Bài học của
Khổng Tử và Schelling
NGÔ NHÂN DỤNG
Năm nay giải Nobel về kinh tế học được trao cho hai người rất ít nghiên cứu về
kinh tế, họ thường viết về những vấn đề xă hội và chính trị. Cùng với Robert
Aumann, 74 tuổi ở đại học Hebrew, Jerusalem, Thomas Schelling, đại học Maryland
được tặng giải Nobel trễ, ông đă 84 tuổi. Cả hai đều nghiên cứu về Lư Thuyết Tṛ
Chơi, Game Theory. Đọc Thomas Schelling người ta có thể quên, không nghĩ đến ông
như một nhà kinh tế. Môn sinh của ông, trực tiếp và gián tiếp đông lắm, có lúc
họ đă in cả một tuyển tập về “Chiến Lược và Lựa Chọn” (Strategy and Choice,
1991) trong đó họ khai triển những ư kiến Schelling đă gợi ra, chỉ để bày tỏ
ḷng tôn kính một ông thầy đă ảnh hưởng đến cả một thế hệ nhiều học giả. Đó là
một phần thưởng c̣n quư hơn giải Nobel.
Tôi mới nhớ lại Schelling gần đây, nhân đọc một bài của ông Vơ Văn Kiệt, khi ông
nhắc đi nhắc lại câu làm sao “Dân tin Đảng và Đảng tin Dân.” Ai cũng biết là ông
nói đến đảng Cộng Sản Việt Nam.
Schelling viết đại ư như thế này: “Ḷng tin thường đạt được chỉ nhờ hai bên có
một mối liên hệ lâu dài, trong đó mỗi bên biết rằng nếu ḿnh ăn gian (cheating)
để được lợi th́ cái lợi đó không lớn bằng giá trị mà một niềm tin bền vững sẽ
mang lại khi hai bên c̣n tiếp tục nhiều thỏa thuận trong tương lai.” (Trong bài
“Promises,” Negotiation Journal, 5, 1989.)
Khổng Tử nói rằng “Dân vô tín bất lập,” coi như cũng nhắc tới vấn đề “Dân tin
Đảng!” Nhưng ngài không nghiên cứu vấn đề tín nhiệm theo lối “Game Theory” như
chúng ta bây giờ, cho nên không đặt ra những điều kiện như Schelling nêu lên
trong câu trên. Khổng Tử có thể đă coi ư kiến mà Schelling viết là đương nhiên
rồi, khỏi bàn, và những tư tưởng về trị quốc của ngài đều đặt trên giả thiết
những điều kiện đó đă được thỏa măn. Cho nên ngài chỉ khuyên người cầm quyền
phải được dân tin, nếu không th́ không thể đứng vững.
Ngành Game Theory vừa là toán học, vừa là kinh tế học, mới phát triển từ giữa
thế kỷ trước, dịch là “Lư Thuyết về Tṛ Chơi” th́ đúng nhất nhưng sợ người ta
tưởng đó là chuyện không đứng đắn; dịch là “Lư Thuyết về Đấu Trí” thích hợp hơn
nhưng lại xa lạ với nghĩa gốc. Ư kiến của Schelling trong câu trên thuộc loại
phân tích Game Theory trong đó những người trong cuộc sẽ tham dự cuộc chơi dài
hạn, nhiều lần chứ không phải chỉ có một lần. Trong cuộc chơi đó, hai bên đều
được lợi. Nhưng không có ai làm trọng tài, không có ai trừng phạt, mỗi bên đều
có thể tự ư xóa bỏ lời hứa, có thể ăn gian. Nhưng biết rằng nếu ḿnh lừa dối, ăn
được một lần, bên kia họ không ngu, từ nay họ sẽ băi bỏ mọi liên hệ, và như vậy
th́ ḿnh sẽ mất tất cả những lợi ích trong tương lai. Khi tính toán như thế,
người ta quyết định không nên ăn gian, không nên lừa đảo. Mọi người tham dự cuộc
chơi đều biết, đều tính toán như thế, cho nên trong xă hội thiết lập được ḷng
tin. Chúng ta có thể nh́n vào cách chung vốn làm ăn của những người Hoa kiều hải
ngoại, nhiều khi họ bắt tay nhau là xong, không cần kư giấy, nhưng vẫn tin nhau
được. V́ ai thất hứa th́ sẽ bị cả cộng đồng Hoa kiều tẩy chay, hết đường làm ăn
dài hạn. Đó là một thí dụ của Game Theory như Schelling diễn tả.
