để tường tŕnh kết quả mà chương tŕnh quản trị của ḿnh đă thực hiện được và để Quốc Hội có thể kiểm chứng. - * Ở các Quốc Gia với định chế phân quyền cứng rắn như trong Tổng Thống Chế Hoa Kỳ chẳng hạn, Tổng Thống mỗi năm tường tŕnh trước Quốc Hội ( Congress) “ bản tường tŕnh về t́nh trạng hợp nhứt ” để Quốc Hội thẩm định kỷ lưỡng (Điều 2, khoản 3, Hiến Pháp Philadelphia 1787). * Ở Thụy Sĩ, sau khi được tường tŕnh về cán cân quản trị hàng năm của Hội Đồng Liên Bang trước Lưỡng Viện Quốc Hội, Quốc Hội sẽ thảo luận và rút đúc kết cho dự án năm tới (Điều 102, đoạn 16 Hiến Pháp 1874). Bản tường tŕnh không những đề cập đến đường lối chính trị do Hội Đồng Điều Hành Liên Bang thực hiện, mà cả những hoạt động của mỗi Vùng ( Canton). Các việc làm vừa kể sẽ được Văn Pḥng Quốc Hội phổ biến cho công chúng. Ở Hoa Kỳ cũng như ở Thụy Sĩ như vừa kể, các bản tường tŕnh sẽ được các Ủy Ban liên hệ của mỗi Viện Quốc Hội duyệt xét, trước khi đem ra bàn thảo. - Ở các định chế theo Đại Nghị Chế, các bản tường tŕnh định kỳ vừa kể không có tính cách bắt buộc, bởi lẽ Quốc Hội có những phương thế khác để kiểm soát. Dù vậy, một vài Hiến Pháp Đại Nghị Chế Âu Châu cũng tiền liệu tính cách bắt buộc của các buổi tường tŕnh của Chính Quyền trước Quốc Hội. *Ở Phần Lan, mỗi năm Chính Quyền bị bắt buộc phải tường tŕnh trước Hạ Viện các hoạt động của ḿnh để Hạ Viện có thể kiểm soát những ǵ các cơ quan hành chánh và quản trị đă thực hiện hay c̣n thiếu sót. *Ở Anh quốc, Luxemburg, Hoà Lan, các buổi tường tŕnh được diển ra dưới h́nh thức là “diển văn của Nhà Vua ” ( hay Nữ Hoàng ), được Quốc Hội bàn thảo sau đó và đi đến lá phiếu chung kết để quyết định ( Hood Philips O. and Jackson P., Constitutional and Administration Law, VI ed., London 1978, 128). *Ở nhiều Quốc Gia Đại Nghị Chế khác, một phần các Bộ Trưởng Chính Phủ có thể hiện diện trong Quốc Hội, chính họ có thể đă tường tŕnh cho Quốc Hội những ǵ phải được đề cập, ở một vài định chế khác, chính Quốc Hội yêu cầu Chính quyền phải chính thức cử đại diện đến tường tŕnh - Ư Quốc, Hiến Pháp 1947, điều 64, đoạn 4; - Nhật, Hiến Pháp 1946, điều 63; - Cộng Hoà Liên Bang Đức, Hiến Pháp 1949, điều 43; - Pháp, Hiến Pháp 1958, điều 31; - Thụy Điển, Hiến Pháp 1975, điều 4, Chương IV; - Tây Ban Nha, Hiến Pháp 1978, điều 110). * Một vài nội quy của Quốc Hội cũng tiên liệu buổi “ lắng nghe” ( hearings) của Quốc Hội cũng có thể do các Ủy Ban Liên Hệ Quốc Hội đảm trách, thay v́ phải qua các phiên họp Quốc Hội. *Ở Ư Quốc, các Bộ Trưởng không thể từ chối tŕnh diện trước các Ủy Ban Quốc Hội để cung cấp những dữ kiện mà Quốc Hội muốn biết (điều 64, Hiến Pháp 1947). Và Nội Quy Hạ Viện cho phép các Ủy Ban liên hệ có quyền yêu cầu các Bộ Trưởng tham dự các buổi họp của Ủy Ban để tường tŕnh về đường lối chính trị và tiến tŕnh quản trị thực hiện của các Bộ trực thuộc (điều 143, Nội Quy Hạ Viện). *Cũng vậy, ở Cộng Hoà Liên Bang Đức, trong các buổi họp thường xuyên định kỳ của các Ủy Ban thường là các buổi hợp không công khai, nhưng trước đó các Ủy Ban có thể mở ra các buổi họp trước công chúng để thông báo cho mọi người biết tiến tŕnh đă đạt được, cũng như c̣n phải thực hiện theo đường lối chính trị Quốc Gia (điều 43 Hiến Pháp 1949; điều 73, Nội Quy Hạ Viện) Dĩ nhiên những buổi “ lắng nghe” như vừa kể đều đă được thoả thuận trước với Quốc Hội về đề tài được tŕnh bày, cũng như thời gian bao lâu và thời điểm hẹn với các Ủy Ban ( Manzella A., Le Funzioni, 117). b) Đặt câu hỏi ( Interrogation). Phương thức đơn giản kế đến để giúp Quốc Hội nắm vững t́nh h́nh đất nước là phương thức « đặt câu hỏi ». Là phương thức đơn giản để Quốc Hội biết được tin tức và những giải thích cần thiết từ phía Chính Quyền vể t́nh h́nh chính trị cũng như tiến tŕnh quản trị đất nước. Đặt câu hỏi có thể dưới h́nh thức - vấn đáp bằng miệng ( orale), - hỏi và trả lời bằng giấy bút. để Chính Quyền trả lời ứng khẩu trước Ủy Ban liên hệ hay trước các phiên họp QuốcHội, hoặc trả lời bằng thư tín. Kết quả của tiến tŕnh đặt câu hỏi không đưa đến việc bỏ phiếu chung kết sau cùng để giải quyết vấn đề nếu có, v́ chúng ta đang c̣n trong thời gian t́m hiểu của Quốc Hội ( Maresca A., Le interrogazioni e le interpellazioni presso il parlamento italiano e presso alcune assemblee parlamentari europei e extra-europei, in Studi per il XX anniversario della Assemblea Costituente, V, Firenze 1969, 469s). Trên thực tế, hiện nay cách đặt câu hỏi thường dùng là cách dùng giấy bút, bởi lẽ những vấn đề Quốc Hội cần biết trong việc lănh đạo đất nước gồm cả khối khổng lồ những câu hỏi, không có cách ǵ Chính Quyền ứng khẩu giải đáp thoả đáng cho hết, do đó chỉ có thể trả lời bằng văn thư từ mỗi cơ quan liên hệ. Các việc « đặt câu hỏi » gồm có việc muốn được Chính Quyền giải thích về một vấn đề xác định nào đó, do một thành viên Quốc Hội muốn được một Bộ trưởng liên hệ - giải thích, - để lưu ư Chính Quyền loại bỏ đi những lạm dụng của các cơ quan hành chánh, quản trị, - hoặc để được Chính quyền giải thích cho tại sao có những sự việc không được trôi chảy, nhiều chương tŕnh không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng định kỳ. Việc « đặt câu hỏi » là tiến tŕnh cá nhân, do một thành viên Quốc Hội khởi xướng, không có mục đích biết rơ thực hư sụ việc đă hay đang xảy ra như thế nào, thường th́ nhiều người đă biết rồi mới đến tai Quốc Hội, cho bằng có mục đích lưu ư Chính Quyền về tạo dư luận quần chúng hơn. - Ở Ư Quốc, theo điều 8 Nội quy Hạ Viện, dân biểu nào muốn « đặt câu hỏi » đối với Chính Quyền phải viết thành văn bản và đệ tŕnh cho Văn Pḥng Chủ Tịch Hạ Viện. * Bản văn của việc « đặt câu hỏi » sẽ được in ra và phát cho tất cả các hạ nghị sĩ. * Thường th́ các câu trả lời cũng được viết bằng văn thư, đối với các vấn đề liên quan đến cá nhân hay chi tiếc về quản trị. * Các câu hỏi trực tiếp bằng miệng được dành cho thời gian trong một giờ trong mỗi phiên họp của Quốc Hội và một tuần họp hai lần, một phần thời gian được dành cho đại diện Chính quyền trả lời ( Jones G. W., The Prime Minister and Parliamentary Questions, PA, 1972-1973, 260). * Các câu hỏi phải được đặt trước ít nhứt hai ngày để Chính Quyền có thời gian trả lời * Chính Quyền có quyền cho rằng ḿnh không thể trả lời về vấn đề được đề cập và phải cho biết lư do (điều 131, Nội Quy Hạ Viện và 148, Nội Quy Thượng Viện) * Nếu vị dân biểu đặt câu hỏi không hài ḷng về những ǵ Chính Quyền giải đáp liên hệ đến vấn đề, ông có quyền đặt lại vấn đề trong kỳ họp tới của Quốc Hội (điều 133, Nội quy Hạ Viện và 149, Nội Quy Thượng Viện). * Vị dân biểu đặc câu hỏi, qua những ǵ được nghe hay không được nghe Chính Quyền trả lời có thể cho biết ư kiến là ông sẽ yêu cầu Chính Quyền tŕnh bày với Ủy Ban Quốc Hội liên hệ (điều 133 Nội quy Hạ Viện và 147-152, Nội Quy Thượng Viện). * Về thứ tự trả lời các câu hỏi được đặt ra, Chính Quyền có quyền lựa chọn trả lời vấn dề nào trước hay sau, tùy theo Chính Quyền chọn lựa ưu tiên khẩn cấp đối với vấn đề cần trả lời (điều 135 Nội Quy Hạ Viện và 151, Nội Quy Thượng Viện). - Ở Cộng Hoà Liên Bang Đức, việc « đặt câu hỏi » ( Kleine Anfrage) được thiết định dưới h́nh thức giấy bút và phải được ít nhứt 36 dân biểu kư tên ( con số tối