Tại
sao có quá ít người dám tranh đấu?
Nguyễn Chính Kết
Trong chế độ Cộng sản, chẳng có dân chủ cũng chẳng có tự do, người dân bị áp bức
đủ điều. Ai cũng biết điều ấy. Mà Việt Nam, trong 4000 năm lịch sử, nổi tiếng là
một dân tộc bất khuất: tuy nhỏ bé, bị Trung Hoa xâm lược, đô hộ, t́m cách đồng
hóa cả ngàn năm, bị Pháp cai trị cả trăm năm, nhưng Việt Nam vẫn bảo tồn được
ṇi giống,
văn hóa cá biệt của ḿnh. V́ thế, nhiều người nghĩ rằng, trong hoàn cảnh bị Cộng
sản áp bức hiện nay, ắt hẳn phải có rất nhiều người đứng lên tranh đấu chống lại
cơ chế áp bức ấy. – Theo lư luận tự nhiên, kết luận như vậy thật hết sức lôgích!
Nhưng trong thực tế, số người tranh đấu chống lại áp bức quả hết sức ít ỏi. Tại
sao? Đó là một thắc mắc chính đáng mà không ít người chỉ nêu lên, nhưng chưa có
câu trả lời tương đối đầy đủ, tạm thỏa măn.
Thật vậy, gần 50 năm kể từ 1954 đến nay ở miền Bắc, và suốt 30 năm kể từ 1975
đến nay tại miền Nam, dù sống dưới ách chuyên chế vô cùng khắc nghiệt của Cộng
sản, số người trong nước dám lên tiếng tranh đấu cho tự do dân chủ quả quá ít so
với 80 triệu dân đang sống trên mảnh đất chữ S này. Phản ứng của người dân trước
cuộc đấu tranh quyết liệt cho tự do tôn giáo do linh mục Nguyễn Văn Lư khởi
xướng là một trắc nghiệm thật hùng hồn về t́nh trạng «không dám» ấy của đại đa
số người dân trong nước.
Phải nói rằng từ khi Việt Nam có chế độ Cộng sản đến nay, chưa có ai dám lên
tiếng cách mạnh mẽ và được cả một cộng đồng Việt Nam hải ngoại – khoảng 3 triệu
người – ủng hộ hết ḿnh và «rầm rộ» như linh mục Nguyễn Văn Lư. Đây quả là một
cơ hội vô cùng hiếm có để người dân trong nước có thể ủng hộ cuộc đấu tranh cho
quyền tự do và quyền làm chủ đất nước của ḿnh hầu tạo nên một áp lực mạnh mẽ và
hữu hiệu buộc chế độ Cộng sản phải thay đổi chính sách, đặc biệt chính sách đối
với các tôn giáo. Thế nhưng số giám mục, linh mục hoặc tín hữu trong nước dám
công khai lên tiếng ủng hộ cuộc tranh đấu ấy để bênh vực một quyền lợi hết sức
chính đáng của ḿnh chỉ đếm được trên đầu ngón tay. So với 6 triệu người Công
giáo, con số ấy quả ít ỏi đến mức đáng ngạc nhiên ([1]).
Số người tranh đấu cho tự do tôn giáo ở trong nước chỉ được khoảng 20 người
([2]). Cứ cho người có tôn giáo chiếm khoảng 2/3 dân Việt th́ số tín đồ phải là
50 triệu. 20 người so với 50 triệu tín đồ quả là quá ít ([3]). Số người lên
tiếng tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền ở trong nước mà quốc tế biết đến trong
30 năm qua, kể từ 1975, chưa đầy 50 người ([4]). So với 80 triệu dân, th́ con số
trên quá nhỏ nhoi: phải hơn một triệu người mới có được một người dám công khai
lên tiếng ([5]), dù chỉ là lên tiếng một cách ôn ḥa, hợp pháp chứ chưa nói tới
chuyện làm ǵ hơn thế nữa.
Đó là một thực tế rơ rệt mà ai – nếu được hoàn toàn tự do phán đoán theo lương
tri – cũng đều công nhận. Như vậy, phải chăng dân Việt ngày nay không c̣n dũng
khí, không c̣n anh hùng như cha ông ta ngày xưa nữa? Thời Pháp thuộc cách đây
chưa đầy 100 năm, dân chúng đâu đến nỗi bị cai trị cách hà khắc và độc đoán như
trong chế độ Cộng sản, thế mà có biết bao người dám đứng lên mộ quân, khởi
nghĩa, chứ không chỉ lên tiếng phản đối hay đấu tranh cách ôn ḥa. Chẳng lẽ dân
Việt ngày nay – thời đại internet, là thời mà người dân có thể cứ ngồi trước máy
vi tính ngay trong nhà ḿnh cũng có thể lên tiếng tranh đấu – không c̣n có những
con người anh hùng, đầy dũng khí như Đề Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Nguyễn Thái Học, v.v… nữa sao?
Là một người ở trong nước có phần nào góp phần vào việc tranh đấu cho tự do tôn
giáo, tôi hiểu được và rất thông cảm với sự im lặng của hầu hết người dân trong
nước nói chung, và các nhà trí thức trong nước nói riêng. Quả thực, ngày nay,
người dân trong nước muốn lên tiếng th́ phải đắn đo hơn xưa rất nhiều. Người
Cộng sản có thể dở hay hèn kém về nhiều mặt, nhưng phải công nhận họ rất khôn
ngoan và vô cùng hữu hiệu trong việc ngăn cấm người dân tranh đấu, nhất là cản
trở người dân liên kết lại với nhau để chống lại họ. Mọi mầm mống hay âm mưu
chống lại họ đều khó có thể h́nh thành, và nếu h́nh thành được th́ rất dễ dàng
bị đập vỡ ngay từ trong trứng nước. Họ làm được điều này hữu hiệu hơn tất cả
những chế độ quân chủ hay dân chủ trước đó, không phải v́ họ tài giỏi hơn cho
bằng họ vô đạo đức hơn, quỷ quyệt hơn, độc ác hơn. Chủ trương vô thần của họ
phần nào là nguyên nhân của tính vô đạo đức này ([6]).
Sau 1975, nhất là từ khi Việt Nam cần bang giao với các nước, việc bắt bỏ tù và
âm thầm thủ tiêu những người tranh đấu không c̣n thực hiện được dễ dàng như
trước, v́ họ bị đ̣i hỏi phải làm theo luật pháp, của chính họ cũng như của quốc
tế. V́ thế, để làm cho các tiếng nói tranh đấu trong nước phải im tiếng, chính
quyền đă sử dụng những biện pháp mềm dẻo hơn, ít mang tiếng hơn, nhưng không
phải là kém phần hữu hiệu. Sau đây là một số phương pháp họ đă dùng với mục đích
trên.
1) Bao vây kinh tế, sách nhiễu, đe dọa
Điều đáng sợ khiến nhiều người dù uất ức, muốn phản kháng tới đâu cũng phải im
lặng, đó là sự bao vây kinh tế của nhà nước đối với những người tranh đấu. Để
tranh đấu cho quê hương đất nước, những người yêu nước có thể chấp nhận bị phiền
nhiễu, phải vào tù, bị tra tấn, thậm chí chết, mặc dù họ cũng như mọi người, rất
sợ những thứ ấy. Thắng được nỗi sợ ấy là việc mà một số người – tuy không nhiều,
nhưng không đến nỗi quá ít – có thể làm được. Tuy nhiên có một điều thật đáng
sợ, làm người ta ngần ngại hơn nhiều, đó là sợ làm liên lụy đến người khác. Thật
vậy, người ta không sợ chết, sợ tù cho bằng sợ việc tranh đấu của ḿnh làm cho
nhiều người bị liên lụy, khổ sở: trong đó có vợ con, cha mẹ, anh em, bạn bè, hay
cộng đoàn mà ḿnh đang có trách nhiệm.
Xin đan cử trường hợp mới đây nhất là trường hợp của anh Phương Nam Đỗ Nam Hải.
Khi c̣n du học ở Úc, anh đă viết 5 bài nhận định, phân tích, phê b́nh về chính
sách cai trị của đảng Cộng sản hiện nay tại Việt Nam, đồng thời đề nghị hay vạch
ra một phương hướng tốt đẹp hơn cho đất nước. Khi về nước đầu năm 2002, anh bắt
đầu phổ biến rộng răi những bài viết của anh trên Internet. Đến tháng 8-2004,
anh bắt đầu bị công an mời đi làm việc hàng chục lần tại nhiều nơi khác nhau, có
những lần bị giữ lại hơn hai ngày. Và đầu tháng 2-2005, anh đă bị mất việc anh
đang làm để sinh sống tại ngân hàng. Tôi có dịp tiếp xúc với anh Hải nhiều lần,
anh cho biết: Khi sách nhiễu nhiều lần và đủ kiểu như thế, điều chính quyền nhắm
không phải là làm lung lạc tinh thần anh, v́ họ biết họ làm không nổi, mà nhắm
làm lung lạc tinh thần gia đ́nh anh. Họ hy vọng những người trong gia đ́nh anh –
vốn không vững tinh thần như anh – bị căng thẳng và chịu không nổi những sách
nhiễu ấy, sẽ tác động đến anh khiến anh phải im tiếng.
Tôi cũng xin kể trường hợp của tôi. Khi bắt đầu lên tiếng cho tự do tôn giáo vào
đầu năm 2001, tôi đang làm trưởng một hội đoàn ở Việt Nam, hội Kolping ([7]). V́
sợ hội đoàn của tôi bị liên lụy, nên khi vừa bắt đầu lên tiếng, tôi đă tự nguyện
từ chức hội trưởng. Ấy thế mà nhiều cộng đoàn nhỏ bé của tôi đă bị khó dễ, nghi
ngờ. Một số hội viên bị mất việc làm chỉ v́ là hội viên Kolping. Chẳng hạn một
hiệu trưởng trường cấp ba ở An Giang bị giáng chức xuống làm giáo viên thường,
một nhân viên của trường ấy bị đuổi việc. Đương nhiên khi giáng chức hay đuổi
việc những người này, chính quyền luôn luôn dựa vào một lư do khác, nếu không có
thật th́ cũng ngụy tạo ra, để có cớ mà đuổi. Một số cộng đoàn Kolping ở tỉnh này
tỉnh nọ phải làm việc với công an và bị theo dơi v́ bị nghi ngờ…
Riêng tôi th́ bị bao vây kinh tế và bị sách nhiễu nhiều lần. Tôi sống và nuôi
gia đ́nh được là nhờ dạy học và dịch sách. Lúc đó tôi đang dạy triết học cho 5,6
nhà ḍng ở Sàig̣n và dịch các sách về tôn giáo (thần học, tu đức). Sau khi lên
tiếng cho tự do tôn giáo th́ tất cả các nhà ḍng tôi đang dạy đều không c̣n dám
nhờ tôi dạy nữa, mặc dù ở một vài nhà ḍng có những môn tôi đang dạy chưa xong.
Tôi thắc mắc: không hiểu công an có ra lệnh ǵ cho các nhà ḍng đó không?! Khi
công an quận hỏi tôi: có phải anh nhận dịch sách ở ṭa Tổng Giám Mục không? Tôi
nhận đại cho khỏi lôi thôi. Thế là khoảng 3 tháng sau, anh công an tôn giáo quận
đến hỏi tôi: «Anh đâu có nhận dịch ở ṭa Tổng Giám Mục, vậy anh nhận dịch ở
đâu?» Lúc đó tôi đang dịch một cuốn sách do một người bạn ở Pháp nhờ dịch, nên
tôi trả lời thẳng: «Tôi nhận dịch từ ngoại quốc!» Điều đó cho thấy công an đă
đến ṭa Tổng Giám mục hỏi về việc cung cấp bài dịch cho tôi để tôi có việc làm,
chắc chắn chỉ với mục đích bao vây kinh tế hầu tôi không c̣n cách nào để sống.
