| ||||||
|
BẤT CÔNG BẤT CỨ NƠI ĐÂU
Lư Tống
Kính thưa Quư thẩm quyền, Tôi là Lư Tống, một nhà tranh đấu cho tự do tầm vóc thế giới, vừa bị Ṭa án Rayong của Thái Lan kết tội Không Tặc trong vụ án số 397/2544 với bản án 7 năm 4 tháng, trong phiên ṭa ra phán quyết ngày 25-12-2003 . Tôi đă chống án ngày 21-01-2004 . I . Tại Sao Tôi Không Chống Án Vào Ngày Ra Phán Quyết 25-12-2003 ? 1 . Tôi đă quyết định không chống án, chỉ yêu cầu được di lư về Hoa Kỳ v́ Bà Giám đốc Elizabeth A. Kirincich và quyền giám đốc Ian Browlee của Pḥng Phụ Trách Công Dân và Quản Lư Khủng Hoảng ( OACS&CM ) thường nhấn mạnh “Ṭa Đại sứ Hoa Kỳ luôn theo dơi vụ án kể từ ngày tôi bị bắt vào tháng 11/2000 .” Tôi tin tưởng rằng các Lănh sự Mỹ luôn luôn theo sát các luận điểm tự biện tại Ṭa của tôi một cách cẩn trọng, kể cả Biện Minh Trạng tôi đă tự tay tŕnh họ, cùng các lời khai nhân chứng công tố . Như vậy , họ phải biết rằng tội danh không tặc hoàn toàn sai và bịa đặt và đă báo cáo sự thật lên các cấp thẩm quyền . Các thẩm quyền với trách nhiệm đă được phó thác theo luật định, sẽ quyết định, trong quyền hạn ḿnh, phóng thích tôi ngay sau khi được di lư về Hoa Kỳ và sẽ hổ trợ tôi trong vụ kiện sắp tới chống Thái Lan tại Ṭa Án Đặc Biệt Hoa Kỳ hay Ṭa Án Tội Phạm Quốc Tế để bảo vệ Công Lư và Sự Thật . 2 . Khi kư Biên bản bằng tiếng Thái trong lúc đang bận rộn nói chuyện với Lănh sự Jeffrey và trả lời phỏng vấn của các cơ quan truyền thông, tôi nghĩ nhầm là kư giấy không chống án, giấy hẹn kỳ Ṭa kế ( bởi tất cả tù Thái đều ra Ṭa một lần nữa sau phiên Ṭa ra phán quyết ), hoặc một thủ tục nào đó của phiên Ṭa phán quyết . Bởi tôi chỉ kư Biên bản Ṭa sau khi đă được dịch sang Anh ngữ và được sửa chữa theo yêu cầu ḿnh . Chỉ đến khi tôi bị cảnh sát đưa thẳng về nhà tù, thay v́ đến pḥng làm việc dành riêng tại Ṭa, tôi mới nhận thức được rằng ḿnh đă bị lừa, bị gài bẫy kư vào Phán quyết .( Bằng chứng là Báo cáo cảnh sát với tội danh bịa đặt tôi cũng đă không kư ). 3 . Ngày hôm sau, khi đọc báo, tôi sững sờ kinh ngạc khi đọc các ḍng sau : “Bản án đă được giảm ( từ 11 năm ) xuống 7 năm 4 tháng v́ bị cáo nhận tội” ( “Không Tặc Lănh Án 7 năm 4 tháng” của phóng viên Achara Ashayagachat, Bangkok Post, 26/12/2003 ), và “Lư Tống phải kháng án trong thời hạn 30 ngày, nếu không vụ án sẽ kết thúc, khởi đầu thủ tục dẫn độ về Việt Nam theo lời Luật sư Somsak” ( “Phi Công Cường Kích Thả Truyền Đơn Lănh Án 7 Năm Tù” của phóng viên Supalak Ganjanakhundee, The nation, 26/12/2003 ). 