thiểu để có thể thành lập nhóm dân biểu tùy theo chính hướng trong Quốc Hội), điều 11, Nội Quy Hạ Viện ( Bundestag). * Chính Quyền bị bắt buộc phải trả lời trong ṿng 14 ngày, bằng văn thư. Quá thời hạn ấn định hoặc các dân biểu đặt câu hỏi không thoả măn về những ǵ ḿnh muốn biết, các ông có thể biến việc « đặt câu hỏi » thành « chất vấn » ( Grosse Anfrage), điều 105 Nội Quy Hạ Viện hay thành những câu vấn đáp trực tiếp bằng miệng ( Kurze muendliche Anfrage), điều 111, Nội Quy Hạ Viện. Cũng theo Nội Quy Hạ Viện, mỗi tuần Hạ Viện thiết định ba khoản thời gian, mỗi lần một giờ để các dân biểu « đặt câu hỏi » và nghe Chính Quyền trả lời. * Mỗi dân biểu có quyền được đặt hai câu vấn đáp trực tiếp bằng miệng như vừa kể và hai câu bổ khuyết. * Các dân biểu khác có quyền tham dự bằng những câu hỏi bổ khuyết khác. * Sau phần trả lời của Chính Quyền, theo Nội Quy 1965 Hạ Viện, 26 dân biểu ( con số tối thiểu để một chính đảng có quyền hiện diện ở Hạ Viện) có thể đưa vấn đề ra bàn cải trong ṿng một giờ, mỗi dân biểu được quyền phát biểu 5 phút ( Wite – Wegmann G., Recht und Kontrollfunktion der grossen, kleinen und muendlichen Anfrage in Deutschen Bundestag, Berlin 1972). c) Chất vấn ( Interpellation). Sau phần t́m hiểu bằng « lắng nghe » và « đặt câu hỏi », chúng ta bước sang phần điều tra để kiểm soát của tiến tŕnh quyền kiểm soát của Quốc Hội đối với Hành Pháp. Cũng giống như việc « đặc câu hỏi », tiến tŕnh « chất vấn » cũng có tính cách cá nhân. Tuy nhiên « chất vấn » khác với « đặt câu hỏi » về phương diện nội dung cũng như dưới nhăn quang hiệu lực trong đường lối kiểm soát của Quốc Hội. Về phương diện nội dung : « chất vấn » được thực hiện với mục đích để xác nhận chắn chắn, không phải đối với sự việc của vấn đề đang bàn, cho bằng để xác nhận thái độ của Chính quyền hay của một vài Bộ liên hệ. Về phương diện hiệu lực : chất vấn có hai đặc tính chính : - tiến tŕnh chất vấn sẽ được diển biến kế tiếp bằng việc bàn thảo về đường lối tổng quát của Chính Quyền và mọi thành viên Quốc Hội đều có quyền tham dự, không cứ ǵ chỉ phải là những thành viên đưa ra chất vấn. - kết quả của cuộc bàn thảo là Quốc Hội sẽ có thái độ đối với Chính Quyền, bởi lẽ phần cuối của cuộc bàn thảo sẽ được kết thúc bằng cuộc bỏ phiếu, hài ḷng hay không hài ḷng về những giải thích của Chính Quyền hay của các Bộ liên hệ, và như vậy Quốc Hội c̣n tín nhiệm hay không tín nhiệm Chính Quyền để Chính Quyền có thể tiếp tục quản trị Quốc Gia. - Như vậy kết quả của tiến tŕnh chất vấn sễ cho thấy đâu là trách nhiệm của Chính Quyền hay các Bộ liên hệ, không những có liên hệ dến kết quả mà c̣n cả đến đường lối hành xử của những ai đương cuộc. Chất vấn do đó không phải chỉ là dụng cụ để Quốc Hội t́m hiểu sự việc, mà c̣n là phương thế để Quốc Hội kiểm soát đường lối hành xử chính xác của Chính Quyền và giới hành chánh quản trị lệ thuộc. *Ở Bĩ : chất vấn là phương tiện chính để làm nổi bậc trách nhiệm của Bộ hay các Bộ liên hệ ( Van Impe H.,Le rôle de la majorité parlementaire dans la vie politique belge, Bruxelles 1966, 11). Nội dung Quốc Hội cấm lạm dụng phương thức chất vấn: vị dân biếu chất vấn được quyền phát biểu tối đa nửa tiếng đồng hồ. Nếu vị Bộ Trưởng trả lời, chỉ có tối đa 4 dân biểu được can thiệp đặt câu hỏi thêm. Nều vị Bộ Trưởng không trả lời, tiến tŕnh chất vấn được coi là kết thúc và vị dân biểu đứng ra chất vấn được bày tỏ ư kiến thêm 15 phút nữa. * Ở Cộng Ḥa Liên Bang Đức : « chất vấn » ( Grosse Anfrage, câu hỏi lớn) là dụng cụ thích hợp để đưa đến tranh luận công cộng rộng răi và hiệu năng để kiểm soát đường lối