Có lẽ chính quyền nghĩ rằng nếu không c̣n cách nào để sống, gia đ́nh bị thiếu
thốn, đói khổ, con cái không đủ tiền để đi học… th́ những người tranh đấu làm
sao có thể tiếp tục lên tiếng được?
Một trí thức nọ rất thân với tôi cũng bức xúc về sự im lặng của ḿnh. Anh rất
muốn lên tiếng, nhưng không dám. Anh tâm sự: «Nếu tôi lên tiếng, th́ trước hết
tôi mất việc làm đă đành, mà mấy con của tôi cũng có thể bị mất việc. Lúc đó làm
sao tôi có đủ tiền để nuôi bản thân, nuôi vợ và những đứa con c̣n nhỏ của tôi?
Và những đứa đă có gia đ́nh mà bị mất việc th́ tôi làm sao có đủ tiền để nuôi cả
mấy gia đ́nh chúng nó nữa?» Nếu cứ nghĩ thế th́ chắc chắn chẳng ai dám lên tiếng
tranh đấu. V́ vấn đề không phải chỉ là đau khổ cho riêng bản thân ḿnh, mà c̣n
liên lụy tới bao người thân yêu của ḿnh nữa. Trường hợp của tôi rất may là một
vài người bạn đă t́m cách giúp tôi có những tài liệu về kinh tế để dịch thường
xuyên với giá rất cao nên tôi và gia đ́nh vẫn tạm sống qua ngày được, nhờ đó tôi
mới có thể tiếp tục lên tiếng. Nếu không nhờ sự giúp đỡ ấy, chắc chắn tôi đă
phải «tịt ng̣i» từ lâu! Làm sao tôi có đầu óc để viết những bài tranh đấu khi
nh́n vợ con ḿnh đói, nheo nhóc, đau khổ? Làm sao tôi có th́ giờ để viết bài
tranh đấu khi tôi, v́ bị mất việc làm, phải dành hết tâm lực và th́ giờ để t́m
cách nuôi sống gia đ́nh ḿnh trước đă?
Nói tới đây tôi mới thấy chính sách quản lư thật kỹ dạ dày và các nhu cầu thiết
yếu nhất của người dân là một chính sách tuy dă man, nhưng rất hiệu nghiệm để
dẹp tan tất cả những mầm mống nổi loạn ở trong nước vào những năm đầu tiên sau
1975, hầu ép người dân phải chấp nhận chế độ Cộng sản. Nhà nước quản lư dạ dày
và các nhu cầu thiết yếu nhất của người dân bằng hộ khẩu, bằng việc cấp phát các
nhu yếu phẩm theo tiêu chuẩn đầu người trong hộ khẩu. Mọi chuyện cho phép hay
cấp phát của chính quyền đối với dân chúng đều căn cứ trên hộ khẩu: xin phép
chính quyền bất cứ điều ǵ đều phải tŕnh thẻ chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu.
Chính quyền cấp dưới khi đề nghị lên cấp trên giải quyết điều ǵ cho ai đều phải
chứng nhận đương sự có thường trú, tức có hộ khẩu tại địa phương. Không có hộ
khẩu th́ hầu như tiên thiên không được giải quyết. V́ thế, người dân hoàn toàn
bị lệ thuộc mọi mặt vào tờ hộ khẩu của ḿnh.
Sống ở Việt Nam hai thập niên đầu sau 1975 mà không có hộ khẩu th́ vô cùng vất
vả! Chỉ người dân nào có hộ khẩu mới được mua các nhu yếu phẩm cần thiết cho sự
sống bằng giá đặc biệt, phù hợp với mức lương vô cùng thấp của người dân lúc ấy.
Có hộ khẩu mới có thể cư ngụ tại địa phương một cách hợp pháp, không bị khó dễ,
mới có thể xin việc làm, xin đi học, xin đăng kư hôn nhân, xin di chuyển, xin
xây cửa sửa nhà, v.v… Không có hộ khẩu th́ dù có ở ngay trong chính ngôi nhà mà
ḿnh đă từng ở cách hợp pháp mấy chục năm và dù ḿnh không hề phạm một tội ǵ,
th́ cũng là cư trú bất hợp pháp. Cư trú bất hợp pháp th́ chẳng hưởng được một
quyền lợi nào cả, có muốn t́m việc làm chính thức th́ cũng chẳng ai dám nhận. V́
thế, có những người phải chạy chọt để được nhập hộ khẩu với giá cả một cây vàng.
Một cây vàng những năm sau 1975 là một giá trị rất lớn: lương của rất nhiều
người dân làm việc suốt cả năm cộng lại không được một cây vàng! ([8])
Chính sách hộ khẩu nghiệt ngă đến nỗi, nếu không có hộ khẩu, người dân không thể
thực hiện các quyền căn bản của ḿnh như: cư trú, làm việc, kết hôn, sở hữu hay
mua bán tài sản, v.v… nói chung là mọi thứ cần thiết của cuộc sống. Không có hộ
khẩu th́ chẳng khác một tội nhân sống ngoài ṿng pháp luật, không làm được ǵ
cả. Do đó người dân mà hó hé biểu hiện một chút ǵ «phản động» th́ không thể
sống nổi tại địa phương của ḿnh đă đành, mà đi đâu cũng không sống nổi, v́
không có hộ khẩu làm sao kiếm được việc làm mà sống? làm sao mua được gạo và các
nhu yếu phẩm khác mà ăn, mà dùng? Và ai dám chứa người bất hợp pháp trong nhà
ḿnh?
Nếu có ai «phản động», chống lại nhà nước, th́ người thân của người ấy phải có
trách nhiệm «giáo dục» người ấy, nếu không th́ cả người thân ấy cũng sẽ phải
chịu một biện pháp chế tài nào đấy! Một bằng chứng cụ thể mới đây là trường hợp
ông Huỳnh Hữu Nghĩa, hiệu trưởng một trường tiểu học ở Bạc Liêu, là em ruột của
Thượng tọa Thích Thiện Minh ([9]), một người tranh đấu cho tự do tôn giáo. Ông
em của thượng tọa đă nhận được nhiều cú điện thoại hăm dọa sẽ bị đuổi khỏi
trường hoặc bị tai nạn xe cộ nếu không khuyên nhủ anh ḿnh chấm dứt việc lên
tiếng cho tự do tôn giáo và nhân quyền ([10]). Trường hợp này, nếu ông Nghĩa
đang chủ yếu sống bằng lương của hiệu trưởng và phải nuôi vợ con chỉ bằng số
lương ấy, th́ thượng tọa quả là khó xử. Ông Nghĩa có thể chấp nhận bị mất việc
v́ lư tưởng của anh ḿnh, nhưng c̣n vợ con ông th́ sao? Vợ con ông có chấp nhận
cho ông hy sinh sự b́nh an và no ấm của cả gia đ́nh cho lư tưởng cao cả của
người anh ông không? Đối với thượng tọa, nếu v́ những hành động yêu nước, yêu
tôn giáo của ḿnh mà em ḿnh có thể bị tai nạn, cả gia đ́nh em ḿnh bị thiếu
thốn, khốn khổ, th́ liệu ông có đủ nhẫn tâm đối với gia đ́nh em ḿnh để tiếp tục
những hành động yêu nước ấy không? Thượng tọa có yêu nước, yêu đạo pháp, có dũng
cảm đến đâu, gặp trường hợp này th́ đành phải chịu thua thôi! Và quả thực,
thượng tọa đă phải im tiếng luôn từ lúc ấy đến nay! Phương pháp này quả là hữu
hiệu!
2) Đổi chác
Để đạt được sự im lặng hay cộng tác từ một nhân vật nào đó trong Giáo Hội, việc
đổi chác quyền lợi cũng là một kế rất hay. Tôi nhượng cho anh cái này, th́ đổi
lại anh phải nhượng cho tôi cái kia. Tôi cho anh cái này, anh phải cho tôi cái
kia. Gặp trường hợp này, một nhà đạo đức nhất vẫn có thể phải chấp nhận sự trao
đổi, không phải chỉ để khỏi bị hại hay được lợi cho cá nhân ḿnh, mà c̣n để cho
cả tập thể của ḿnh khỏi bị hại hay được lợi. Chẳng hạn một chủng sinh chỉ cần
chấp nhận cho biết một số tin tức nào đó trong Giáo Hội mà một cách chủ quan anh
ta cho là vô hại đối với Giáo Hội, th́ anh sẽ được chính quyền chấp nhận cho vào
chủng viện hay được làm linh mục. Nếu chỉ như thế th́ dại ǵ mà không làm? V́
nếu được làm linh mục th́ ngoài việc thăng tiến cá nhân, anh c̣n có thể làm lợi
cho Giáo Hội biết bao nhiêu, cứu được biết bao linh hồn! Chỉ một linh hồn thôi
cũng đáng giá gấp bội để có thể bù đắp sự thiệt hại do ḿnh gây ra qua việc cung
cấp những thông tin mà anh nghĩ là vô hại kia! Hay một linh mục chấp nhận mất đi
một mảnh đất của giáo xứ th́ việc xây nhà thờ sẽ được chấp nhận dễ dàng hơn,
được mở các lớp giáo lư… Một giám mục cũng có thể chấp nhận cho chủng sinh học
lư thuyết Marxism trong chủng viện để việc phong chức hay bổ nhiệm nhân sự trong
giáo phận, hay việc xin cho một số linh mục xuất ngoại du học… được chính quyền
chấp thuận dễ dàng hơn. Như vậy không chỉ thuận lợi cho ḿnh mà c̣n v́ lợi ích
của Giáo Hội và các linh hồn nữa! Nhưng than ôi, một khi đă nhượng bộ trong một
trường hợp nhỏ, th́ sẽ có nhiều cám dỗ để tiếp tục nhượng bộ những trường hợp
lớn hơn. Tương tự như để nuôi một lời nói dối, đôi khi phải tiếp tục nói dối
trong nhiều trường hợp khác. Chỉ cần chấp nhận lần đầu tiên đổi chác một cách
nhẹ nhàng như thế là có thể bắt đầu đi vào quỹ đạo mà chính quyền mong muốn.
Người Pháp có câu: «il n’y a que le premier pas qui coûte» (chỉ bước đầu tiên là
quan trọng), người Việt cũng thường nói: «đầu xuôi, đuôi lọt» mà!
Chúng ta đừng vội kết án các chủng sinh, linh mục hay giám mục đă chấp nhận
những đổi chác như vậy. Tốt nhất hăy tự đặt ḿnh trong hoàn cảnh ấy xem ḿnh sẽ
hành động thế nào? Phải thật thánh thiện, phải thật sự khôn ngoan theo cách của
Thiên Chúa (chứ không phải cách của người trần), phải dám tin tưởng vào sự quan
pḥng của Thiên Chúa và phải có thật nhiều ơn Chúa mới có thể giải quyết thật
vuông tṛn không ǵ đáng trách trong những trường hợp như thế! Rất tiếc đâu phải
ai cũng được như vậy!
3) Phương pháp «cây gậy và củ cà rốt»
«Cây gậy và củ cà rốt» là một phương pháp cổ điển nhưng rất hữu hiệu mà mọi
người có thế lực cũng như mọi chính quyền đều dùng để làm chủ t́nh h́nh, bắt
buộc hay lái mọi người làm theo ư ḿnh. Trong một quốc gia mà luật pháp rơ ràng,
th́ việc sử dụng phương pháp này sẽ bị hạn chế. Nhưng trong những quốc gia theo
luật rừng, theo chế độ «xin-cho» tùy tiện, th́ phương pháp này rất dễ thực hiện
và rất hữu hiệu.