Nền văn minh của nhân loại phát triển trong một thứ “tṛ chơi dài hạn” như vậy.
Một điều sung sướng nhất của chúng ta là có thể tin người hàng xóm của ḿnh là
người tử tế, tin tất cả mọi người sống trong cùng một thành phố, một quốc gia
với ḿnh đều tử tế. Một lần tôi qua Praha, Cộng Ḥa Tiệp, đi một chuyến taxi,
người tài xế không t́m ra đường, đi lạc cả tiếng đồng hồ. Nh́n cái đồng hồ cây
số chạy, tôi nghĩ oan cho anh v́ tôi đă đi một chuyến trên đường này rồi biết
chỉ mươi phút là tới. Tôi tưởng anh đang đánh lừa một người ngoại quốc để lấy
thêm tiền. Nhưng khi t́m được đến địa chỉ, anh người Tiệp chỉ lấy đúng số tiền
như lần trước tôi đă đi và đă trả. Tôi ghi ơn anh suốt đời, v́ anh giúp tôi giữ
niềm tin ở nhân loại. Những bạn độc giả ở Praha làm ơn nói giúp với bạn bè Tiệp
là tôi biết ơn nền đạo lư của xứ Tiệp lắm.
Tại sao người ta lại sống thành thật, tử tế với nhau như vậy? V́ xă hội loài
người tham dự một tṛ chơi liên tục, lặp đi lặp lại từ hàng triệu năm qua. Bắt
buộc phải sống chung với nhau, không cách nào khác. Sau dăm bảy trăm năm sống
chung, chắc mọi người sẽ nghĩ rằng nếu ḿnh tử tế với một người th́ người đó
cũng bắt chước, sẽ tử tế với những người khác. Khi mọi người đều tử tế với nhau,
sẽ tới lúc đến lượt ḿnh nhận được sự tử tế từ một người không quen biết và chỉ
gặp nhau một lần. Từ đó, cha mẹ dạy con cái cách ăn ở tử tế, những nhà hiền
triết khuyên người ta sống tử tế. Dần dần ḷng tử tế trở thành một nền nếp văn
minh, thấm vào ḷng người, có thể được ghi sẵn vào trong một thứ nhiễm sắc chất
hay mấy cái gene nào đó truyền đời này sang đ̣i khác. Ai không ăn ở tử tế tự
trong ḷng cũng thấy hổ thẹn. Đức tính đó có thể giải thích bằng Game Theory,
với Lư Thuyết Tiến Hóa trong sinh học.
Nếu xă hội loài người đă được ghi “chương tŕnh sống tử tế” trong ḷng mỗi người
ở trong gene rồi, tại sao có lúc đến một xứ ḿnh đi đâu cũng cứ lo bị người ta
ăn gian, nói dối, nói thách, bán hàng giả mạo, đ̣i hối lộ, sách nhiễu, lừa đảo?
Cái này có thể hỏi kinh nghiệm của ông Vơ Văn Kiệt, chắc ông biết tại sao cứ
phải nhắc đi nhắc lại vấn đề “Dân tin Đảng và Đảng tin Dân?” Tại sao xă hội mất
niềm tin?