chính trị của Chính Quyền (điều 105, Nội Quy Hạ Viện). Mọi cuộc « chất vấn » phải được viết thành văn bản, mang chữ kư của ít nhứt 26 dân biểu và được chuyển đến văn pḥng Chủ Tịch Hạ Viện. Sau khi tham khảo với Chính Quyền, Chủ Tịch Hạ Viện có bổn phận loan báo cho Quốc Hội biết Chính Quyền có ư định trả lời hay không và lúc nào. Chính Quyền không bị bắt buộc phải trả lời. Nhưng nếu có lời yêu cầu của 26 dân biểu, Hạ Viện phải ghi vào chương tŕnh nghị sự cuộc thảo luận, và Chính Quyền bị bắt buộc phải có mặt trong cuộc thảo luận được ấn định trong chương tŕnh nghị sự ( Wite-Wegmann G., op. cit., id.). * Ở Ư Quốc : Nghị viên « chất vấn » có quyền tŕnh bày vấn đề trong 15 phút. Sau khi Chính Quyền trả lời, nghị viên « chất vấn » có quyền cho biết ư kiến trong ṿng 10 phút, để phát biểu ông thỏa măn hay không về những giải đáp của Chính Quyền (điều 138, Nội quy Hạ Viện). Nếu nghị viên « chất vấn » không thoả măn những ǵ Chính Quyền giải đáp và có ư định đưa vấn đề ra bàn cải, ông có thể tŕnh đưa kiến nghị đến văn pḥng Chủ Tịch Hạ Viện. Kiến nghị sẽ được đem ra bàn thảo và được kết thúc bằng cuộc bỏ phiếu của Hạ Viện. d) Các Ủy Ban Thường Trực ( Commissions Permanents ). Ngoài ra các phương pháp cá nhân vừa kể để t́m hiểu và khởi đầu tiến tŕnh kiểm soát, Quốc Hội cũng được tổ chức thành những Ủy Ban chuyên môn để đáp ứng những nhu cầu liên hệ cho hoạt động của ḿnh, đó là các Ủy Ban Thường Trực. Ở Hoa Kỳ: các Ủy Ban Thường Trực ( Standing Commitees) không những chỉ có bổn phận nghiêng cứu và soạn thảo các dự án luật, mà c̣n để giữ liên lạc vững chắc và liên tục với Chính Quyền ( Elia L., voce Commissioni Permanenti, Enc. Dir., VII, 1960, 907-908). * Ủy Ban Thường Trực là nơi Quốc Hội ( cơ quan Lập Pháp) làm cho Hành Pháp nhận lănh trách nhiệm về đường hướng và phương cách cũng như hiệu năng hành xử quyền lực Quốc Gia của ḿnh, nếu không, khó ai có thể quy trách cho Hành Pháp được, do phương thức phân quyền. * Mặc dầu các Ủy Ban Thường Trực, lúc đầu chỉ xen vào nội bộ của Hành Pháp liên quan đến những lănh vực Lập Pháp của ḿnh, “ chuẩn y hay bác bỏ ” các dự án luật, quyền điều tra và kiểm soát không được Hiến Pháp Philadelphia 1787 đề cập đến, nhưng hiện nay mọi người đều công nhận quyền điều tra và kiểm soát của Congress là quyền lực đi liền với bản thể của Quốc Hội. * Thường th́ các nhiệm vụ vừa kể, điều tra và kiểm soát là phận vụ của các Ủy Ban Thường Trực ( Standing Commitees), tuy nhiên đối với một vài lănh vực chuyên biệt, Quốc Hội cũng có thể lập ra các Ủy Ban Điểu Tra Chuyên Biệt ( Investigating Committeees). * Nói cách khác Quốc Hội Hoa Kỳ có khả năng kiểm soát một cách tinh vi các hoạt động của Hành Pháp, nhứt là các hoạt động của hành chánh và quản trị, để có thể thực sự giám sát cách quản trị các phục vụ công cộng của Chính Quyền. * Các Ủy Ban Thường Trực có quyền - ra lệnh phải tŕnh diện trước Ủy Ban bất cứ ai, nhân viên Chính Phủ cũng như bất cứ người công dân nào, mà Ủy Ban cho rằng chứng cớ của họ hữu ích cho việc điều tra của ḿnh. - có quyền kết án những ai bất tuân không tŕnh diện, hoặc không chịu làm chứng ( De Vergottini G., Diritto Costituzionale Comparato, Cedam, Padova 1999, 588). * Ở Thụy Điển: Ủy Ban Thường Trực có quyền duyệt xét đường lối, thể thức và hiệu năng các hoạt động Chính Quyền, đối chiếu với Hiến Pháp, để kiểm soát tính cách hợp hiến hay vi hiến (điều 1 và 2 chương XII, Hiến Pháp 1975). * Ở Tây Ban Nha: Hai Ủy Ban Thường Trực được thiết lập để - hành xử thay thế vai tṛ của Thượng và Hạ Viện, trong suốt thời gian Quốc Hội Lưỡng Viện (Cortes) bị băi