Việc Xử
Dụng Hóa Chất Bảo Vệ Thực Vật ở Việt Nam
The Use of Pesticides & Herbicides in Việt Nam
Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh trong sản xuất nông ngư nghiệp. Do đó,
việc xử dụng các loại hóa chất Bảo vệ thực vật (BVTV) ngày càng trở nên phức
tạp. Có rất nhiều hệ lụy tiêu cực trong việc làm nầy, trong đó nguy cơ ảnh hưởng
lên sức khoẻ của người tiêu dùng là nguy cơ hàng đầu v́ dư lượng của các hoá
chất trên tồn tại trong thực phẩm. Tc KH&MT hôm nay xin được thảo luận với TS
MTT, Chủ tịch BCH Hội KH&KT Việt Nam về vấn đề vừa nêu trên.
Hỏi 1: Trước hết, xin TS cho thính giả của Đài ACTD biết khái lược về t́nh h́nh
xử dụng các hoá chất BVTV trong nước hiện nay?
Đáp 1: Kính chào Quư thính giả của Đài ACTD. Thưa anh. Việt Nam hiện tại có
khỏang 12 triệu mẫu tây (hecta) đất canh tác cho nông ngư nghiệp. Theo tiến sĩ
Ngô Kiều Oanh thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên, th́ với diện tích trồng trọt
trong nước hiện tại, chỉ cần độ 50.000 tấn là quá dư thừa rồi. Trên thực tế,
trong năm 2003, Việt Nam đă nhập cảng 1,5 triệu tấn các loại hóa chất BVTV nầy,
không kể một số lượng không nhỏ được nhập lậu qua đường biên giới TQ và Thái
Lan. Từ đó suy ra mức độ ô nhiễm các hóa chất độc hại lên thực phẩm tiêu dùng ở
Việt Nam để thấy kết quả đương nhiên mà người tiêu thụ trong nước phải hứng
chịu: từ cọng rau muống cho đến quả cà, ngó sen. v.v.. . thậm chí cho đến gia
cầm, tôm cá,….. .đều có dấu vết của các hóa chất độc hại nầy. Do đó, việc ảnh
hưởng lên sức khoẻ của người dân qua những thông tin ngộ độc thực phẩm trên báo
chí hàng ngày là việc xảy ra thường xuyên .Và đây cũng là mối quan tâm hàng đầu
của người dân sống trong nước hiện tại. Sinh hoạt dân chúng hàng ngày cũng bị
ảnh hưởng không nhỏ v́ t́ng trạng ngộ độc nầy.
Hỏi 2: Những tin tức ngộ dộc thực phẩm đó như thế nào, và mức ngộ độc được giải
thích ra làm sao, thưa TS?
Đáp 2: Trong quá khứ, chúng tôi cố gắng theo dơi những tin tức ngộ độc trên qua
báo chí trong nước. Năm 2003, chúng tôi đă trích dẫn và phổ biến lên mạng lưới
ṭan cầu trên 400 trường hợp ngộ độc thực phẩm ở Việt Nam. Nói như thế, có nghĩa
là t́nh trạng ngộ độc ngày càng phổ quát và vẫn tiếp tục kéo dài cho đến hiện
tại. Cũng qua tin tức báo chí, ngộ độc diễn ra dưới hai h́nh thức: ngộ độc cá
nhân hay gia đ́nh, và ngộ độc trong những quán ăn tập thể ở các xí nghiệp. Đa số
ngộ độc là do thức ăn không đáp ứng tiêu chuẩn an ṭan vệ sinh thực phẩm, nguồn
nưóc xử dụng bị nhiễm trùng, rau, đậu, hoa, quả c̣n chứa quá nhiều dư lượng của
hoá chất BVTV v.v...
Hỏi 3: Ông có thể cho biết thêm chi tiết về các số liệu thống kê nạn nhân bị ngộ
độc trong những năm gần đây hay không?