Ai cũng sợ khổ, sợ gặp khó khăn, phiền nhiễu, sợ lâm vào thế kẹt, sợ chết, và ai
cũng ham lợi, ham sướng, muốn thuận lợi, thích dễ dàng… Phương pháp này triệt để
áp dụng định luật tâm lư ấy. Để tránh khổ, tránh phiền phức, để được dễ dàng
trong đời sống, rất nhiều trường hợp phải xin phép chính quyền (chẳng hạn xin
xây sửa nhà, xin đăng kư kết hôn, xin vào chủng viện, xin xuất ngoại, xin di
chuyển…). Ở các quốc gia khác, người dân xin phép chính quyền điều ǵ, nếu điều
đó chính đáng theo luật pháp, th́ chính quyền có bổn phận phải cho phép. Nếu
không, người dân có quyền kiện cáo chính quyền. Nhưng tại Việt Nam, chính quyền
có cho phép hay không, điều đó không hoàn toàn dựa trên luật mà phần nào dựa
trên sự tùy hứng và tùy nhiều thứ của người có quyền cho phép. Và sự tùy tiện
này là điều kiện rất thuận lợi để kẻ có quyền sử dụng phương pháp «cây gậy và củ
cà rốt»: nếu anh cứng đầu không chịu nghe lời tôi, không làm theo ư tôi, th́ tôi
cũng cứng đầu không chấp thuận điều anh xin. Cùng cứng đầu với nhau xem ai thiệt
hơn ai? Đương nhiên là người dân phải chịu thiệt. Nếu không muốn chịu thiệt, th́
phải chấp nhận «mềm đầu» thôi!
Áp dụng trong phạm vi tôn giáo, nếu lănh đạo tập thể tôn giáo tỏ ra cứng đầu th́
cả tập thể sẽ phải chấp nhận sự ḱm kẹp chặt chẽ hơn, xin phép ǵ cũng khó được
chấp thuận. Chẳng hạn, nếu các giám mục hay linh mục cứ nhất định giữ vững lập
trường của ḿnh, không chịu làm theo đề nghị của nhà nước, hoặc dám lên tiếng về
t́nh trạng thiếu tự do tôn giáo cho dù ôn ḥa cách mấy, th́ hậu quả sẽ là: các
sinh hoạt tôn giáo trong giáo phận hay giáo xứ ḿnh sẽ bị giới hạn lại, mọi
chuyện xin phép cho dù chính đáng cũng đều trở nên khó khăn… Cụ thể là Giáo Hội
Công giáo, Giáo Hội Tin Lành Việt Nam nhờ các vị lănh đạo Giáo Hội im lặng dẫu
bị đàn áp, dẫu bị tịch thu đất đai tài sản, và chấp nhận dễ dàng một số yêu cầu
của chính quyền mà các sinh hoạt tôn giáo bề ngoài (lễ lạy, xây nhà thờ, dạy
giáo lư…) hoặc việc xin xuất ngoại, du học được thuận lợi. C̣n giáo phái Tin
Lành Mennonite và các Hội Thánh Tin Lành Tư Gia ([11]) hễ bị đàn áp là lên tiếng
đấu tranh, là «la lên» cho cả thế giới biết, nên bị chính quyền gây khó dễ trăm
chiều, bị bắt bớ, bị đánh đập… thậm chí bị đe dọa tiêu diệt. Những Hội Thánh này
chủ trương thà bị bắt bớ, bị khó dễ chứ không chấp nhận thỏa hiệp ([12]).
Ta thử đặt ḿnh vào địa vị của các vị lănh đạo các Giáo Hội mà suy nghĩ xem: nếu
ḿnh cứ cứng đầu th́ thiệt hại sẽ về ai? Về ḿnh th́ không nói làm ǵ, nhưng con
chiên của ḿnh mới bị thiệt hại nhiều, mà thiệt hại về phần hồn mới là khó chấp
nhận. Ích lợi hay thiệt hại phần linh hồn là điều mà các giám mục, linh mục, hay
các mục sư, truyền đạo vốn đặt rất nặng. Có nhiều Kitô hữu, mục sư, linh mục hay
giám mục cho rằng dù chỉ một linh hồn cũng giá trị hơn những miếng đất rộng bao
la, hơn những cơ sở vật chất khang trang đầy tiện nghi rất nhiều. Một linh hồn
giá trị đến nỗi Đức Giêsu, là Thiên Chúa, đă sẵn sàng chịu bao đau khổ, sẵn sàng
đổ máu ḿnh ra đến nỗi chết để cứu chuộc cơ mà! V́ thế, nếu phải chịu đủ mọi khó
khăn, thiệt tḥi, chịu mất miếng đất này cơ sở nọ mà cứu được dù chỉ một linh
hồn thôi th́ cũng đă bơ công lắm rồi! Do đó khi cân nhắc lợi hại của việc cứng
đầu, các ngài đành phải chấp nhận xuống nước thôi… Quan niệm của nhiều người bên
Kitô giáo là như thế! Nên các vị lănh đạo bên Công giáo hay Tin Lành thường
không quá cứng đầu th́ cũng dễ hiểu thôi! Đó cũng là lư do để chúng ta thông cảm
cho các ngài. C̣n quan niệm như thế là đúng hay sai th́ đó là suy nghĩ của mỗi
người.
V́ thế, xin đừng hiểu lầm, vấn đề không phải là các vị lănh đạo bên Kitô giáo
([13]) coi Giáo Hội riêng của ḿnh quan trọng hơn cả tổ quốc. Hoặc coi trọng
những điều kiện thuận lợi cho tôn giáo ḿnh hơn cả t́nh trạng đau khổ và chịu
đầy dẫy bất công đàn áp của dân chúng. Vấn đề là các ngài coi giá trị của linh
hồn cao hơn, và cao hơn rất nhiều so với những mất mát vật chất, những khó khăn
của hoàn cảnh bên ngoài… Chính v́ quan niệm như vậy, mà ngày xưa các giáo sĩ
thừa sai đă sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, kể cả hy sinh mạng sống, để đi khắp
nơi rao giảng Tin Mừng… chỉ với mục đích cứu các linh hồn. V́ mọi linh hồn đều
là vô giá! Người đứng ngoài lănh vực đức tin Kitô giáo khó có thể hiểu và chấp
nhận được lập trường này của các ngài.
V́ thế, các ngài đă chấp nhận nhiều hy sinh – bị mang tiếng là hèn nhát, là im
lặng đồng lơa với Cộng sản, với bất công… – chỉ v́ muốn tạo điều kiện thuận lợi
cho việc cứu rỗi các linh hồn, là điều quan trọng nhất trong sứ mạng hay bổn
phận của các ngài. Sứ mạng hay bổn phận này ngầm đ̣i hỏi sự phát triển và thăng
tiến của Giáo Hội, như đào tạo, phong chức và bổ nhiệm các chức sắc, lập chủng
viện và chiêu sinh, cử người du học, xuất ngoại, quan hệ ngoại giao với Giáo Hội
toàn cầu, mở các lớp giáo lư, đào tạo giáo dân, xây sửa nhà thờ, v.v… Tất cả
những sinh hoạt này ở các nước tự do và dân chủ th́ không phải xin phép v́ chúng
đều thuộc quyền căn bản của con người. Nhưng trong chế độ Cộng sản, muốn làm
những việc chính đáng này th́ đều phải xin phép và phải chờ chính quyền cho phép
mới được làm ([14]). Tự do theo nghĩa của Cộng Sản là vậy! ([15]) Nếu tỏ ra cứng
đầu với nhà nước th́ tất cả những nhu cầu trên đều bị hạn chế hay gặp khó khăn.
Và sự thiệt hại trước mắt là về phía các linh hồn, mà trên nguyên tắc đối với
các ngài là sự thiệt hại không ǵ bù đắp được. V́ thế, việc tỏ ra ngoan ngoăn
đối với chính quyền để đỡ bị thiệt hại cho các linh hồn một cách nào đó theo
quan niệm của các ngài là một thái độ khôn ngoan.
Tuy nhiên, xét theo khía cạnh khác, th́ thái độ ngoan ngoăn, im lặng và có vẻ
như thỏa hiệp này là một h́nh thức đồng lơa, làm mất bản chất ngôn sứ của Giáo
Hội. Dần dần Giáo Hội trở thành một công cụ ngoan ngoăn trong tay của nhà nước.
Và để có được t́nh trạng dễ thở phần nào trong Giáo Hội, th́ Giáo Hội đă phải
đánh mất phần nào bản chất quư giá của ḿnh. Như vậy được cái này th́ mất cái
kia… Vấn đề là cái nào quan trọng hơn cái nào? Điều này tùy quan điểm của mỗi
người. Người ta có thể dựa vào những lư do chính đáng nhất để biện hộ cho hành
động của ḿnh.
4) Áp dụng pháp luật cách tùy tiện (để hỗ trợ phương pháp «cây gậy và củ cà
rốt»)
Một trong những cách rất hữu hiệu để hỗ trợ phương pháp «cây gậy và củ cà rốt»
là dùng sự lỏng lẻo và tùy tiện khi áp dụng pháp luật. Ta thấy những luật lệ về
tôn giáo – chẳng hạn pháp lệnh tôn giáo mới ban hành – có những điều khoản thật
gắt, thật chặt, khiến người đọc cảm thấy không c̣n một khoảng trống nào cho tự
do nữa. Theo pháp lệnh này, tất cả mọi tập thể tôn giáo đều phải được nhà nước
công nhận th́ mới hợp pháp và mới được hoạt động. Hầu hết mọi sinh hoạt tôn giáo
đều phải xin phép mới trở thành hợp pháp. Nhưng luật lệ gắt gao ấy giống như một
cái tḥng lọng mà nhà nước có thể tùy nghi thắt chặt hay nới lỏng theo từng đối
tượng. Đối với những đoàn thể được nhà nước công nhận, sẵn sàng chấp nhận khuôn
phép, th́ nhà nước có thể làm ngơ cho những sinh hoạt đáng lẽ phải xin phép mà
không xin phép. Nhưng đối với những đoàn thể tôn giáo không được nhà nước công
nhận th́ mọi sinh hoạt như thế đều có thể bị kết án là vi phạm luật pháp.
Tương tự như có luật quy định rằng mọi công dân khi vắng nhà ban đêm đều phải
xin phép chính quyền địa phương. Nhưng trong thực tế, người dân b́nh thường có
thể vắng nhà không xin phép cả tháng cũng không hề ǵ, chính quyền địa phương có
biết cũng làm ngơ. Nhưng một người tranh đấu cho dân chủ bị chính quyền lưu ư
theo dơi, chẳng hạn như tôi, dù chỉ vắng nhà một đêm không xin phép mà bị chính
quyền phát hiện, th́ lập tức sẽ bị xử lư theo pháp luật. Thỉnh thoảng chính
quyền vẫn đến nhà tôi ban đêm để kiểm tra hộ khẩu, xem tôi có mặt ở nhà hay
không. Nếu vắng nhà không xin phép hay tŕnh báo, chính quyền có thể kết án tôi
vi phạm pháp luật một cách hết đường chối căi. V́ thật sự là có luật như thế đă
được ban hành rồi và vẫn c̣n đang có hiệu lực. Trên nguyên tắc th́ đối tượng của
luật này là tất cả mọi công dân trong nước, nhưng trong thực tế th́ chỉ áp dụng
cho những đối tượng đặc biệt mà thôi!
Rất nhiều luật được lập ra nhưng có những người vi phạm thậm chí thường xuyên
cũng không sao, nhưng có người vi phạm chỉ một lần mà bị phát hiện th́ sẽ bị xử
lư nghiêm khắc. Đó cũng là một cách hữu hiệu để hạn chế và gây khó khăn cho
những tiếng nói tranh đấu ở trong nước.
5) Gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ nhau
Người ta biết rơ một số trường hợp cụ thể chính quyền đă gài người vào trong một
số tập thể nào đó. Thế là trong cả những tập thể khác liền có sự nghi ngờ lẫn
nhau, không biết ai là người được chính quyền gài vào tập thể ḿnh.