nhiệm trước định kỳ hay trong thời gian Quốc Hội măn nhiệm, đang chờ đợi để được bầu lại ( điều 78, Hiến Pháp 1978), - hành xử các nhiệm vụ giám sát hoạt động thường nhật của Chính Quyền, nhứt là trong những trường hợp Chính Quyền bị khủng hoảng (điều 116, id.). * Ở Bồ Đào Nha: Các Ủy Ban Thường Trực cũng được phó thác cho các phận vụ tương tợ như ở Tây Ban Nha, chiếu theo điều 179, Hiến Pháp 1976 Bồ Đào Nha. Theo tục truyền th́ các Ủy Ban Thường Trực được giao phó tho nhiệm vụ giám sát các hoạt động của Chính Quyền, nhứt là các Ủy Ban Ngoại Vụ được xem là các trung tâm đặc biệt của Quốc Hội để giám định các hoạt động của Chính Quyền trong các mối liên hệ quốc tế ( A. Cassese ( a cura di), Parlamento e politica estera. Il ruolo delle commissioni affari esteri, Cedam, Padova 1982). e) Ủy Ban Điều Tra Tạm Thời ( Commissioni Temporanee di Inchiesta). Thường th́ các hoạt động can thiệp điều tra là những liên hệ đă được tiền liệu giữa các Ủy Ban Thường Trực và Chính Quyền, được diển ra trong các phiên họp Quốc Hội, các phiên họp khoán đại cũng như các phiên họp của các Ủy Ban đặc trách liên hệ. Nhưng đôi khi Ủy Ban Điều Tra cũng có thể hành xử phận vụ của ḿnh trực tiếp đối với các cơ chế quản trị của Chính Quyền không cần có sự đồng thuận và hợp tác của Chính Quyền, để có được những tin tức và dữ kiện chính xác. * Ở Cộng Hoà Liên Bang Đức: cách hành xử trực tiếp ngoại lệ như vừa kể, điều tra trực tiếp tại nhiệm sở và đối với những ai có trách nhiệm, được giao cho Ủy Ban Thường Trực về Quốc Pḥng (điều 45, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ). *Ở Do Thái: cũng được giao cho Ủy Ban Thường Trực, nhưng Ủy Ban cần phải được Quốc Hội cho phép trước, chỉ định cho lănh vực liên hệ (điều 22, Hiến Pháp ( Knesset) 12.2.1958). * Ở các Quốc Gia khác, Hiến Pháp tiền liệu cho Quốc Hội có quyền thiết lập những Ủy Ban Điều Tra Tạm Thời, liên quan đến những lănh vực có giới hạn để điều tra sâu rộng hơn mà Quốc Hội cho là quan trọng cần phải t́m hiểu thấu đáo: - Bỉ, điều 56, Hiến Pháp 1994; - Ư, điều 82, Hiến Pháp 1947; - Cộng Hoà Liên Bang Đức, điều 44, Hiến Pháp 1949; - Nhật, điều 62, Hiến Pháp 1946; - Hy Lạp, điều 68, Hiến Pháp 1975; - Bồ Đào Nha, điều 178, Hiến Pháp 1976; - Tây Ban Nha, điều 76, Hiến Pháp 1978. * Ở Cộng Hoà Liên Bang Đức: chiếu theo điều 44 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ và điều 63, Nội Quy Hạ Viện ( Bundestag), các Ủy Ban Điều Tra Tạm Thời ( Untersuchungausschuss) có thể được thiết lập do ư kiến của đa số, nhưng đồng thời Hiến Pháp và Nội quy Hạ Viện cũng bảo đảm cho thành phần thiểu số có quyền có tiếng nói: chỉ cần ¼ thành viên Hạ Viện yêu cầu là Ủy ban cũng có đủ tư cách để được thiết lập ( Stefani W., Ueber die parlamentarischen Untersuchungausschuesse, in Kluxen, Parlamentarismus, Koeln-Berlin 1969, 262). Các Ủy Ban là những cơ quan phụ thuộc, trợ lực cho Quốc Hội, tùy thuộc vào Quốc Hội và được tổ chức tùy theo tỷ lệ đa số thành viên lực lượng các chính đảng trong Quốc Hội. Các Ủy Ban được Quốc Hội xử dụng để thu thập tin tức và dữ kiện chứng minh cho tiến tŕnh tố giác và h́nh luật. Các cơ quan tư pháp cũng như hành chánh có bổn phận trợ lực và dành mọi dễ dàng cho công việc của Ủy Ban. Với việc tu chính năm 1969, điều 74 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ tiền liệu cho việc thiết lập một loại Ủy Ban Điều Tra ( Enquête Kommission) để điều tra trong các lănh vực phức tạp, gíúp cho Quốc Hội có thể soạn thảo và chuẩn y những đạo luật mới một cách thoả đáng hơn. Ủy Ban vừa kể có thể gồm cả những thành phần không là Dân