4 . Tôi tức tốc viết thư gởi Chánh Án Trưởng Ṭa án Rayong ngày 26/12/2003 đưa 6 đề nghị : a - Phải gạch bỏ từ “Tôi nhận tội” khỏi Phán quyết v́ Không Tặc là một tội danh hoàn toàn bịa đặt tôi đă chống đối . b - Ghi thêm các câu sau vào cạnh chữ kư của tôi : Tôi không chấp nhận tội danh Không Tặc và chỉ chấp nhận tội danh Vi Phạm Luật Di Trú và Hàng Không như một Bất Tuân Dân Sự, không phải là tội h́nh sự . c - Gởi cho tôi một phó bản Phán Quyết tiếng Thái và một bản dịch tiếng Anh để tôi nắm vững nội dung Phán Quyết . d - Giải thích rơ lời tuyên bố của Luật sư Somsak : “Vụ án kết thúc khởi đầu thủ tục dẫn độ về Việt Nam”, và từ ngữ “ Tôi nhận tội” trong Phán Quyết . e - Trả lại hai cuốn băng vật chứng hay phó bản được quay trên không phận Sài g̣n như lời cựu Thẩm phán Batac Chay đă hứa . f - Nếu những yêu sách nầy được Ông thỏa măn sớm, Tôi sẽ không kháng án, chỉ yêu cầu di lư về Hoa Kỳ . Nếu Ông không chấp nhận, Tôi sẽ chống án trong hạn định 30 ngày . II . Tại Sao Tôi Chống Án Vào Ngày 21/01/2004 ? 1 . Chánh án Trưởng Ṭa Rayong không phúc đáp thư tôi . 2 . Ngày 20/01/2004, Bà Susan, phụ tá Lănh sự Jeffrey đến thăm tôi tại nhà tù với đơn xin di lư và bức thư của Lănh sự Jeffrey với nội dung : a - “Mặc dù thuật ngữ Ṭa dùng rất khó dịch sang Anh ngữ, nhưng từ tiếng Thái nầy không có nghĩa “Thú tội” .Phán quyết thật ra có ư bảo “sự chấp nhận của bị cáo hữu ích cho việc nghị án”. ( Cái gọi là sự chấp nhận trước đây đă bị buộc tội khinh mạn ṭa án !) Tôi là người Mỹ gốc Việt, tôi không nắm vững nghĩa từ Anh ngữ v́ Anh ngữ là ngôn ngữ thứ hai . Do đó, tôi đă tra tự điển Cambridge Dictionary of American English, có lời giải thích : “sự chấp nhận là một tuyên bố chấp nhận sự thật của một việc ǵ đó,” với thí dụ : “không có bất cứ ai chấp nhận tội cả”. Qua câu thí dụ nầy, từ chấp nhận có nghĩa như sự nhận tội ! b - “Không có Hiệp định Dẫn độ giữa Việt Nam và Thái Lan . Tuy nhiên Thái Lan có thể dẫn độ bất cứ người nào đi Việt Nam nếu họ muốn, nhưng đó không phải là điều bắt buộc . c – Không thể bảo đảm rằng chính phủ Thái chấp thuận việc di lư của Anh . Việc di lư tù nhân theo Hiệp định là một quá tŕnh phức tạp và tốn kém … có thể kéo dài hàng tháng hoặc hàng năm”. d - Một trong những điều kiện của việc di lư là Anh phải đồng ư không khởi tố Thái Lan về các tội danh đă được phán định tại Hoa Kỳ … Nếu Anh không chấp thuận, việc di lư sẽ không được chấp thuận và Anh phải thi hành phần c̣n lại của Bản án tại Thái Lan”. e – Bà Susan có nói thêm : “Anh có thể được tạm tha có theo dơi tại Hoa Kỳ . Nhưng đây là một vấn đề tế nhị, mật, bởi chính phủ Thái Lan không thích điều đó”. 