Một mục sư Tin Lành cho tôi biết: trong một buổi họp chỉ gồm những người đứng
đầu hay đại diện các giáo phái Tin Lành để bầu các chức vụ trong hiệp hội các
giáo phái, vừa bầu xong th́ chỉ mấy phút sau vị mục sư mới đắc cử chủ tịch liền
nhận được điện thoại của ban tôn giáo thành phố chúc mừng ông trúng cử. Việc
chính quyền biết ngay tức khắc kết quả cuộc bầu cử khiến các mục sư nghi ngờ
rằng đă có ít nhất một người trong nhóm làm nội ứng cho họ. Và vị này đă dùng
điện thoại di động mở sẵn như một máy ghi âm để truyền thanh trực tiếp buổi bầu
cử ấy cho chính quyền. Làm sao biết được ai làm chuyện ấy? V́ thế, trong tập thể
lập tức phát sinh t́nh trạng người này nghi ngờ người kia. Về sau, trong các
buổi họp, tất cả các mục sư đều được yêu cầu tắt điện thoại di động và để điện
thoại ngay trước mặt. Nhưng biện pháp này chẳng hữu hiệu chút nào, v́ nếu ông
mục sư «hai mang» mang hai điện thoại di động đi th́ ai mà biết được?
Trong t́nh trạng nghi ngờ nhau như thế, làm sao các vị lănh đạo tôn giáo có thể
đoàn kết với nhau, có thể hoạch định với nhau một việc ǵ cần kín đáo để phát
triển Giáo Hội được? Biết bao chuyện kín đáo trong nội bộ tôn giáo đă được báo
cáo cho công an nhờ những tay «hai mang» đắc lực này! Chuyện xảy ra trong tập
thể này, th́ chắc chắn cũng đă, đang và sẽ xảy ra trong các tập thể khác.
V́ thế, chúng ta không nên lấy làm lạ tại sao HĐGMVN nhiều khi không thể thống
nhất với nhau một đường lối mạnh mẽ để bảo vệ Giáo Hội và để đối phó với chính
sách phá hoại tôn giáo của nhà nước. Tốt nhất hăy thông cảm với các ngài hơn là
kết án! Một giám mục nọ muốn biểu lộ sự ủng hộ của ngài đối với việc lên tiếng
cho tự do tôn giáo của tôi, cũng phải nói với tôi một cách kín đáo, phải ngó
trước ngó sau rồi mới nói, mặc dù cả hai chúng tôi lúc đó đang ở trong sân một
chủng viện. Phải chăng các ngài đă từng có những kinh nghiệm chua chát, đau
thương về chuyện này?
Chỉ cần biết chắc trong tập thể có một hai người làm nội gián mà không xác định
rơ được ai, th́ chuyện làm việc chung với nhau liền trở nên rất khó khăn. Nhất
là khi cần đi tới những quyết định chung quan trọng mang tính đối phó với nhà
nước. Chỉ cần nhà nước biết nội dung quyết định ấy thế nào th́ quyết định ấy đă
bị vô hiệu hóa rồi, chưa nói đến sẽ có nhiều người bị phiền nhiễu trong quá
tŕnh thực hiện quyết định ấy!
Và đương nhiên những ai dám hành xử theo lương tâm đi ngược với chính sách nhà
nước sẽ được các tay «hai mang» báo cáo cho công an để họ nắm vững và lên phương
sách đối phó. Đương sự có thể sẽ bị cô lập, sách nhiễu hoặc bị gây khó khăn để
không làm ǵ được. Trong một hoàn cảnh khó khăn như thế, nhiều người cho dù
thiện chí và can đảm cũng đành phải buông xuôi… v́ mọi cố gắng của ḿnh chẳng đi
đến đâu, mà chỉ có hại cho bản thân, gia đ́nh và tập thể ḿnh lănh đạo thôi.
Chỉ người ở trong cuộc mới có thể hiểu hết những khó khăn và hạn chế của ḿnh.
Đôi khi đành phải chấp nhận mang tiếng là hèn nhát để tập thể mà ḿnh phụ trách
đỡ bị thiệt hại. Chấp nhận mang tiếng xấu như thế quả là một hy sinh to lớn. Nói
thế không có nghĩa là tôi muốn loại trừ những trường hợp có những giáo sĩ, giáo
dân – thậm chí rất cao cấp hay rất trí thức – v́ hèn nhát mà không dám lên tiếng
tranh đấu cho Giáo Hội. Hoặc sẵn sàng làm những việc trái ngược với lương tâm,
với quyền lợi của Giáo Hội hay quê hương ḿnh, như làm tay sai cho chế độ, chỉ
điểm cho công an những người dám tranh đấu bảo vệ Giáo Hội, chống áp bức bất
công, hoặc dám chống lại chính sách đàn áp tôn giáo của nhà nước… Điều này đă
từng xảy ra không ít trong các nước Cộng sản ở Đông Âu, Trung Hoa, như đă từng
được mô tả trong những tác phẩm viết về t́nh trạng các tôn giáo bị đàn áp trong
chế độ Cộng sản ([16]).
6) Gài bẫy
Một trong những phương cách rất hữu hiệu để những nhân vật có uy thế phải im
lặng hoặc trở thành tay sai cho chế độ, đó là gài bẫy để họ phạm phải một lầm
lỗi nào đó. Dễ dàng nhất là sử dụng mỹ nhân kế.
Đây là một kế tuyệt vời, rất hữu hiệu, có khả năng làm tê liệt tức khắc những
tiếng nói oanh liệt trong Giáo Hội. V́ bất cứ ai đang có uy tín trong Giáo Hội
mà vướng phải những lầm lỗi liên quan đến phụ nữ, đến điều răn thứ sáu ([17]),
không ít th́ nhiều, đều bị mất uy tín, không chỉ với giáo quyền, mà c̣n với dân
chúng nữa. Giáo dân Công giáo thường có quan niệm rất khắt khe về vấn đề này,
khiến cho người lỡ phạm lỗi phải cố gắng che dấu lầm lỡ của ḿnh. Và để che dấu,
người ta có thể chấp nhận dễ dàng những điều kiện mà kẻ gài bẫy đưa ra như một
lối thoát.
Kế này cũng rất dễ thành công, v́ nó đánh vào một điểm rất yếu của con người,
cũng là một nhu cầu tự nhiên và rất lớn thuộc bản năng con người. Nhất là khi
con người đă ở trong một t́nh trạng ít nhiều mất sáng suốt, kém tự chủ, chẳng
hạn trường hợp uống rượu say, hay dùng phải một chất kích thích hoặc một loại
thuốc kích dục được pha trộn trong thức ăn đồ uống… Trong t́nh trạng mất sáng
suốt, lại ở một nơi có vẻ kín đáo, bảo đảm không ai thấy, một người nam bị cám
dỗ bởi một người nữ vừa đẹp lại vừa khêu gợi, nếu không thuộc loại bản lănh siêu
cường th́ hầu như chắc chắn phải sa ngă. Và trong một cuộc gài bẫy, những hành
động của người ấy ắt nhiên được ghi lại cách nào đó để làm bằng chứng tội phạm.
Để những bằng chứng này được giữ kín, nạn nhân sẽ phải chấp nhận một số điều
kiện nào đó mà người gài bẫy đưa ra. Chẳng hạn im lặng không lên tiếng, hoặc có
một thái độ chấp nhận dễ dàng hơn những đề nghị của chính quyền, hoặc chấp nhận
làm một công tác nào đó. Người Việt Nam có tính «sĩ diện», coi danh dự của ḿnh
là quan trọng, nên nếu không có lương tâm ngay thẳng và mạnh mẽ, sẽ rất dễ chấp
nhận những điều kiện mà chính quyền đưa ra, để những lầm lỡ của ḿnh được ém
nhẹm. Tôi rất phục linh mục Nguyễn Văn Lư trong việc phá được kế này, không để
cho việc lầm lỡ của ḿnh (có thể do bị gài bẫy) và việc bảo vệ uy tín của ḿnh
về chuyện này khiến ḿnh phải câm lặng trước những bất công sai trái của chế độ.
Bất chấp bị đưa ra trước công luận lầm lỡ của ḿnh, linh mục vẫn lên tiếng một
cách mạnh mẽ.
Một nhà tranh đấu nọ cho tôi biết là ông rất lấy làm lạ khi thấy người bạn cùng
tranh đấu với ông trong một vụ nọ, đă tự nhiên thay đổi lập trường, trở nên dễ
bảo hơn, dễ chấp nhận những yêu cầu của chính quyền hơn, sau khi ông chấp nhận
lời mời đi ăn uống với các nhân viên chính quyền. Ông nghi ngờ người bạn này đă
bị gài bẫy mỹ nhân kế kết hợp với việc sử dụng chất kích dục, v́ quả khó mà nghĩ
ra một cách nào khác giải thích sự thay đổi đột ngột ấy. Con người vốn bị cám dỗ
nặng nề về tính dục, nếu để tự nhiên th́ chỉ khi có điều kiện thuận tiện mới sa
ngă. Nhưng nếu bị chất kích dục kích thích, th́ tùy theo nồng độ, con người có
thể đi đến những hành động sàm sỡ công khai ngay trước mặt mọi người.
Đây là một kế rất hữu hiệu và tương đối dễ thực hiện. Hầu như chính quyền nào
cũng áp dụng kế này, nhưng nhất là chính quyền Cộng sản, vốn không từ một mưu kế
nào để thực hiện điều ḿnh muốn, nên việc sử dụng kế hữu hiệu này là chuyện khó
tránh khỏi. Các chính quyền khác phải e dè những nguyên tắc đạo đức, phải sợ dư
luận của quần chúng hay của phe đối lập, c̣n những chính quyền vô thần, độc tài
độc đảng th́ đâu có những ngăn trở như vậy mà phải sợ
7) Cho phép lạm quyền, vi phạm luật… để có thể sai khiến
Để có thể khống chế và sai xử dễ dàng những cán bộ thuộc quyền, nhà nước có thể
làm ngơ cho những sai phạm hay vi phạm pháp luật của họ, nhưng ghi nhớ và lưu
trữ bằng chứng. Chẳng hạn hiện nay, biết bao quan chức trong nước làm văn bằng
giả mạo (từ tiểu học cho đến tiến sĩ), hối lộ tham ô, chiếm đất đai của dân
chúng cách bất công, hoặc hiếp dâm phụ nữ… Chính quyền dù có biết rất rơ cũng
vẫn làm ngơ, dung túng để họ trung thành với ḿnh. Nếu cần sai xử những cán bộ
này thực hiện điều ǵ mà họ không chịu làm, hay khi họ lên tiếng tranh đấu mà
muốn bắt họ im lặng, th́ nhà nước có thể dùng những bằng chứng vi phạm pháp luật
này để đe dọa truy tố. Hoặc họ có thể bị biến thành những «con dê tế thần» hầu
xoa dịu sự phẫn nộ của dân chúng khi bị dân chúng kêu ca quá đáng. V́ thế, muốn
được yên thân th́ những kẻ đă phạm lỗi này phải biết điều, phải làm theo lệnh
trên, hoặc phải im lặng… V́ thế, những cán bộ đă từng vi phạm pháp luật, đă tham
ô, đă nhận hối lộ, đă xài bằng giả, v.v… dẫu có giác ngộ con đường dân chủ, dẫu
có muốn đứng về phía dân chúng, th́ cũng không dám lên tiếng, v́ «há miệng mắc
quai».
8) Nắm cho được người đầu. Đập giập đầu rắn
Một trong những chính sách đối với tôn giáo của nhà nước Việt Nam là: làm sao
nắm được người lănh đạo tập thể. Một khi đă nắm được người lănh đạo của một tôn
giáo, một đoàn thể, một giáo phận, một giáo xứ… th́ kể như là nắm được toàn thể
tập thể đó. Sở dĩ như vậy là v́ nói chung, người Việt Nam vẫn có truyền thống
tôn sư trọng đạo, luôn luôn kính nể và tuân phục người lănh đạo ḿnh, khi người
lănh đạo c̣n tỏ ra ít nhiều xứng đáng, thậm chí không c̣n xứng đáng nữa… Tính
chất này c̣n rơ rệt hơn nơi các tín đồ tôn giáo, nhất là các tín hữu Công giáo.