Biểu Quốc Hội, các chuyên viên trong nhiều lănh vực khác nhau, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư đại học chẳng hạn và hoạt động theo tinh thần các đạo luật vừa kể (Stern K., Das Staatsrecht der Bundesrepublik Deutschland, II, Muenchen 1984, 109). *Ở Ư Quốc: Quốc Hội có thể điều tra về bất cứ lănh vực nào có liên quan đến lợi ích công cộng (điều 82, Hiến Pháp 1947; điều 140-142, Nội Quy Hạ Viện; điều 162-163, Nội Quy Thượng Viện). Quốc Hội điều tra qua các Ủy Ban Điều Tra Lưỡng Viện Quốc Hội, được thành lập theo tỷ lệ đa số lực lượng chính trị trong Quốc Hội. Các Ủy Ban Điều Tra Lưỡng Viện Quốc Hội có quyền năng như các cơ quan tư pháp và trong giới hạn như quyền điều tra của các thẩm phán ( Di Ciolo V., Il diritto parlamentare, Giuffré, Milano 1990, 337). Trong các tổ chức Đại Nghị Chế, các Ủy Ban Điều Tra, tạm thời hay thương trực, đều là cơ quan kiểm soát chính trị của Quốc Hội. Các Ủy Ban chỉ có bổn phận điều tra và t́m hiểu, chuẩn bị cho những ǵ mà Quốc Hội mới là cơ quan duy nhứt có khả năng quyết định tin nhiệm hay bất tín nhiệm đối với Chính Quyền. Do đó trong Đại Nghị Chế, chúng ta nên phân biệt giữa kết thúc bản tường tŕnh của Ủy Ban Điều Tra và phán quyết chung kết của Quốc Hội ( A. Pace, Il potere d’inchiesta delle assemblee legislative, Saggi, Milano 1973, 1025). Chỉ có khi nào Quốc Hội thẩm định và phán quyết những ǵ đă được tường tŕnh đối với Chính Quyền, lúc đó việc làm của các Ủy Ban mới được coi là có giá trị hành xử quyền kiểm soát chính trị của Quốc Hội. Ư nghĩa mà Hiến Pháp muốn giao cho Quốc Hội kiểm soát chính hướng, thể thức và hiệu năng các hoạt động Chính Quyền là thành phần đối lập có thực quyền nằm trong tay để đề xướng tiến tŕnh - nghe tường tŕnh (auditions), - đặt câu hỏi ( interrogations), - chất vấn ( interpellations) - và điều tra ( enquêtes), bởi lẽ chỉ cần 1/4 dân biểu Hạ Viện là có thể đề xướng các tiến tŕnh vừa kể đối với Chính Quyền (điều 44, Hiến Pháp 1949 CHLBĐ). Thành phần đa số thân Chính Phủ trong Quốc Hội, trong Đại Nghị Chế, không thể ỷ thế « cả vú lấp miệng em », ếm nhẹm mọi cách hành xử « tác oai, tác quái tùy hỷ » của Chính Phủ. Thành phần đa số thân Chính Phủ trong Quốc Hội « có thể và phải » bảo vệ Chính Phủ trong các Ủy Ban Điều Tra và trong các phiên họp bàn thảo để bỏ phiếu « tín nhiệm hay bất tín nhiệm ». Nhưng cách thông thường, các phiên họp của Quốc Hội trong Thể Chế Dân Chủ là những phiên họp công cộng, biên bản đúc kết các phiên hội được phổ biến trên báo chí ai cũng biết. Do đó thành phần đa số ỷ thế cố bỏ qua hay bênh vực một cách bất chính hành động sai trái của Chính Phủ, sẽ có dịp tính sổ với dân chúng trong kỳ bỏ phiếu tới. Nhứt là cách bỏ phiếu « tín nhiệm hay bất tín nhiệm » Chính Phủ là những cuộc bỏ phiếu công khai và bỏ phiếu được điểm danh (nominale) ( De Vergottini G., Le inchieste delle assemblee parlamentari, Rimini 1985, 386). f) Ủy Viên Quốc Hội ( Commissaire, hay Ombudsman). Một vài Quốc Hội thực hiện nhiệm vụ kiểm soát của ḿnh đối với Chính Quyền bằng một cơ quan giám sát được gọi là Ủy Viên Quốc Hội ( Ombudsman), một danh từ xuất xứ từ các Quốc Gia Scandinavie. * Trong Hiến Pháp 1809 của Thụy Điển, Ombudsman được xem như là một cơ quan thân tín của vua để giúp vua liên tục kiểm soát cơ quan Hành Pháp, trong trường hợp thiếu vắng các hành động kiểm soát của Quốc Hội, v́ Quốc Hội chỉ nhóm họp một vài lần một năm (điều 96, Hiến Pháp 1809). Và hiện thời được tu chính bởi điều 6, chương XII, Hiến Pháp 1975). * Ở Na Uy, Ủy Viên Quốc Hội được chính Quốc Hội thiết lập ngày 21.4.1952. * Ở