3 . Thư Lănh sự Jeffrey hoàn toàn trái ngược với những điều tôi trông đợi - đặc biệt điều kiện cấm khởi kiện Thái Lan, một điều không thấy ghi trong Bản Hiệp định tôi hiện có – trên hai điểm chính : a – Tôi phải chấp nhận tội Không Tặc hư cấu, bịa đặt mà không có cơ hội bảo vệ công lư ! b – Chính phủ Hoa Kỳ nói chung và Bộ Ngoại giao nói riêng đă “đem con bỏ chợ”, giao phó số phận của một công dân Hoa Kỳ vô tội bị đày đọa, giam cầm vào tay của những tên cai ngục và thẩm phán tép riu, chẳng hề quan hoài với một tinh thần vô trách nhiệm ! Điều nầy rất phù hợp với những bức thư viết theo mẫu Bộ Ngoại giao thường trả lời chung chung cho bất cứ thắc mắc nào bằng cách đổi ngày và tên người nhận : “Trong khi ở ngoại quốc, công dân Mỹ phải lệ thuộc vào luật lệ nước chủ nhà ( dù là luật rừng của các chế độ độc tài bạo ngược !? ) thường khi rất khác luật lệ Hoa Kỳ, và cũng không được bảo vệ luật pháp Hoa Kỳ”. Điều nầy nhắc tôi nhớ đến câu nói trước đây của Lănh sự Jeffrey : “ Tôi tin hay không tin Anh vô tội, việc đó chẳng thay đổi được ǵ !” Bức thư Lănh sự c̣n viết : “Tôi hy vọng rằng yêu cầu được chuyển về nhà tù tại Bangkok của Anh sẽ được chấp thuận . Như vậy Anh sẽ được mở kọng chân sớm”. Đúng là Tôi đă không học đúng bài học “Hữu Nghị và Liên Minh” trong chiến tranh Việt Nam . Lănh đạo Hoa Kỳ không chỉ bỏ rơi đồng minh VNCH mà c̣n bỏ rơi cả chiến binh Mỹ . Khi trở về nước, thay v́ được trân trọng tiếp đón như những chiến binh anh hùng, họ đă nhận lấy sự ô nhục, mất phẩm giá, bị coi thường, khinh bỉ ! Vậy tôi chỉ c̣n tin tưởng vào cái Nghiệp của ḿnh . Tôi chẳng c̣n lựa chọn nào khác ngoài việc đấu tranh tới cùng để bảo vệ công lư, chống lại Ṭa án h́nh Rayong thoái hóa, biến chất tại chính Ṭa kháng án và Ṭa án Tối cao của Thái Lan . Sự hiện diện tại Ṭa án Thái của các ông Phỗng Lănh sự, tai không nghe, mắt không thấy, và đầu óc không phân biệt được đúng – sai, sự thật – gian dối, tội phạm - vị cứu tinh, hay những ông bù nh́n Lănh sự, dù thấy bất công nhưng không có thẩm quyền để bảo vệ công lư, hoặc có thẩm quyền nhưng quan niệm chính trị là một tṛ chơi lắc léo, bẩn thỉu, chỉ phục vụ bản thân ḿnh . Thay v́ dùng những nhà tranh đấu nhân quyền điều hành Văn pḥng OACS & CM và các cơ quan lănh sự, Hoa kỳ lại sử dụng các thư lại người máy chỉ để hoang phí ngân khoản đóng thuế của nhân dân Hoa Kỳ . Sự hiện diện của các Lănh sự tại Ṭa Thái và Nhà Tù Thái chỉ càng làm nổi bật sự khinh mạn của các viên chức tép riu Thái trước sự bất lực của họ và sự bất lực của Hoa Kỳ một cách đáng hỗ thẹn, chẳng giúp ích ǵ, chỉ thêm hại, v́ vô t́nh họ tự biến ḿnh thành công cụ để hợp thức hóa, hợp thức hóa các phán quyết bất công, các sự cư xử tàn tệ, độc ác . Điều khôi hài là Tổng Thống và Ngoại Trưởng Mỹ đă rất tận tụy đấu tranh cho một nhà nghiên cứu khoa học, một thường trú nhân tại Hoa Kỳ, để cuối cùng hóa ra bà là gián điệp của Trung cộng ! Tôi là một công dân Mỹ và là một chiến sĩ đấu tranh cho Tự do có tầm vóc thế giới, vậy mà tất cả các thư khiếu nại của tôi chỉ được giải quyết ở cấp pḥng OACS & CM . Những bức thư trả lời theo mẫu chỉ đổi ngày và tên người nhận, chứng minh rằng người giải quyết các khiếu nại của tôi chỉ là một viên thư kư của pḥng với chữ kư của Bà Giám đốc ! Ngay cả mấy tên khủng bố thứ thiệt người Anh bị nhốt tại căn cứ Wantanamo c̣n được Thủ Tướng nước họ quan tâm, nêu vấn đề trực tiếp với Tổng Thống Hoa Kỳ, và kết quả họ đă được chấp thuận trả về Anh quốc . Tôi bị buộc những thứ tội hư cấu, bịa đặt bởi bọn tép riu Tư pháp Thái Lan cũng chỉ v́ sự vô t́nh, vô trách nhiệm của các Lănh đạo Hoa Kỳ . Thật nhục nhă cho một siêu cường quốc số 1 Thế giới với những chiêu bài giả dối và trống rỗng ! III . Bằng Chứng Xác Minh Ṭa Án Rayong Là Một Ṭa Án Thối Nát Qua hơn 3 năm trong tù Thái Lan, tôi đă chứng kiến bao nhiêu vụ án Ṭa Rayong đă kết tội người vô tội với bản án nặng, giảm án những tên tội phạm nặng và tha bổng chúng nếu chúng sẵn sàng trả đúng giá , ( Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời tố cáo nầy bởi tôi có thừa bằng chứng ). Và nhà tù địa phương có thẩm quyền hơn cả Tổng cục Trại giam . Nhà tù nầy có quyền cùm tù trong khi nhà tù khác không cùm . Tôi dùng trường hợp ḿnh để chứng minh : Nhà tù : Ở nhà tù Rayong tôi bị kọng, nhưng khi chuyển đến nhà tù Klong Prenn, Chon Buri, và Prachuap tôi lại được mở cùm . Trở về Rayong, tôi bị cùm lại .Lá thư Lănh sự Jeffrey cũng đă chứng minh điều nầy . Nhà tù Rayong c̣n từ chối không cho Luật sư gặp tôi, dù ông ta có văn pḥng luật sư tại Bangkok, chỉ v́ ông ta là người Mỹ, chỉ phụ tá người Thái của Ông được phép gặp. Đúng là : “Phép Vua thua Lệ làng” . Đó là lư do tại sao tôi đă khước từ Luật sư Matthew bênh vực cho tôi trước Ṭa án Thái Lan ( Luật sư Hoàng Duy Hùng và Đại tá Vơ Văn Ân đă từng chứng kiến cảnh L/s Matthew đứng lêu bêu ngoài cổng nhà tù Rayong chờ phụ tá người Thái làm việc với Tôi !) A . Vấn Đề Huấn Luyện Viên ( HLV ) Phi Công Teera Không Đọc Bức Thư Phán quyết ghi : “ Bị cáo đưa cho HLV Teera 2 hay 3 tài liệu … Teera quá sợ hăi nên bị cáo lại đưa thêm tài liệu số 4 và tài liệu số 6 ( tức là bức thư ) …Teera đọc tài liệu … Bị cáo đă khai cung tự mâu thuẫn ḿnh . Bị cáo khai đă đưa tài liệu 4 và 6 ( tức bức thư ) cho Teera và yêu cầu Teera đọc”. 