Đáp 3: Báo Thanh Niên ngày 5/8/2005 có đăng tải thống kê của ngành y tế, từ năm
1999 đến hết năm 2004, cả nước đă xảy ra 1.386 vụ ngộ độc thực phẩm tập thể với
30.706 người bị ngộ độc, trong đó có 342 tử vong. Phân tích nguyên nhân cho thấy
nguyên nhân do vi sinh vật chiếm tỷ lệ khá cao (33 – 36%) do thức ăn chế biến
xong để quá lâu bị nhiễm khuẩn. Nguyên nhân thực phẩm bị nhiễm độc hóa chất
chiếm 11 – 25% và đang là vấn đề được người tiêu dùng quan tâm, lo lắng như tồn
dư thuốc BVTV trong rau quả, tồn dư kháng sinh trong thịt gia súc, gia cầm quá
giới hạn cho phép, hay xử dụng tràn lan những hóa chất không cho phép trong quá
tŕnh sản xuất thực phẩm. Cũng theo thống kê, cả nước từ năm 1997 đến 2004, cả
nước có 6.476.448 trường hợp mắc các bịnh nhiễm trùng qua thực phẩm, trong đó có
194 tử vong. Riêng tại Tp HCM, trong 6 tháng đầu năm 2005, có gần 1.800 người bị
ngộ độc thực phẩm, trong đó có 39 người chết.
Hỏi 4: Như Ông vừa tŕnh bày trên, có đến 25% nhiễm độc do dư lượng của các loại
hoá chất BVTV, ông có thể cho biết thêm hoá chất BVTV là ǵ và cơ cấu của chúng
như thế nào, có thể ảnh hưởng lên sức khoẻ con người ra sao?
Đáp 4: Thưa anh, Hoá chất BVTV là tên gọi chung cho tất cả các thuốc trừ sâu
rầy, thuốc sát trùng, thuốc diệt cỏ dại, trừ nấm mốc v.v... Đa số các hoá chất
nầy là do một hay nhiều nguyên tố benzen kết hợp với nguyên tố chlor nói chung.
Các hợp chất nầy có tính độc hại lên con người tương tự như dioxin, do đó c̣n có
tên gọi là dioxin-tương đương. Bệnh ung thư là một trong những ảnh hưởng của các
hoá chất trên gây ra cho con người. Thêm nữa, một số hóa chất BVTV c̣n chứa thêm
nguyên tố arsenic, và thủy ngân nữa. Do đó, mức tác hại cho đến nay vẫn chưa
được các khoa học gia kết luận một cách chính xác.
Hỏi 5: Như vậy, việc thẩm định mức độc hại của các hoá chất BVTV vẫn chưa được
nghiên cưú thấu đáo, TS có thông tin nào về việc thẩm định nầy không?
Đáp 5: Dạ có thưa anh. Trước hết đối với những nhà sản xuất hoá chất, họ đă cung
cấp nhiều công tŕnh nghiên cứu về thẩm định mức tác hại ảnh hưởng lên sức khoẻ
con người. Nhưng hầu hết các nghiên cứu nầy chưa đủ thời gian tính, cũng như số
lượng thú vật dùng để thử nghiệm. Do đó kết quả cũng không được chính xác và kết
luận vẫn c̣n nhiều tranh căi giữa các khoa học gia, đặc biệt là những chứng bệnh
ảnh hưởng trực tiếp lên con người sau một thời gian bị tiếp nhiễm qua đường hô
hấp, hay trực tiếp tiếp xúc ngoài da, hay qua đường thực quản.
Hỏi 6: Quả thật việc ảnh hưởng tác hại của một hoá chất lên con người rất phức
tạp, TS có thể cho thính giả của Đài ACTD biết phương pháp nào dùng để thẩm định
mức độc hại của một hoá chất?
Đáp 6: Muốn thẩm định ảnh hưởng tác hại của một hóa chất lên sức khỏe của con
người, trước tiên cần phải làm nhiều thử nghiệm lên thú vật, rồi từ đó tính ra
liều lượng hóa chất có thể tác hại lên con người nghĩa là gấp 10 lần nồng độ cần
thiết có thể gây tử vong cho thú vật.
Định mức nầy gọi là nồng độ ô nhiễm tối đa (maximum contaminant level-MCL). EPA
cũng vừa công bố mức thẩm định sơ khởi của 31 loại thuốc sát trùng thuộc gốc
organo-phosphate. Sự nghiên cứu dựa trên một cơ chế tác hại chung đă được khảo
sát cả trên con người lẫn thú vật; đó là tính chất ức chế của diếu tố (enzyme)
acetyl cholinesterase. Đây là một đặc tính chung của các loại hóa chất sát trùng
có gốc organo-phosphate. Từ đó, EPA đă đo mức độ độc hại của từng hóa chất bằng
cách so sánh mức độ ức chế diếu tố nầy trên methamidophos, một loại thuốc sát
trùng đă được Việt Nam dùng rất nhiều và đă được khảo sát tường tận về nồng độ
độc hại, và từ đó suy ra mức độc hại của từng lọai thuốc sát trùng. Cũng từ
những định mức nầy EPA đưa ra được tiêu chuẩn mới trong việc phân tích thực
phẩm, nước sinh hoạt, và ảnh hưởng của các cư dân sống trong vùng tiếp cận với
thuốc sát trùng.