Các tín hữu Công giáo thường coi các linh mục, giám mục như những vị đại diện
cho Thiên Chúa ở trần gian. V́ thế, họ sẵn sàng nghe theo lời chủ chăn, cho dù
lời của chủ chăn ngược với ư họ, hay họ thấy chủ chăn không được đúng hay hợp lư
cho lắm. Số người chủ trương «vâng lời tối mặt» cũng c̣n chiếm một tỷ lệ không
nhỏ trong các cộng đồng Công giáo. V́ thế, nhà nước Cộng sản luôn luôn quan tâm
tới việc làm sao nắm được người lănh đạo các tập thể trong Giáo Hội, mà quan
trọng nhất là các giám mục.
Một linh mục nọ kể lại cho tôi lời của một anh công an nói với ông: «Trong một
giáo phận, chúng tôi chỉ cần nắm được giám mục giáo phận ấy là kể như giáo phận
ấy không c̣n vấn đề ǵ đáng ngại nữa». Tôi nghĩ anh công an ấy đă rất thành thực
khi nói câu ấy. V́ thế, một trong những nỗ lực rất lớn của chính quyền là chi
phối các giám mục để có thể điều khiển được cả giáo phận. Nếu những nỗ lực đó
thành công, lúc ấy nhà nước nói th́ giám mục nghe, giám mục nói th́ linh mục
nghe, và linh mục nói th́ giáo dân nghe, thế là cả giáo phận đều làm theo ư nhà
nước. Đương nhiên không dễ ǵ mà làm cho một giám mục nghe theo ư nhà nước hoàn
toàn, nhưng nghe được nhiều chừng nào th́ tốt chừng nấy. Tuy nhiên cũng có những
chủ chăn «yếu bóng vía», hay «sợ bóng sợ gió», chưa dọa đă sợ, hoặc có một lỗi
nặng nào đó muốn che dấu mà nhà nước biết được. Những vị này nhà nước nắm đầu
thật dễ dàng.
Đó chính là lư do tại sao nhà nước lại nhất định phải can thiệp vào việc bổ
nhiệm giám mục, bề trên các chủng viện hay tu viện. Họ dành quyền «phủ quyết»
trong lănh vực này. Dù Ṭa Thánh có bổ nhiệm một người tài đức cách mấy làm giám
mục, nếu chính quyền thấy vị này thuộc loại cứng đầu, không dễ ǵ nắm đầu được,
th́ vị này khó mà được họ chấp nhận. Họ chỉ chấp nhận những người nào mà họ hy
vọng có thể «nắm» được, ít nhất là một phần nào. Để «nắm» được những người lănh
đạo này, chính quyền có thể dùng những phương cách đă kể trên: từ bao vây kinh
tế, sách nhiễu, đe dọa, đến đổi chác, gài bẫy, v.v… Và chúng ta cũng nhận thấy
họ đă phần nào thành công khi các giám mục, linh mục Việt Nam đă giữ được một
thái độ im lặng, thụ động trong một thời gian rất lâu. Cho dẫu nhiều người trong
Giáo Hội bị tù đày hay quản chế cách bất công và phi luật pháp, cho dẫu Giáo Hội
bị đàn áp, bị khó dễ, bị mất mát tài sản, quyền lợi. Bất chấp những lời tha
thiết van xin các ngài lên tiếng của một số con chiên bức xúc về t́nh trạng Giáo
Hội… Cũng may về sau có một vài vị lên tiếng, nhưng chỉ lên tiếng cách rất dè
dặt và ôn ḥa.
Nếu có một tôn giáo, một giáo phái, một giáo phận nào không chấp nhận sự kiểm
soát, khống chế của họ, dám tỏ thái độ bất khuất, dám lên tiếng phản kháng… th́
họ phải t́m cách triệt hạ hoặc hạn chế tầm hoạt động của vị lănh đạo ấy. Trường
hợp Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền, Ḥa thượng Thích Huyền Quang, Ḥa thượng
Thích Quảng Độ, Mục sư Nguyễn Hồng Quang… là những thí dụ điển h́nh và cụ thể.
Đây là một phương cách cổ xưa như trái đất: «Đánh rắn th́ phải đánh vào đầu».
Đức Giêsu đă lấy lại lời của ngôn sứ Dacaria để nói lên chiến thuật ấy: «Hăy
đánh mục tử th́ đàn chiên sẽ tan tác» (Dc 13,7; x. Mt 26,31; Mc 14,27; Cv 5,36).
Triệt hạ mục tử cũng là cách dằn mặt những mục tử kế nhiệm để các vị này tránh
vết xe cũ – là dám cứng đầu, đối kháng – mà chấp nhận một đường lối mềm dẻo hơn.
9) Tiệm tiến, tiến từng bước một
Để có thể ngày càng hạn chế số người lên tiếng tranh đấu đ̣i dân chủ và tự do,
đ̣i tự do tôn giáo và nhân quyền, đồng thời gia tăng số người ủng hộ chế độ, nói
tốt cho chế độ lên, nhà nước đă yêu cầu các cán bộ của ḿnh phải biết mềm dẻo và
tiến tới từng bước một, thậm chí có thể «lùi một bước để tiến hai bước». Phải
chấp nhận thời gian khi muốn thay đổi ḷng người, không thể đốt giai đoạn, v́
«dục tốc bất đạt». Nghĩa là họ phải hoạt động làm sao để:
– người đang chống th́ bớt chống hơn, và không liên kết với nhau được.
– người đang cứng rắn th́ trở nên ôn ḥa, mềm dẻo hơn.
– người đang lên tiếng th́ trở thành im lặng, thụ động, chấp nhận làm ngơ trước
bất công, đàn áp, trước những trái tai gai mắt, trước những vi phạm tự do tôn
giáo, nhân quyền.
– người đang thụ động im lặng th́ nói thuận theo, ủng hộ chế độ.
– người đang nói thuận theo th́ trở thành người hoạt động tích cực.
– người đă hoạt động th́ trở thành tay sai, «hai mang», làm nội gián, tự động
báo cáo cho công an những ǵ nhà nước muốn biết…
Để thực hiện được từng bước tiến một như thế, các cán bộ cần phải biết áp dụng
kết hợp những phương cách trên tùy theo t́nh huống cụ thể. Và cứ tiệm tiến từng
bước như thế trong một thời gian dài, người cán bộ có thể dần dần biến một người
từ chống đối mănh liệt trở thành người hoạt động tích cực cho chế độ. Quá khứ
cho thấy họ đă thành công trong việc biến đổi một số khá đông người theo chiều
hướng họ muốn. Thật vậy, họ đă biến được một số linh mục từ chống đối hoặc không
chịu cộng tác đến chỗ dường như hoàn toàn nói theo lập trường Cộng sản, dù biết
đó là sai sự thật: chẳng hạn đă có những linh mục sẵn sàng sang Hoa Kỳ để giải
độc cho Cộng sản về tự do tôn giáo, hoặc sẵn sàng viết những bài báo ca tụng chế
độ…
10) Dùng pháp luật, ṭa án để dập tắt những tiếng nói tranh đấu
Trước áp lực quốc tế, và để có thể nhận được những quyền lợi từ các nước khác
(chẳng hạn được gia nhập WTO, được vay tiền, được viện trợ…), chính quyền Việt
Nam bị buộc phải tôn trọng nhân quyền, đặc biệt tự do tôn giáo. Bị các thế lực
nhân quyền quốc tế lên án quá nhiều, họ không c̣n có thể bắt bớ người một cách
vô cớ như những thập niên đầu sau khi chiếm thêm được miền Nam năm 1975. V́ thế,
họ đă dùng pháp luật kiểu «luật rừng» để đàn áp những người lên tiếng tranh đấu:
thay v́ bỏ tù hay giết họ cách lén lút, th́ đưa ra ṭa án xét xử, nhưng thường
là xét xử một cách lén lút, không công khai, v́ họ không cho ai ngoài người thân
nhất của bị can tham dự. Để có thể kết án những người tranh đấu cho dân chủ,
chính quyền có thể gán ghép cho họ một tội danh nào đó mà họ không hề phạm, một
cách hết sức gượng ép. Chẳng hạn khi xử linh mục Nguyễn Văn Lư, ṭa án không
biết ghép cho ông tội ǵ, chỉ biết ghép một tội rất mơ hồ không có trong luật
pháp: «phá hoại đoàn kết dân tộc». Hoặc chỉ dựa vào việc liên lạc với bên ngoài
để kết án bác sĩ Phạm Hồng Sơn là gián điệp… Ai cũng biết là ṭa án ngụy tạo ra
tội để kết án những kẻ vô tội, nhưng trong một chế độ độc tài th́ người dân dù
có biết điều ấy cũng chẳng dám làm ǵ khác hơn là im lặng. Pháp luật và ṭa án
thay v́ bênh vực cho công lư, th́ lại trở thành công cụ để chính quyền đàn áp,
bịt miệng người dân.
Để hợp pháp hóa việc đàn áp, bắt bớ, nhà nước đă ra những luật lệ như nghị định
31/CP do thủ tướng Vơ Văn Kiệt ban hành ngày 14-4-1997 cho phép công an được
phép tùy tiện quản chế tại gia những cá nhân (bị quy kết tuỳ tiện là) vi phạm an
ninh quốc gia, mà không cần thủ tục pháp lư (chẳng hạn lệnh của ṭa án) hay được
đem ra toà án xét xử. Ḥa thượng Huyền Quang, Quảng Độ, linh mục Phan Văn Lợi…
đang là nạn nhân của nghị định này. Hay dựa trên pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo
do Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2004, nhà nước có thể
quy kết những sinh hoạt tôn giáo chính đáng của những tập thể tôn giáo không
được nhà nước công nhận là bất hợp pháp, là vi phạm pháp luật hầu có cớ pháp lư
mà bắt bớ hay kết án… Các Hội Thánh Tin Lành Tư Gia đang là nạn nhân chính của
pháp lệnh này.
11) Những lư do chủ quan khiến người dân im lặng
Ngoài những lư do nhà nước tạo nên để làm câm lặng những tiếng nói đấu tranh
trong nước, người dân nhiều khi không thể lên tiếng tranh đấu v́ những hạn chế
của riêng ḿnh. Sau đây là một vài trường hợp điển h́nh:
Có những người muốn lên tiếng tranh đấu, nhưng tự xét thấy ḿnh không có khả
năng, đă than thở với tôi: «Tôi cũng muốn lên tiếng lắm, nhưng tôi không biết
lên tiếng thế nào đây? Dù cũng khá trí thức đấy, nhưng quả thật tôi viết lách
không quen. Viết một lá thư cho người thân mà tôi phải loay hoay mất cả mấy
tiếng đồng hồ, vậy th́ làm sao tôi viết được một bài lên tiếng tranh đấu cho tự
do, dân chủ, vốn đ̣i hỏi phải mất công và mệt trí hơn rất nhiều?»
Một người khác nói với tôi: «Phải công nhận anh thật b́nh tĩnh khi đối diện với
công an, và trả lời họ một cách thật khôn ngoan và khéo léo khiến họ không kết
tội anh được. Nhưng quả thật tôi không được như anh. Gặp công an là tôi run cầm
cập, bao nhiêu khôn ngoan b́nh thường của tôi đều biến đâu mất cả. Lúc đó dù tôi
không có tội, nhưng cách trả lời ngu xuẩn của tôi cũng biến tôi thành có tội.
Như vậy làm sao tôi tranh đấu được?»