1 . Tôi chẳng đưa cho Teera 2 hay 3 tài liệu . ( Cái điếm, đểu của Phán quyết là cứ dùng chung chung chữ tài liệu, không nói rơ cái nào là bức thư ). Tôi chỉ đưa Teera một phong b́ lớn . Điều nầy được chứng minh qua ghi chú trên b́ thư . Trong b́ thư nầy gồm có : a - Mười ngàn Mỹ kim tiền mặt . b - Truyền đơn bằng Anh ngữ . c - Truyền đơn bằng Việt ngữ . d - Bức thư giải thích về phi vụ . 2 . Tôi chẳng hề tự mâu thuẫn trong lời khai . Chính văn bản Ṭa mâu thuẫn lời khai của tôi . Điều nầy đă được Thông dịch viên ( TDV ) Pimuk xác nhận trong ghi chú “Ghi chú của TDV, tại điểm nầy, Ṭa đă nhầm lẫn về lời khai Bị cáo : “ Bị cáo khai Teera chỉ đọc lời ghi chú viết ngoài b́ thư thôi” ( Không đọc bức thư ) . B . Vấn Đề Nhân Chứng Thông Dịch Phán quyết ghi : “ Bị cáo không đưa các Thông dịch viên nhân chứng Ṭa để khai chứng : Cô Marisa, ông Banyad, cô Sopis và ông Chan, những người đă khai là “Nhảy ra khỏi phi cơ. Và ông Banyad lại dịch trước Ṭa : “Tôi đă đâm máy bay xuống đất ( crash )” 1 . Ông Banyad, cô Sopis và ông Chan đều là TDV chính thức của Tôi tại Ṭa Rayong . Khi Công tố viên ( CTV ) Surasak hỏi, họ đều dịch câu nầy là “nhảy khỏi máy bay” theo phát âm Thái “Kà đột”. Vậy Tôi cần phải đem họ đến Ṭa án nào nữa để làm nhân chứng ? Chỉ cô Marisa là không hiện diện tại Ṭa Rayong, nhưng Tôi đă nộp Ṭa bản dịch chính thức có đóng dấu triệu và chữ kư hành nghề của cô và cựu Thẩm phán Butac Chay đă chấp nhận đưa vào hồ sơ . Các TDV và Tôi đều phải qua thủ tục Tuyên Thệ trước mỗi phiên Ṭa . 2 . Ngoài dịch miệng trước Ṭa Rayong, Tôi c̣n nộp Ṭa văn bản dịch chính thức của ông Banyad, xác nhận nghĩa : “Tôi nhảy khỏi máy bay xuống đất,” không hề dịch “Đâm máy bay xuống đất” . (Đính kèm là văn bản dịch chính thức của TDV Banyad và Marisa ) C . Tội Danh Không Tặc Phán quyết ghi : “Tội danh Không tặc cũng tương tự hành động buộc người khác làm hoặc không làm một việc ǵ bất hợp pháp …” Để cáo buộc Tội danh Không tặc, phải có 2 yếu tố chính theo Công ước Tokyo 1963, Công ước Hague 1970, và Công ước Montréal 1971 về tội Không tặc “Cướp quyền điều khiển phi cơ và Sự đe dọa có thật”. Trong vụ án nầy : 1 . Không hề có việc cướp quyền điều khiển phi cơ v́ tôi đă phụ trách điều khiển phi cơ từ đầu như lời xác nhận của Teera : “Bị cáo cất cánh dưới sự giám sát của tôi, bay đi phi trường Utapao ở hướng Đông”. Ngoài ra, trong một phi vụ huấn luyện, theo nguyên tắc, chính phi công học viên là người lái phi cơ ( tức là Tôi ) . Tôi mướn phi cơ và trả tiền trước . Như vậy tôi là “chủ nhân tạm thời” của phi cơ . 