Đan Mạch, được xác định do điều 55, Hiến Pháp 1953 và tiếp đến là do đạo luật 11.6.1954, các văn kiện của Quốc Hội ngày 22.03.56 và 09.02.1962. * Ở Cộng Hoà Liên Bang Đức, Ủy Viên Quốc Hội chỉ được thiết lập cho lănh vực quân đội, bằng đạo luật 19.03.1956, trở thành tu chính án cho Hiến Pháp 1949 ở điều 45B và đạo luật 26.06.1957. * Ở Tân Tây Lan, Ủy Viên quốc Hội ( Parliamentary Commissioner) được thiết lập bằng đạo luật 7.9.1962. * Ở Anh Quốc, với Parliamentary Commissioner Act 22.3.1967. * Ở Pháp, “ un médiateur” được thiết lập với đạo luật 03.01.1973. * Ở Bồ Đào Nha, với điều 23 Hiến Pháp 1976. * Ở Tây Ban Nha, điều 54 Hiến Pháp 1978 và đạo luật số 3 ngày 06.04.1981.
* Ở Canada, Tỉnh Alberta ( 1967), Manitoba ( 1967), New Brunsweik ( 1967), Québec ( 1968). * Ở Hoa Kỳ, Tiểu Bang Hawai ( 1967). * Ở Ư và nhiều Quốc Gia khác nữa cũng đă thiết lập Ủy Viên Quốc Hội ( Ombudsman) ( Teresi F., Brevi osservazioni sull’Ombudsman delle Regioni, in Atti del XII Convegno di studi di scienza dell’amministrazione, Milano 1972, 292). Ombudsman ở mỗi Quốc Gia có phương thức hoạt động khác nhau. Khuôn mẫu đầu tiên của Thụy Điển, Ủy Viên Quốc Hội ( Ombudsman) là một cơ quan thân tín, đại diện và trung gian, được Quốc Hội lập ra ( hay đúng hơn là cơ quan thân tín của vua để liên tục giúp vua kiểm soát chính trị Quốc Gia, như đă nói), có nhiệm vụ thám sát nền hành chánh và quản trị tùy thuộc Chính Quyền. Và v́ Ombudsman được lập ra để giám sát các lănh vực hành chánh và quản trị khác nhau, nên sớm muộn ǵ cơ quan cũng trở thành nơi để - dân chúng đệ tŕnh các thỉnh nguyện của ḿnh, - than phiền các hành xử không hiệu dụng, thiếu thốn hoặc thiên vị của Chính Quyền. Và rồi tiến thêm một bước nữa, Ombudsman trở thành nơi nhận đơn dân chúng tố cáo các thiếu sót và hay hoạt động phục vụ công cộng bất toàn của Chính Quyền, giáo dục, y tế, giao thông, xă hội…không được tổ chức có khả năng cung ứng nhu cầu đ̣i hỏi của dân chúng. * Ở Cộng Hoà Liên Bang Đức, Ombudsman được đặt trách cho lănh vực lo cho - vấn đề di dân, - những người bị tật nguyền, - ǵn giữ và bảo vệ các tài liệu Liên Bang. * Ở Thụy Điển, bên cạnh các Ủy Viên Quốc Hội, Chính Quyền cũng lập ra Ủy Viên thân tín của ḿnh để lo về - tự do giao thương, - tự do cạnh tranh, - bảo vệ người tiêu thụ, - bảo vệ b́nh đẳng giữa hai phái nam-nữ. Ủy Viên Quốc Hội theo khuôn mẫu của Thụy Điển có phận sự quan sát đối với các lănh vực - địa phương và những liên hệ đến các lănh vực tản quyền cho địa phương địa phương: y tế, dân sự, các cộng đồng thiểu số tự lập (Pháp, Ư) - Các vấn đề quân sự ( Cộng Hoà Liên Bang Đức), - Bảo vệ người tiêu thụ và vấn đề quân sự ( Thụy Điển), - Bảo vể trẻ em và tuổi thơ ( Na Uy), Như vậy, nếu vai tṛ của các Ủy Ban Điều Tra , thường trực hay tạm thời, là để bảo đảm cho nguyên tắc áp dụng đúng đắn chính hướng, nói chung và luật pháp là những áp dụng chính hướng vào thực tể nói riêng, th́ vai tṛ của Ủy Viên Quốc Hội ( Ombudsman) chuyên biệt trong các lănh vực thực tiển hơn, can thiệp vào các trường hợp trong đó công việc quản trị của nền hành chánh không được trôi chảy làm phương hại đến quyền lợi cá nhân cũng như tập thể. * Ở Thụy Điển vai tṛ của Ombudsman trở thành cơ quan bảo vệ chống lại mọi lạm dụng uy quyền quản trị làm tổn thương đến quyền lợi cá nhân hay tập thể. Đặc tính của Ombudsman là một cơ quan can thiệp vào các trường hợp không hành động hiệu năng, tổ chức trôi chảy hay khiếm khuyết của các cơ quan hành chánh, quản trị, - bằng cách báo cho Chính Quyền và Quốc Hội biết, - mà nhứt là bổ khuyết cho các thiếu sót trong việc