Một người khác nữa nói: «Tôi cũng muốn lên tiếng, nhưng biết lên tiếng ở đâu bây
giờ? Tôi chỉ là một thằng dân đen, tiếng nói của tôi có giá trị ǵ? Vừa lên
tiếng là bị dập tắt ngay. Thế giới chưa nghe được tiếng của tôi, th́ tôi và gia
đ́nh đă phải khốn khổ trăm chiều rồi, c̣n sức đâu mà lên tiếng được nữa?! Tôi
nghe nói trong chế độ này chỉ có thể lên tiếng trên Internet thôi, mà tôi th́
chẳng biết Internet là ǵ!»
Quả thật, không phải cứ muốn lên tiếng là lên tiếng được. Phải có một số điều
kiện thuận lợi nào đấy. Chẳng hạn phải có thể viết lách được, phải có khả năng
ứng đối, phải nắm trong tay một số những phương tiện thông tin liên lạc, nhất là
phải có can đảm được thúc đẩy bởi t́nh yêu quê hương, yêu Giáo Hội thật sự.
Không có điều sau cùng này th́ dù có tất cả mọi thuận lợi khác cũng vô ích. Có
nó, th́ dù không có những điều khác cũng có thể trở thành có.
Có những người không lên tiếng v́ có những quan niệm hẹp ḥi hay có một chủ
trương triết lư sai lầm nào đó. Chẳng hạn:
Một trí thức nọ nói: «Mọi chuyện đă có Thiên Chúa lo, chuyện nước th́ có vận
nước, ḿnh nhỏ bé quá đâu lo chuyện vận nước được. Tôi bây giờ chỉ làm những ǵ
có thể làm được trước mắt: biết bao kẻ đau khổ cần tôi an ủi, biết bao người
bệnh cần tôi chăm sóc, biết bao trẻ em bơ vơ cần được giáo dục, nuôi dưỡng…
Những việc này làm đă không xuể, nghĩ chi đến những chuyện xa vời, nguy hiểm,
ngoài khả năng của ḿnh?!» Tôi trả lời: «Những chuyện ấy đúng là cần phải làm và
phải có người làm, nhưng dẫu sao giải quyết những chuyện ấy chỉ là giải quyết
vấn đề ở ngọn thôi. Có một cái gốc phát sinh ra những tệ nạn và đau khổ ấy, đó
là chính sách cai trị kém sáng suốt của những kẻ cầm quyền thiếu thiện chí! Phải
giải quyết vấn đề từ gốc th́ mới hữu hiệu! Nhà cháy mà không ai t́m cách dập
tắt, ai cũng chỉ lo chạy đồ đạc, cứu người bị phỏng th́ đám cháy bao giờ mới hết
được? Nó sẽ lan hết nhà này đến nhà khác. Muốn chạy đồ đạc, muốn cứu người mà
không cố gắng dập tắt ngọn lửa, th́ sẽ tha hồ có việc mà làm, những việc đang
làm ấy sẽ tự phát sinh không bao giờ hết được!»
Một linh mục nói với tôi: «Giáo Hội cũng đă có những người lên tiếng cho quyền
lợi chính đáng của Giáo Hội như các linh mục Nguyễn Văn Lư, Nguyễn Hữu Giải,
Phan Văn Lợi, Chân Tín và cả anh nữa. Các vị ấy và anh đă lên tiếng thay cho
chúng tôi rồi! Quốc tế đă biết những ǵ cần phải biết rồi! V́ thế, chúng tôi nên
làm những chuyện khác cũng cần cho Giáo Hội. Giáo Hội cũng c̣n có biết bao
chuyện phải làm, không chỉ có chuyện tranh đấu cho quyền lợi của ḿnh! Mỗi người
có một phận sự riêng!» Tôi trả lời: «Phải rồi, Giáo Hội c̣n biết bao nhiêu
chuyện phải làm! Nhưng việc tranh đấu cho sự sống c̣n và duy tŕ bản chất phải
có của Giáo Hội là việc quan trọng, là bổn phận của mọi người, và cần rất nhiều
người cùng làm mới thành công được. Chỉ có một vài người lên tiếng như thế th́
chẳng đi đến đâu! Vả lại, những người lên tiếng tranh đấu đâu phải chỉ làm có
mỗi việc tranh đấu! Họ vừa tranh đấu mà cũng vừa làm những chuyện cần thiết khác
cho Giáo Hội, thậm chí cũng đâu kém ǵ ai!? Không thể lấy lư do bận chuyện khác
để miễn cho ḿnh bổn phận ấy được! Chính tôi đây cũng vẫn hăng hái làm việc cho
Giáo Hội, lại c̣n phải làm kinh tế nuôi sống gia đ́nh, mà vẫn lên tiếng tranh
đấu. Nếu ai cũng đùn đẩy chuyện tranh đấu cho người khác th́ Giáo Hội ḿnh vẫn
tiếp tục bị đàn áp, bị cấm đoán là phải rồi!»
Có người tâm sự với tôi: «Lên tiếng tranh đấu mà làm chi? Cái gốc phát sinh ra
mọi sự dữ là tính tham, sân, si của con người. Điều quan trọng là phải diệt cái
gốc ấy. Chế độ có thay đổi mà cái gốc ấy c̣n, th́ đồng bào cũng vẫn phải đau khổ
trăm bề. Anh hăy lo trừ diệt cái tham sân si ấy nơi ḷng người đi đă!» Tôi trả
lời: «Các tôn giáo đang cố gắng làm chuyện ấy đấy chứ! Sứ mạng của các tôn giáo
là giáo dục ḷng người, là diệt trừ tham sân si, nguồn gốc mọi tệ nạn và đau
khổ. Nhưng nhà nước này có cho các tôn giáo được tự do thực hiện sứ mạng ấy đâu?
Các tín đồ Tin Lành vừa mới nhóm họp với nhau tại tư gia để giúp nhau thực hiện
điều ấy th́ lập tức công an đến giải tán, lại c̣n khó dễ họ nữa! Các tôn giáo
muốn mở trường để giáo dục thanh thiếu niên th́ nhà nước không cho phép. Họ chỉ
cho phép các tôn giáo chăm sóc những người bị bệnh AIDS, bị cùi, bị tàn tật…
toàn là những người sắp chết, để họ vừa được tiếng là cho tôn giáo có phần nào
tự do, vừa đỡ cho họ một ngân sách và một số nhân sự quan trọng mà đúng ra họ
phải làm! Ḿnh chỉ được lo chữa cái ngọn, c̣n cái gốc là vấn đề giáo dục th́
ḿnh không được can dự vào.
Muốn diệt được tham sân si nơi ḷng người, là cái gốc phát sinh mọi sự dữ như
anh muốn, th́ phải tranh đấu để các tôn giáo được tự do hoạt động đă, chứ một
ḿnh anh với tôi th́ sao làm nổi chuyện thay đổi ḷng người?»
Người khác nói: «Anh thấy không, có tự do tôn giáo th́ chỉ làm cho các linh mục
hư đi mà thôi! Có tự do th́ mấy ổng sống giàu sang, bê bối, hách dịch… C̣n giáo
dân th́ sẽ ít quan tâm tới Chúa hơn, ít lui tới nhà thờ hơn. Bên Âu châu ḱa,
chẳng có tự do tôn giáo sao? Thế mà nhà thờ vắng tanh, nhiều nhà thờ phải cho
thuê để có tiền đóng thuế cho chính phủ. Chính trong hoàn cảnh khó khăn này Giáo
Hội mới phát triển về phẩm chất, anh không thấy lịch sử Giáo Hội chứng minh điều
đó sao?» Tôi trả lời: «Trong những chế độ khác th́ điều anh nói là đúng. Nhưng
trong chế độ này th́ hoàn toàn khác hẳn! Chế độ này đang cho các tôn giáo được
tự do trong những chuyện bên ngoài: lễ lạy, rước sách linh đ́nh, xây nhà thờ,
tạo cơ sở vật chất… Điều này có thể c̣n làm hư các linh mục hữu hiệu hơn nhiều,
làm cho cả linh mục lẫn giáo dân chỉ c̣n biết đến những chuyện bên ngoài ấy mà
thôi. Nhưng tôn giáo không phải là cái vỏ bên ngoài ấy, mà cốt yếu của tôn giáo
là cái ǵ ở sâu bên trong. Linh mục cần có cái bên trong ấy hơn, và cái sâu xa
bên trong ấy phải đào tạo công phu lắm mới có được. Nhưng nhà nước lại không cho
Giáo Hội được tự do đào tạo các linh mục theo ư ḿnh. Điều tôi thấy hiện nay là
Giáo Hội Việt Nam đang đánh mất bản chất ngôn sứ của ḿnh để đổi lấy thứ tự do
tôn giáo giả tạo bề ngoài. Chính nhà nước cũng muốn khuyến khích thứ tự do tôn
giáo giả tạo ấy để đánh lừa thế giới là Việt Nam có tự do tôn giáo. Khi chỉ chú
trọng và phát huy những ǵ bên ngoài là Giáo Hội mắc bẫy nhà nước, và Giáo Hội
đang đi đúng quỹ đạo mà họ mong muốn. Với quỹ đạo này, Giáo Hội dần dần sẽ trở
thành công cụ trong tay nhà nước. Tôi thấy Giáo Hội đang chấp nhận im lặng thay
v́ phải nói lên tiếng nói ngôn sứ của ḿnh».
12) Nỗi sợ hăi có sẵn trong ḷng người
C̣n biết bao lư do chủ quan và khách quan khác khiến người ta không muốn lên
tiếng đấu tranh cho những quyền lợi chính đáng của ḿnh, và chấp nhận t́nh trạng
hiện có của đất nước. Tuy nhiên, có một lư do chung rất sâu xa nằm sâu trong vô
thức hay tiềm thức, trong cơ cấu tâm lư con người.
Người Việt Nam rất bất khuất, rất anh hùng đối với ngoại bang, nhất là khi bị
ngoại bang đô hộ. Tự ái dân tộc khiến họ sẵn sàng đứng lên khi có người hô hào
nổi dậy. Nhưng người Việt Nam lại rất tôn trọng kẻ bề trên đang nắm quyền cai
trị ḿnh, cho dù đó là một bạo chúa. Trong tôn giáo cũng vậy: dù cha sở có bê
bối, tội lỗi, đối xử với giáo dân tệ bạc đến đâu, người giáo dân vẫn một mực
chịu đựng, thậm chí c̣n bao che cho ông, cho đến khi không chịu nổi nữa mới kiện
lên giám mục. Dân Việt ḿnh sẵn sàng nhẫn nại, chịu đựng, chấp nhận bất công, áp
bức, cho dù vua quan hay bề trên của ḿnh có tàn nhẫn gấp nhiều lần người ngoại
bang đô hộ ḿnh. Dân ḿnh không khác ǵ một người vợ có thể kiên tŕ chịu đựng
chồng đánh đập, đối xử tệ bạc gấp chục lần người ngoài… nhưng lại không chấp
nhận để cho một người đàn ông nào khác đụng đến chân lông của ḿnh. Quả thật,
người Việt Nam không thiếu ǵ những người vợ hiền lành đến như vậy.
Lịch sử đất nước đă phần nào chứng tỏ điều ấy. Người dân có thể đứng dậy kháng
chiến chống ngoại xâm thật mạnh mẽ, đầy khí thế: chống nhà Hán, quân Nguyên, nhà
Minh, nhà Thanh… và mới đây, chống Pháp, chống Nhật… Khi đất nước bị đô hộ th́
luôn luôn có những anh hùng chiêu mộ nghĩa quân nổi dậy để đ̣i lại chủ quyền đất
nước: như bà Trưng, bà Triệu, Ngô Quyền, Lê Lợi, Hoàng Hoa Thám, Trương Công
Định, Nguyễn Thái Học, v.v… Nhưng khi gặp phải những bạo chúa như Hồ Quư Ly, Lê
Long Đĩnh, v.v… hay các tín đồ Công giáo gặp những vị vua cấm đạo nghiêm khắc
như Minh Mạng, Tự Đức… th́ dù có ta thán, oán hờn, nhưng dân chúng vẫn một ḷng
kiên trung với nhà vua chứ không hề có ư muốn phản loạn… Những bạo chúa thường
chỉ bị lật đổ là do con cháu của các vua chúa cũ đứng dậy để thiết lập lại triều
đại của cha ông ḿnh hơn là do dân chúng bất măn mà nổi dậy.