2 . Không có Sự đe dọa thật sự : a - Báo cáo Cảnh sát làm ngày 18-11-2000 không hề nhắc đến bức thư và đe dọa crash máy bay v́ HLV Teera đă không đọc bức thư, đă không đề cập đến trong các cuộc điều tra sau khi đáp . b - Bản Cáo Trạng Ṭa không căn cứ trên Báo Cáo cảnh sát, lại căn cứ trên lời bịa đặt quá trễ của Bà Pasarawadee, từ một lỗi đánh máy nhỏ trong bức thư để hư cấu đe dọa crash . D . Bằng Cớ Chứng Minh Một Âm Mưu Phán quyết ghi : “Trung tá Cảnh sát Pasarawadee là một Sĩ quan đă thi hành chức năng ḿnh một cách đứng đắn . Bà chẳng có ư đồ ǵ khi dịch để gán tội cho bị cáo” 1 . Bà Pasarawadee không chỉ có ư đồ bịa đặt đe dọa crash (đâm máy bay ) quá trễ, sau khi Biên bản Cảnh sát đă hoàn thành . Bà c̣n có ư đồ bịa đặt đe dọa nổ lựu đạn quá sớm, trước khi Bà đọc bức thư . Dẫn chứng : “Trong khi bay, bị cáo bảo phi công rằng y có mang theo lựu đạn . Nếu phi cơ không đổi hướng bay qua Vịnh Thái Lan về phía thành phố HCM, y sẽ cho nổ lựu đạn” ( Trong bài “Ngoại trưởng Surakiart Thúc Đẩy Việt Nam …” đăng trên báo Nation, ngày 20-11-2000 ) . Không chỉ bà Pasarawadee mà tất cả các nhân chứng Công tố, trừ bà Suthathif, đều có ư đồ, hoặc dùng tội danh bịa đặt crash máy bay hoặc tự hư cấu các cách đe dọa trong một âm mưu chung . 2 . Trung úy Cảnh sát Choompol, ngoài Biên bản Vật chứng và Biên bản Điều tra ngày 18-11-2000, đă bịa đặt thêm một Biên bản Vật chứng thứ nh́, 10 ngày sau, ghi thêm các thứ như dao cạo râu, cắt móng tay và dao nhíp nhỏ . Hai thứ trước chính Cảnh sát trực ban đă mua cho tôi sau khi bị bắt 5 ngày ( điều nầy được xác minh bởi tài liệu Cung khai do Pirom Sramad làm - một người bị giam cùng thời điểm – c̣n chiếc dao nhíp tôi dùng gọt vỏ trái cây nằm trong vali để tại khách sạn, với ư đồ ghép tôi tội có vũ khí . Thật không may cho Choompol là tất cả nhân chứng công tố khác đều bác bỏ cáo giác nầy, v́ thế Phán quyết không c̣n nhắc đến vũ khí con dao nhíp! 3 . Đại úy Cảnh sát Suvit hư cấu tội danh thật điên khùng : “Bị cáo buộc Teera phải đổi ghế ngồi để cướp quyền điều khiển phi cơ”. Thật không may là anh chàng “dốt” không hành nầy lại bị chính HLV Teera phản bác : “Phi cơ có 2 cần lái, một cho HLV và một cho học viên”. 4 . Tại sao lại có âm mưu nầy ? Bà Pasarawadee đă khai rằng : “Đại sứ Việt cộng yêu sách Thái Lan phải dẫn độ bị cáo về Việt Nam . Do Việt Nam và Thái Lan không có Hiệp định Dẫn độ, Việt cộng đe dọa sẽ kiện chính phủ Thái Lan nếu HLV Teera t́nh nguyện giúp tay và hợp tác”. IV. Những Điểm Mâu Thuẫn Trong Lời Khai Của Teera Và Trong Các Bằng Chứng HLV Teera đă khai báo Sự thật trong cuộc thẩm vấn đầu tiên tại căn cứ Utapao từ 7 giờ 15 chiều đến 11 giờ 30 tối ngày 17-11-200-0 với Đại úy phi công Luechai, và trong