Từ những suy nghĩ trên, phương pháp thẩm định phải dựa theo nguyên tắc sử dụng
một lượng thuốc sát trùng cần thiết để làm giảm 10% tác dụng của diếu tố acetyl
Cholinestase trên súc vật.. Định mức trên đây được gọi là “nồng độ thí nghiệm
10” (benchmark dose 10 – BMD-10). Phương pháp nầy đă thay thế phương pháp định
mức độc hại cũ là dựa trên cách tính định mức độc hại suy diễn từ nồng độ của
hóa chất không gây ảnh hưởng lên tính ức chế, do đó không được chính xác.
Hỏi 7: Từ nồng độ thí nghiệm 10 trên đây, làm thế nào để định mức an ṭan lên cơ
thể con người thưa TS?
Đáp 7: Từ định mức BMD-10 của từng hóa chất, EPA xác định được mức độ an toàn
lên cơ thể con người bằng cách giảm nồng độ BMD10 xuống 100 lần. Tuy nhiên Quốc
hội Hoa kỳ, căn cứ theo luật Bảo vệ Thực Phẩm đă quyết định mức an toàn phải là
10 lần thấp hơn định mức của EPA nữa hay tương đương với 0,001 BMD10 mà thôi.
Từ những kết quả nghiên cứu trên, các kết luận ban đầu được trích ra như sau:
· Các thuốc sát trùng thuộc gốc organo-phosphate hiện diện trong thực phẩm là
nguồn nhiễm độc nguy hiểm cho con người, đặc biệt là trẻ em từ 1 đến 5 tuổi. Và
tùy theo mức độ bị nhiễm độc của trẻ em , Luật Bảo vệ Phẩm chất Thực phẩm sẽ cho
phép FDA thu hồi giấây phép sản xuất của hóa chất có độ ô nhiễm quá định mức.
Tuy nhiên, EPA vẫn chưa xác định các định mức của từng hóa chất riêng rẽ
· Định mức an toàn của EPA cho nước uống là từ 10 đến 100 lần mức độ an toàn áp
dụng cho thực phẩm.
Hỏi 8: Từ các việc thẩm định trên ở Hoa Kỳ, ông có thể rút ra một số kinh nghiệm
nào cho Việt Nam hay không?
Đáp 8: Các dữ kiện trên đây cho thấy rằng việc thẩm định mức độc hại/an toàn của
các loại thuốc sát trùng rất cần thiết và cũng vô cùng phức tạp. Nó đ̣i hỏi sự
hợp tác của các nhà sản xuất, cơ quan bảo vệ môi trường, và các cơ quan y tế.
Hơn thế nữa, các quốc gia trên thế giới cần phải phối hợp chặt chẽ để việc thẩm
định mau đi đến kết quả hầu giảm thiểu mức tác hại lên con người.
Trong t́nh thế hiện tại, chúng ta chỉ mới có một ít dữ kiện về các định mức an
toàn của các loại hóa chất nầy cùng các ảnh hưởng của chúng lên sức khỏe của con
người. Những ảnh hưởng chính là: - 1) Rối loạn nội tiết có thể làm mất khả năng
hoạt động trong việc trao đổi hormone trong cơ thể do đó có thể tạo ra những
hiện trạng dị h́nh dị dạng; -2) Ảnh hưởng lên mức sinh trưởng và sinh sản của
con người.
Do đó, đối với trường hợp Việt Nam, đă đến lúc Việt Nam cần phải can đảm chấp
nhận một thực tế là hiện tượng ô nhiễm hóa chất độc hại từ Bắc chí Nam là kết
quả của việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật bừa băi, thiếu chính sách, và không
kế hoạch. Và hơn nữa người nông dân Việt Nam chưa được chuẩn bị cũng như chưa
được chỉ dẫn tường tận cách dùng các loại thuốc trên.
Có can đảm chấp nhận thực tế trên, can đảm nhận lănh trách nhiệm để sửa chữa th́
hăy c̣n có cơ may cứu văn Đất và Nước được.
T́nh trạng nhiễm độc do các hoá chất BVTV và sức khỏe của người dân bị ảnh hưởng
đă đến mức báo động đỏ; do đó cần phải được chấm dứt càng sớm càng tốt.
Kính chào thính giả của Đài ACTD