Có quan điểm cho rằng tâm lư chung này là do ảnh hưởng của Khổng giáo. Tôn giáo
này đă đề cao quá đáng đến mức tuyệt đối hóa vai tṛ và quyền hạn của vua quan.
Lư thuyết «Quân, Sư, Phụ» coi nghĩa vụ đối với vua, quan là cao nhất, thiêng
liêng nhất, rồi mới tới bổn phận đối với thầy, và sau đó mới tới cha mẹ ḿnh.
Theo lư thuyết này th́ «Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung» (vua bắt bề tôi
phải chết mà bề tôi không chấp nhận chết là bất trung), coi việc «trung quân»
(trung thành với vua) như một chuẩn mực vô cùng quan trọng của đạo đức con
người. Từ đó người dân phải coi vua chúa và quan quyền là «dân chi phụ mẫu»,
trong xă hội cũng như trong tôn giáo. V́ thế, quan niệm của Khổng giáo đă khiến
người Á Đông nói chung, và người Việt nói riêng, chỉ biết vâng lời tối mặt mà
không dám phản kháng, cho dẫu «phụ mẫu» ấy có sai trái đi nữa. Đặc biệt giới trí
thức, được đúc theo khuôn «quan văn» th́ chỉ biết thụ động, chỉ biết một ḷng
cung cúc phục vụ bề trên, không chỉ trong xă hội mà trong tôn giáo có thể c̣n
hơn như vậy. Cũng có quan điểm nói rằng những cuộc chiến dai dẳng vừa qua đă tạo
một chấn thương tâm năo quá lớn khiến nhiều thế hệ người Việt hiện tại không c̣n
khả năng và ư thức đối kháng nữa. Ngoài ra c̣n phải kể hoàn cảnh nô lệ – ngàn
năm với Tàu, trăm năm với Pháp – đă làm cho tâm lư luồn lách thấm sâu vào xương
thịt của dân Việt. Nó đă trở thành một triết lư sống cụ thể: «Khôn cũng chết,
dại cũng chết, chỉ biết mới sống». «Biết mới sống» ở đây được quan niệm lệch lạc
đi là biết luồn lách, biết đút lót, biết «tránh voi chẳng xấu mặt nào»… cho được
việc của ḿnh. Thể hiện tích cực của triết lư này là dân Việt dễ hội nhập, dễ
thích ứng với mọi hoàn cảnh. Nhưng thể hiện tiêu cực của nó là dân chúng thụ
động, thích luồn lách; nếu có đối kháng th́ chỉ biết chửi đổng bằng những chuyện
tiếu lâm, thơ con ong, thơ trào phúng…
Tâm lư chung đó vẫn c̣n tiếp tục cho đến ngày nay. Cho dù chế độ Cộng sản Việt
Nam hà khắc hơn bất kỳ chế độ đô hộ nào của ngoại bang, người dân dường như vẫn
có thể kiên tŕ chấp nhận. Thêm vào đó, từ xưa đến nay, không một chế độ nào –
dù trong nước hay ngoại bang – có khả năng dập tắt hữu hiệu ngay từ trứng nước
tất cả những mầm mống nổi loạn như chế độ Cộng sản Việt Nam hiện nay.
Đằng sau cái tâm lư thụ động và sẵn sàng chịu đựng ấy là nỗi sợ hăi vốn mọc rễ
rất sâu trong tâm lư con người mọi nơi mọi thời. Chính nỗi sợ hăi này đă làm cho
những bạo chúa, những chế độ độc tài, những tên quan độc ác tăng thêm uy quyền
của ḿnh. Chúng trèo được lên đầu lên cổ người dân chính v́ người dân sẵn sàng
khom lưng cho chúng cưỡi lên. Như vừa nói trên, có quan niệm cho rằng nỗi sợ hăi
chung này do ảnh hưởng của Khổng giáo. Tôi nhận thấy không chỉ Khổng giáo, mà
các tôn giáo khác cũng có thể góp phần tạo nên và gia cường tâm lư chung sợ hăi
này.
Đúng ra các tôn giáo phải giúp giải phóng các tín đồ của ḿnh khỏi mọi nỗi sợ
hăi để sống như những con người tự do, xứng với phẩm giá của ḿnh, v́ mục đích
và bản chất của tôn giáo lẽ ra phải như vậy. Nhưng các tôn giáo ở Việt Nam hiện
nay dường như vẫn chưa nâng cao được tŕnh độ tâm linh các tín đồ của ḿnh lên
đúng mức phải có. Người ta vẫn c̣n giữ đạo v́ sợ hăi: sợ bị Thượng Đế trừng
phạt, sợ bị luân hồi làm thú vật, sợ bị đọa địa ngục, hơn là giữ đạo v́ t́nh
yêu, v́ giác ngộ được đạo là cách sống khôn ngoan nhất để được hạnh phúc cả thân
lẫn tâm. Trước Thượng Đế, người ta vẫn tự coi ḿnh như những kẻ ăn mày chỉ biết
xin xỏ cầu cạnh, hay như những kẻ làm thuê có được trả công th́ mới chịu làm
việc, chứ chưa thật sự tự thấy ḿnh là những con cái được Ngài yêu thương hết
mực để có thể thật sự tin tưởng và dám phó thác cho t́nh yêu toàn năng của Ngài.
Cứ xem cách người ta cầu nguyện với Thượng Đế, với Phật tổ, với các vị thần
thánh th́ thấy rơ điều ấy. Chỉ có t́nh yêu đích thực mới giải phóng con người
khỏi sợ hăi, như thánh Gioan nói: «T́nh yêu không biết đến sợ hăi; trái lại,
t́nh yêu hoàn hảo loại trừ sợ hăi, v́ sợ hăi gắn liền với h́nh phạt và ai sợ hăi
th́ không đạt tới t́nh yêu hoàn hảo» (1Ga 4,18). Thật vậy, t́nh yêu đích thực và
mạnh mẽ làm người ta không c̣n sợ hăi: một người mẹ rất yếu đuối vẫn có thể dám
xông vào đám cháy để cứu con ḿnh trong đó, đang khi những kẻ mạnh mẽ hơn rất
nhiều lại không dám. T́nh yêu của bà đối với con trở thành sự can đảm. Người ta
trở nên hèn nhát chính v́ t́nh yêu đích thực không có trong ḷng họ. V́ thế họ
chưa nhận được sức mạnh, sự dũng cảm mà đúng ra họ phải nhận được cách dồi dào
từ tôn giáo của ḿnh nếu họ sống đúng với tinh thần từ bi yêu thương của các vị
giáo chủ sáng lập.
Những tín đồ tôn giáo c̣n có thêm bao nỗi sợ hăi do chính giới lănh đạo tôn giáo
tham quyền uy đă tạo nên cho họ. Tôn giáo nào chỉ t́m cách tăng thêm quyền uy
cho giới lănh đạo, thần thánh hóa lănh tụ, dạy các tín đồ đồng hóa giới tăng lữ
với thần thánh, với Thượng Đế, đến nỗi ai chống giới tăng lữ đều bị hiểu là
chống Thượng Đế, chống thần thánh… tôn giáo ấy đang nô lệ hóa con người thay v́
giải phóng họ, đang biến các tín đồ thành thứ thần dân đầy sợ hăi của ḿnh.
Trong một chế độ độc tài như chế độ Cộng sản, thứ tôn giáo như thế đang góp phần
biến con người trở nên sợ hăi và hèn nhát trước bạo lực. Một tín đồ sẵn sàng
khom lưng sợ hăi trước giới lănh đạo tôn giáo ḿnh, sẵn sàng vâng phục họ cho dù
họ sai trái, th́ cũng sẵn sàng khom lưng sợ hăi trước những ông vua bạo ngược,
những tên quan tham lam của ḿnh. Tôn giáo có thể như một con dao hai lưỡi: có
thể giải phóng, đem lại tự do đích thực cho con người, mà cũng có thể nô lệ hóa
con người. V́ thế những chế độ độc tài có thể rất sợ tôn giáo, nhưng cũng có thể
coi tôn giáo như bạn đồng hành mà chúng có thể lợi dụng để làm gia tăng tâm lư
sợ hăi này nơi dân chúng.
***
Trong cuộc tranh đấu dành quyền làm chủ và những quyền căn bản của con người,
điều căn bản và quan trọng nhất là con người phải tranh đấu với chính nỗi sợ hăi
của ḿnh: sợ chết, sợ khổ, sợ tù tội, sợ nghèo, sợ đói, sợ bệnh, sợ khó, sợ
nghịch cảnh, sợ bị khinh chê coi thường… đủ thứ sợ! Có thắng được nỗi sợ hăi ấy
người dân mới có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực độc tài, vốn luôn luôn
lợi dụng tâm lư sợ hăi ấy để đặt ách thống trị hà khắc lên đầu lên cổ người dân.
Như vậy, phải thắng được chính ḿnh trước đă. Lăo Tử viết: «Tự thắng giả cường»
[thắng ḿnh là mạnh] ([18]). Không thắng được nỗi sợ hăi của ḿnh, th́ chẳng bao
giờ ḿnh được tự do, v́ thoát khỏi cảnh nô lệ này ta sẽ rơi vào cảnh nô lệ khác.
Muốn thoát khỏi sợ, th́ phải giảm bớt ham muốn: ham sống, ham giàu, ham đẹp, ham
vui, ham dễ, ham danh, ham lợi, ham quyền… Càng nhiều ham muốn, càng dày tham
vọng, th́ càng nảy sinh nhiều sợ hăi. Cho dù là ham muốn cho cá nhân hay ham
muốn cho tập thể! Ham cứu độ các linh hồn mà đành im hơi lặng tiếng, không dám
làm theo tiếng lương tâm, đành chấp nhận hy sinh bản chất tôn giáo của ḿnh, như
thế có khác ǵ kẻ không dám bơi lại muốn cứu người chết đuối?! Cứu ḿnh chẳng
được th́ cứu được ai? Thiên Chúa nào muốn con người hy sinh lương tâm của ḿnh
để cứu rỗi linh hồn người khác? Việc cứu các linh hồn tùy thuộc vào Thiên Chúa
và vào chính bản thân đương sự hơn là vào những nỗ lực của người ngoài cuộc, nên
bổn phận trước tiên của những ai muốn cứu các linh hồn là làm hăy theo đ̣i hỏi
của lương tâm ḿnh đă. Chúa nói: «Hăy t́m kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính
của Người trước đă, c̣n mọi sự khác Người sẽ ban cho sau» (Mt 6,33). Muối có mặn
th́ mới ướp thức ăn được, muối đă lạt th́ ướp được ǵ? (x. Mt 5,13) Đèn có sáng
th́ mới soi đường được, đèn bị tắt th́ soi cho ai? (x. Mt 5,14-16). Chính ḿnh
c̣n đang nô lệ cho sợ hăi th́ c̣n giải phóng hay cứu được ai?
Rất may là càng ngày dân ta càng giảm bớt sợ hăi. Đă có những tiếng nói mạnh mẽ
không chỉ nơi người dân, mà c̣n trong nội bộ đảng Cộng sản. Những cuộc tranh đấu
trong nước được đồng bào hải ngoại hỗ trợ đă phấn khích người dân trong nước bớt
sợ hăi, khiến cho càng ngày càng có nhiều người trong nước lên tiếng tranh đấu.