cuộc thẩm vấn thứ nh́ tại Bót Cảnh sát Banchang từ 12 giờ khuya đến 3 giờ 30 sáng ngày 18-11-2000 với Trung úy Cảnh sát Choompol . Vào khoảng 9 giờ sáng ngày 18-11-2000, Giám đốc Trường Bay ( cấp tướng ) và Tướng Cảnh sát Pakorn đến và buộc Teera phải phản cung để tránh rắc rối cho Teera, cho Trường Bay và cho cả Thái Lan . V́ vậy họ đă thủ tiêu 2 biên bản đầu tiên ghi sự thật và bịa đặt biên bản thứ ba vào lúc 12 giờ trưa ngày 18-11-2000 . Sau khi bà Pasarawadee hư cấu đe dọa crash và cố vấn cho tất cả nhân chứng công tố dùng điểm bịa đặt nầy để kết án tôi . V́ vậy mới có nhiều mâu thuẫn trong lời khai nhân chứng công tố cũng như bằng chứng . V́ chẳng bao giờ có được một sự nói dối toàn hảo, dù kẻ nói dối thuộc bậc thầy . Kẻ dối trá trước sau ǵ cũng bị mắc lỗi, nhất là nói dối tập thể . A - Bằng Chứng Những bằng chứng nầy sẽ xác minh Teera đă báo cáo sự thật cho Đài Kiểm soát phi trường Utapao trước khi đáp và trong hai cuộc thẩm vấn đầu tiên sau khi đáp . 1 . Quan chức Utapao đă tiếp đón tôi khá niềm nở, mời tôi nước ngọt, cà phê, bánh ngọt, trái cây … và để tôi sử dụng điện thoại cầm tay thỏa mái . 2 . Tôi không bị kọng tay tại Utapao, tại Bót Cảnh sát, đặc biệt trong thời gian giải giao từ Utapao đến Bót Cảnh sát cũng không bị kọng tay . Teera đă xác nhận qua lời khai : “Bị cáo không hề bị kọng tay”. Bức h́nh số 1 chụp tại Utapao và bức h́nh thứ 2 chụp tại Bót Banchang cũng chứng minh luận điểm nầy . 3 . Tôi vẫn được phép dùng điện thoại cầm tay trả lời các cuộc phỏng vấn các Đài Phát thanh từ Hoa Kỳ suốt buổi sáng ngày 18-11-2000 tại Bót Banchang . 4 . Bót Banchang chỉ có 2 pḥng tạm giam nhỏ . Vậy mà họ đă dành pḥng nữ cho riêng một ḿnh tôi, nghi can nữ chuyển ra nằm ngoài hành lang, và pḥng nam th́ chật cứng từ 8-10 người . 5 . Một vị Tướng Cảnh sát đă ra lệnh thay toàn bộ hệ thống lưới muỗi mới theo yêu cầu của tôi . Tại sao Cảnh sát Thái có thể trọng vọng và hiếu khách đối với một “Tên Không Tặc” như vậy ? Quá bất cẩn không kọng tay trên đường giải giao tên “tội phạm nguy hiểm ?!” 6 . Trong bức h́nh 1, Teera đang nói chuyện thân mật với tôi và cười rất tươi, và trong bức h́nh 2, Teera trả lời thẩm vấn viên Cảnh sát với bộ mặt hớn hở, hạnh phúc . Một người tâm lư b́nh thường không thể có nét mặt vui vẻ, tươi tắn như vậy sau suốt 7 giờ bị đe dọa tới mạng sống trên phi cơ bị không tặc . B . Lời Khai Của Các Nhân Chứng Công Tố 1 . Nếu đó thật sự là một vụ “Không Tặc”, có thể nào Đại úy Luechai và Trung úy Choompol lại không làm Biên bản báo cáo về hai cuộc thẩm vấn đầu, mỗi lần đều kéo dài trên 3 giờ, như họ đă khai ? Chỉ có một lư do duy nhất : Họ đă hủy hai báo cáo đúng sự thật, hoàn toàn mâu thuẫn với báo cáo bịa đặt thứ ba . 