bảo vệ quyền và lợi thú cá nhân do cách hành động tiêu cực của các cơ quan quản trị công ích, dân sự cũng như quân sự. Ombudsman có thể dùng quyền hạn của ḿnh để có sáng kiến giải quyết và tạo áp lực trên các cơ quan liên hệ vừa kể. Như vậy một đàng Ombudsman có thể cảnh cáo và ảnh hưởng đến các cơ quan quản trị liên hệ bằng cách - sẽ tường tŕnh tài liệu ḿnh có được trong tay cho Chính Quyền, - đàng khác Ombudsman cũng có thể đưa ra những đề nghị để sửa đổi hay tu chính luật pháp đến Quốc Hội, liên hệ đến những lănh vực thuộc thẩm quyền mà ḿnh đă có các chứng cớ trong tay. Một cách nào đó, các can thiệp của Ombudsman có đặc tính như là những tiến tŕnh tư pháp đối với các cơ quan đương cuộc. Và như vậy các can thiệp của Ombudsman có tính cách trợ lực, chuẩn bị và ảnh hưởng như các hành động kiểm soát chính trị của Quốc Hội.
* Ở Cộng Hoà Liên Bang Đức, điều 45B tu chính án của Hiến Pháp 1949 liên quan đến Ủy Ban Quốc Hội về quốc pḥng ( Wehrbeauftragte) nh́n nhận Ombudsman như là - cơ quan “ phụ thuộc của Hạ Viện trong vai tṛ kiểm soát của Quộc Hội ”, - ngoài ra là cơ quan đặc trách để “ bảo đảm các quyền căn bản của các thành viên của quân đội”. Nhờ vào các bản tường tŕnh hằng năm hay bản tường tŕnh liên quan đến lănh vực đang bàn của Ombudsman, Quốc Hội có thể tiếp tục t́m hiểu để kiểm soát Chính Quyền ( Ule C.H., Der Wehrbeauftragte des Bundestag, JZ, 1957, 422). Nói tóm lại, ở các Quốc Gia Dân Chủ, nhiệm vụ quan trọng chính yếu của Quốc Hội mà thường khi chúng ta ít nghe nói tới, “ lănh đạo và kiểm soát đường lối lănh đạo Quốc Gia ”, bởi lẽ chúng ta thường bị danh từ “ Lập Pháp” quen thuộc được gán cho Quốc Hội, làm cho chúng ta có cảm tưởng rằng Quốc Hội chỉ là cơ quan “ làm ra luật ”. Quốc Hội có thể - lắng nghe ( audition), - đặt câu hỏi ( interrogation), - chất vấn ( interpellation) trong tiến tŕnh t́m hiểu - và điều tra ( enquête) Trong công tác điều tra, Quốc Hội có thể dùng - các Ủy Ban Thường Trực ( Commissions permanentes), - Ủy Ban Tạm Thời ( Commisssions temporaires) - và Ủy Viên Thân Tín (Ombudsman). Đó là những từ ngữ khác chúng ta đừng quên, ngoài ra danh từ “ Lập Pháp” hay đúng hơn là “chuẩn y hay bác bỏ luật pháp”, mỗi khi chúng ta bàn về Quốc Hội ở các Quốc Gia Dân Chủ. Ở các nước dân chủ, không ai khoáng trắng cho giới hành quyền, muốn hành xử quyền lực Quốc Gia cách nào, “ tác oai, tác quái tùy hỷ ”, sau khi giao phó quyền hành cho họ. Nếu Dân Chủ là thể chế được định nghĩa “ quyền tối thượng của Quốc Gia thuộc về dân ”, quyền lực đó vẫn thuộc về người dân trước khi, đang khi và sau khi ủy thác cho những người đại diện thừa hành xử dụng quyền lực Quốc Gia cho ḿnh. Tiến tŕnh vừa kể được bảo đảm trong Thể Chế Dân Chủ qua Quốc Hội, cơ quan dân cử, đại diện ḿnh nói lên tiếng nói trước khi, đang khi và sau khi quyền hành được ủy thác cho giới đương quyền hành xử. Quyền hành của Quốc Hội là “ chuẩn y hay bác bỏ luật pháp ” và “ hướng dẫn, kiểm soát đường lối chính trị Quốc Gia ”. Bởi lẽ không ai có thể tự cho ḿnh, cũng không ai có thể ngây thơ và liều lĩnh đến dại dột, tin được và giao quyền lực Quốc Gia cho họ hành xử tùy hỷ, mà không có một cơ quan nào kiểm soát những ai tự cho ḿnh là “ …đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lănh đạo Nhà nước và xă hội ” (Điều 4, Hiến Pháp CSVN), nếu không muốn đất nước bị phá sản, con người bị đàn áp và biến thành nô lệ phục vụ cho giới cầm quyền. |
|
Xin vui ḷng liên lạc với butvang@yahoo.com về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương Copyright © 2004 Anh Duong Online Last modified: 08/10/06 |