Cũng có thể giải thích bằng Game Theory. Nói theo lối cụ Khổng th́ “Thượng bất
chính, hạ tắc loạn,” ở trên không ngay thẳng th́ ở dưới rối ren. Cái tập tục
“sống tử tế” phải mất hàng trăm ngàn năm nhân loại mới tạo nên được, có thời
gian nó cũng bị đứt quăng. Trong một vài hoàn cảnh nào đó, người ta nhận ra rằng
những người nói dối giỏi nhất nước lại là những người được tưởng thưởng nhiều
nhất, ngồi ghế cao nhất. Tự nhiên trong cuộc chơi “sống chung” của mọi người,
luật chơi đă bị đổi! Những người ngồi trên cao nhất mới có khả năng thay đổi
luật chơi, làm gương cho đám dân bị trị!
Như vậy th́ làm sao tái lập được những luật chơi “sống tử tế” bây giờ? Chắc mọi
người đều đồng ư, phải bắt đầu tập sống tử tế trở lại, coi như xă hội ḿnh bắt
đầu một nền văn minh mới, tức là trở về với những tập tục đời xưa!
Bây giờ làm sao tôi có thể tin anh? Làm sao anh có thể tin nó, nó có thể tin
tôi? David Hume, trước cả Adam Smith, đă đặt vấn đề này ra một cách rất thực tế.
Một yếu tố khiến người ta phải giữ lời hứa là lợi ích cho chính ḿnh. Người nào
không giữ lời hứa, sẽ bị thiệt tḥi, khi đó chúng ta không cần kiểm soát cũng
yên tâm mà tiếp tục công tác. Thomas Schelling cũng có lúc bàn rất kỹ về chuyện
này. Trong cuốn The Strategy of Conflict, Schelling đặt câu hỏi: Có ai muốn ḿnh
có thể bị kiện hay không? Có. “Cái quyền được người khác đưa ḿnh ra ṭa chính
nó sinh ra cái khả năng cho phép ḿnh có thể hứa hẹn, có thể kư giấy vay nợ, kư
hợp đồng, đi hùn hạp, làm ăn với những người mà ḿnh có thể hại... Không có cái
“quyền bị kiện” đó th́ không thể kinh doanh.”
Người khác tin ḿnh, v́ họ biết nếu ḿnh lừa gạt th́ sẽ có thể bị kiện, và bị
ṭa phạt. Tới đây th́ xin ông Vơ Văn Kiệt và quư ông trong cùng một đảng chú ư.
Người dân Việt Nam có thể sẵn sàng tin quư ông sẽ đưa họ tới một cái ǵ đó xă
hội chủ nghĩa tươi sáng ghê lắm. Nhưng làm sao để chúng tôi tin quư ông? Có ai
nghĩ họ có thể đem những ông ra ṭa nếu không giữ lời hứa hay không? Có ai dám
kiện đảng Cộng Sản Việt Nam ra ṭa không? Có ṭa nào dám xử hay không?
Khi nào th́ người ta có thể đem nhau ra ṭa? Khi hai bên có địa vị b́nh đẳng như
nhau trước pháp luật. Ngày xưa không ai kiện vua được. Ngày nay người ta có “ṭa
án thường xuyên” để xử một ông tổng thống và quốc hội nước Mỹ, cái đó gọi là
“Bầu Cử.” Đảng chính trị nào không giữ đúng lời hứa, trong ṿng 4 năm ṭa tuyên
án cho về vườn. Không thể “kiện vua” được, v́ vua đă được Trời ban cho thiên
mệnh giống như điều 4 trong hiến pháp Việt Nam bây giờ vậy. Chưa bỏ điều 4 đó
th́ không thể nói chuyện “kiện vua.” Không thể kiện th́ không thể tin là vua sẽ
giữ lời hứa. Bao giờ người dân có quyền cho đảng Cộng Sản Việt Nam về vườn như ở
những nước dân chủ, th́ chắc lúc đó mới nói được chuyện tin hay không tin. Ông
Vơ Văn Kiệt nên đọc lại Khổng Tử và Thomas Schelling.»