Những tiếng nói thẳng thắn và can trường trong nội bộ đảng đă làm cho đồng bào
trong và ngoài nước tràn trề hy vọng. Và bây giờ, chính quyền độc tài đang từ
những kẻ gây sợ hăi trở thành những kẻ sợ hăi. Chúng đang phải lùi từng bước
trước cuộc tranh đấu ngày càng mạnh của nhân dân trong và ngoài nước, của những
người trong và ngoài đảng. Họ đang phải lùi từng bước trước áp lực của các quốc
gia yêu chuộng tự do dân chủ muốn giúp dân Việt được tự do và phát triển. Cả hai
thế lực trên đều bị chúng gọi là «những thế lực thù địch»! V́ tự do và dân chủ
th́ đương nhiên phải là thù địch với độc tài toàn trị.
Vậy, trong viễn ảnh đầy lạc quan này, xin mọi người dân trong cũng như ngoài
nước hăy can đảm lên, hăy dám nói lên những ǵ lương tâm ḿnh đang đ̣i hỏi phải
nói, hăy dám làm những ǵ lương tâm ḿnh đang đ̣i hỏi phải làm! Đó chính là yêu
nước, yêu tôn giáo của ḿnh, và cũng là yêu Thượng Đế, yêu chân lư và công lư!
Sàig̣n, ngày 10-6-2005
Nguyễn Chính Kết
([1]) Những người Công giáo đă lên tiếng cho tự do tôn giáo của Giáo Hội: 1)
Giám mục Nguyễn Kim Điền, 2) Linh mục Nguyễn Văn Lư, 3) Linh mục Nguyễn Hữu
Giải, 4) Linh mục Phan Văn Lợi, 5) Linh mục Chân Tín, 6) Giáo sư Nguyễn Ngọc
Lan, 7) Ông Vũ Sinh Hiên, 8) Ông Nguyễn Chính Kết. 8 trên 6 triệu người, tức
khoảng 1,3 phần triệu.
([2]) Những người đă lên tiếng cho tự do tôn giáo (xếp theo thứ tự A,B,C): 1)
Giám mục Nguyễn Kim Điền, 2) Ḥa thượng Thích Quảng Độ, 3) Linh mục Nguyễn Hữu
Giải, 4) Ḥa thượng Thích Thiện Hạnh, 5) Giáo sĩ Trương Trí Hiền, 6) Ông Nguyễn
Chính Kết, 7) Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, 8) Ông Lê Quang Liêm, 9) Linh mục Phan
Văn Lợi, 10) Linh mục Nguyễn Văn Lư, 11) Thượng tọa Thích Thiện Minh, 12) Mục sư
Phạm Đ́nh Nhẫn, 13) Ḥa Thượng Thích Huyền Quang, 14) Mục sư Nguyễn Hồng Quang,
15) Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, 16) Thượng tọa Thích Không Tánh, 17) Linh mục Chân
Tín, v.v…
Ngoài ra c̣n có Thượng tọa Thích Chân Hỷ của PGVNTN, cụ bà Nguyễn Thị Thu của
Phật giáo Ḥa Hảo, và một vài người nữa, đă tự thiêu để phản đối chính sách đàn
áp tôn giáo của chính quyền Cộng sản.
([3]) 20 trên 50 triệu, tức 0,4 phần triệu.
([4]) Những người đă từng lên tiếng tranh đấu cho tự do dân chủ trong nước (xếp
theo thứ tự A,B,C): 1) Nguyễn Vũ B́nh, 2) Hoàng Minh Chính, 3) Tiêu Dao Bảo Cự,
4) Phạm Quế Dương, 5) Nguyễn Kim Điền, 6) Thích Quảng Độ, 7) Trần Độ, 8) Nguyễn
Thanh Giang, 9) Nguyễn Hữu Giải, 10) Thích Thiện Hạnh, 11) Đỗ Nam Hải, 12)
Trương Trí Hiền, 13) Nguyễn Hộ, 14) Dương Thu Hương, 15) Nguyễn Đ́nh Huy, 16)
Nguyễn Chính Kết, 17) Trần Khuê, 18) Nguyễn Ngọc Lan, 19) Lê Quang Liêm, 20)
Phan Văn Lợi, 21) Trần Văn Lương, 22) Nguyễn Văn Lư, 23) Thích Thiện Minh, 24)
Tuệ Minh, 25) Hà Sĩ Phu, 26) Vũ Cao Quận, 27) Thích Huyền Quang, 28) Lê Chí
Quang, 29) Nguyễn Hồng Quang, 30) Nguyễn Đan Quế, 31) Bùi Minh Quốc, 32) Phạm
Hồng Sơn, 33) Thích Tuệ Sỹ, 34) Bùi Ngọc Tấn, 35) Thích Không Tánh, 36) Hoàng
Tiến, 37) Trần Dũng Tiến, 38) Chân Tín, 39) Nguyễn Khắc Toàn, 40) Nguyễn Văn
Trấn, 41) Nguyễn Thị Thanh Xuân.
xem trang web:
http://ns3578.ovh.net/~lmvntd/rubrique.php3?id_rubrique=6
([5]) 50 người trên 80 triệu dân, tức khoảng 0,63 phần triệu.
([6]) Xin đừng hiểu rằng hễ là người vô thần th́ đều coi nhẹ vấn đề đạo đức. Tôi
biết nhiều người vô thần c̣n coi trọng đạo đức hơn cả những người b́nh thường có
tôn giáo. Nhưng phải nói rằng người có tôn giáo th́ tin vào sự sống đời sau và
vào sự thưởng phạt của tạo hóa hay của luật thiên nhiên ở đời sau. Điều này
khiến họ phải đặt nặng vấn đề đạo đức hơn. C̣n người vô thần không tin có đời
sau, họ cho rằng chết rồi là hết, nên nếu họ không có lương tâm, th́ họ không sợ
hậu quả ở đời sau cho những việc làm thiếu đạo đức của ḿnh ở đời này. Riêng
tôi, tôi rất phục những người vô thần mà thật sự có lương tâm. Tôi đánh giá rất
cao nền đạo đức của họ. Họ đạo đức v́ bản chất đạo đức của họ chứ không v́ sự
thưởng phạt ở đời sau.
([7]) Kolping: một hội đoàn công giáo tiến hành đặc biệt cho giáo dân, do linh
mục Adolph Kolping (1813-1865) sáng lập tại Köln (Đức), hiện đă có mặt trong
khoảng 70 nước trên thế giới. Đây là một đường hướng sống đạo đặt nặng vấn đề
dấn thân xă hội, sống yêu thương, thân thiện với nhau như gia đ́nh.
([8]) Giá vàng hiện nay: một cây vàng giá khoảng 8 triệu đồng VN, tương đương
với trên 500 USD.
([9]) Thượng tọa Thích Thiện Minh vừa được trả tự do dịp tết Ất Dậu 2005.
([10]) Xem thông cáo báo chí làm tại Paris ngày 26.3.2005
([11]) Giáo phái Tin Lành Mennonite Việt Nam là một trong số các Hội Thánh Tin
Lành Tư Gia thuộc Hiệp Hội Thông Công Tin Lành Việt Nam (Vietnamese Evangelical
Fellowship). Hiệp hội này gồm các giáo phái Tin Lành Tư Gia – chủ trương “về
nguồn” – tụ tập sinh hoạt thờ phượng Chúa tại tư gia như các tín hữu Kitô thời
sơ khai. Họ chủ trương không xây đền thờ vật chất cho bằng xây đền thờ Thiên
Chúa trong tâm hồn người tín hữu. Họ thường không được nhà nước Việt Nam chấp
nhận, nên mọi sinh hoạt tôn giáo của họ đều bị nhà nước coi là bất hợp pháp.
([12]) Các tôn giáo có hai khuynh hướng suy nghĩ khác nhau:
– một đằng đặt nặng việc tồn tại và phát triển hơn bản chất tôn giáo ḿnh: thà
mất đi một chút bản chất mà c̣n tồn tại th́ vẫn hơn. Trong thực tế, Giáo Hội
Công giáo và Tin Lành Việt Nam có vẻ như theo khuynh hướng này.
– một đằng đặt nặng bản chất tôn giáo hơn sự tồn tại và phát triển: thà chấp
nhận khó khăn, không sinh hoạt được c̣n hơn mất bản chất Kitô hữu của ḿnh. Đức
Giêsu nói: «Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, th́ lấy ǵ muối
nó cho mặn lại? Nó đă thành vô dụng, th́ chỉ c̣n việc quăng ra ngoài cho người
ta chà đạp thôi» (Mt 5,13). Đây là chủ trương của nhiều Hội Thánh Tin Lành Tư
Gia.
([13]) Kitô giáo nói ở đây là Công Giáo và Tin Lành Việt Nam (không kể các Hội
Thánh Tin Lành Tư Gia).
([14]) Nội dung Pháp Lệnh Về Tín Ngưỡng, Tôn Giáo số 21/2004/PLUBTVQH11 do Uỷ
Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2004 cho thấy rơ điều này.
([15]) Trong thực tế tại Việt Nam, chữ «tự do» trong các văn bản luật pháp,
chẳng hạn trong Pháp Lệnh Tín Ngưỡng và Tôn Giáo vừa ban hành (18-6-2004), có
nghĩa là người dân được tự do làm tất cả mọi điều luật pháp không cấm, với điều
kiện là phải xin phép; chính quyền có cho th́ mới được làm. Không xin phép mà
vẫn cứ làm là vi phạm luật pháp. Hiện nay, nghĩa này chỉ c̣n được áp dụng chặt
chẽ trong phạm vi tôn giáo, c̣n trong phạm vi khác th́ lỏng lẻo hơn rất nhiều.
Riêng các quan chức cộng sản th́ trong thực tế, càng cao cấp, càng có thể làm
được cả những việc luật pháp cấm làm mà không sao cả: như cướp đất của dân, hối
lộ tham nhũng hàng tỷ đô la, thâm lạm công quỹ, phí phạm của công, v.v... Dân có
ra tận Hà Nội biểu t́nh, khiếu kiện trước Quốc Hội th́ các quan vẫn cứ phây
phây, không sao cả! V́ thế, đối với các quan cộng sản th́ chẳng một đất nước nào
trên thế giới tự do bằng Việt Nam! Quả thật, các quan ở đây bảo Việt Nam tự do
gấp triệu lần Mỹ là họ rất thành thật đấy! Không sai sự thật chút nào cả! V́ các
quan cộng sản được làm cả những việc luật pháp cấm! Các quan ở Mỹ làm ǵ được
như vậy? Bill Clinton kia làm tới chức tổng thống Mỹ, thế mà mới «động» tới
Monica Lewinsky một chút là đă bị đem ra ṭa xử rồi! Các quan Việt Nam tự do hơn
các quan Mỹ hàng triệu lần là đúng đấy! Chỉ
riêng có người dân là... thiếu tự do thôi!!!
([16]) Chẳng hạn hai cuốn Tôn giáo dưới ách Cộng sản và Tù ngục với Chúa của mục
sư Richard Wurmbrand (giáo phái Lutêrô ở Rumani), dịch giả Thanh Sơn, xuất bản
tại Sàig̣n năm 1970 và 1973. Tác giả kể nhiều câu chuyện cho thấy có cả những
đạo trưởng cao cấp như Thượng Phụ (Chính Thống), Mục sư Tổng Quản (Tin Lành),
Tổng Giám Mục (Công giáo)… sẵn sàng làm “ăng-ten”, chỉ điểm, cộng tác với chế độ
Cộng sản để bách hại những người dám tranh đấu cho Giáo Hội hoặc cho quê hương
đất nước. Nếu ở những nước ấy có những loại mục tử như thế, th́ tại Việt Nam
chắc hẳn cũng khó tránh khỏi. Nhưng rồi tất cả những hành động tệ hại ấy cũng sẽ
được đưa ra ánh sáng: «Không có ǵ che giấu mà sẽ không được tỏ lộ» [Quidquid
latet apparebit] (Mt 10,26).
([17]) Điều răn thứ sáu trong Thập Giới của Kitô giáo là: «Chớ làm sự dâm dục».
([18]) Lăo Tử, Đạo Đức Kinh, chương 33, a.