2 . Nếu Teera khai với Đ/úy Luechai rằng sự đe dọa crash trong bức thư đă buộc Teera phải tuân lệnh bị cáo, Luechai phải đọc bức thư để kiểm chứng lời khai v́ ông ta cũng là phi công, biết Anh ngữ . Trái lại, Luechai thú nhận rằng : “Tôi chưa bao giờ thấy bức thư nầy”. Khi tôi tra vấn ông ta : “Vậy loại đe dọa nào ?” “crash máy bay xuống biển,” Luechai trả lời . Ông nầy đúng là không học thuộc bài theo lời cố vấn nên đă nói nhầm . Bởi trong bức thư không có từ biển, chỉ có từ đất ! 3 . Sau khi cuộc thẩm vấn thứ nh́ chấm dứt, Đ/úy Luechai rời pḥng thẩm vấn, ghé ngang qua chỗ tôi ngồi và nói, trước khi trở về lại Utapao : “Cảnh sát không thể giam anh, v́ theo lời khai của Teera, anh không phạm tội”. Luechai đă phản cung trước Ṭa án Pattaya, v́ tôi yêu cầu kiểm tra bằng máy phát hiện nói dối, nhưng Ṭa Rayong từ chối, bảo rằng Thái Lan không sử dụng phương tiện nầy để kiểm chứng . C. Lời Khai Cung Của HLV Teera 1 . Teera mâu thuẩn với Luechai qua lời bịa đặt : “Tôi cố dành lại quyền điều khiển phi cơ 3 lần, nhưng bị cáo đẩy tay tôi ra”. Trong khi Luechai lại hư cấu ngược lại : “Teera định dành lại quyền điều khiển, nhưng lại nghĩ nếu không để cho bị cáo lái, nguy hiểm có thể xảy ra !” 2 . Teera mâu thuẩn Bà Suthathif . Khi tôi hỏi : “Anh c̣n nhớ anh đă nói ǵ với tôi và bà Suthathif không ?” Teera bảo anh ta không biết bà Suthathif là ai cả ! Bà Suthathif là một thông ngôn và thông dịch Cảnh sát duy nhất hôm đó . Bà giúp Teera dịch vài tài liệu . Khi không hiểu họ đến hỏi tôi . Thí dụ : Trong truyền đơn tiếng Anh có từ Castro . “Chữ nầy nghĩa ǵ vậy ?” Bà hỏi và tôi giải thích : “Castro tức Fidel Castro, Chủ tịch nước Cuba”. Nói xong, tôi gạch bỏ từ Castro và thay bằng từ VC ( Việt cộng ) . Truyền đơn tôi rải trong phi vụ nầy là bản nhuận sắc của truyền đơn sử dụng trong phi vụ Havana . Tôi thêm, bớt, bổ túc để nội dung truyền đơn phù hợp t́nh thế ở Việt Nam, mặc dù Việt Nam và Cuba đều là nước CS . Nhưng tôi lại vô ư quên sửa tên Castro trong hai câu của đoạn thơ ngắn : Anh cúi đầu, Castro cưỡi cổ Anh đứng dậy, Castro sụp đổ . Bà Suthathif c̣n mua thức ăn sáng biếu tôi, Teera và Choompol . Bà khai : “Cùng sáng hôm đó, tôi cũng nói chuyện với Teera khoảng gần 1 tiếng đồng hồ . Vậy tại sao Teera lại không biết bà ta, không nhớ bà ta ? Nếu Teera trả lời biết và nhớ bà ta, Teera buộc phải nhớ câu anh ta đă nói với bà Suthathif và tôi : “Lư Tống rất lịch sự . Anh không dùng vũ lực, đe dọa, chỉ năn nỉ tôi giúp sức . V́ sợ mất việc, ảnh hưởng gia đ́nh, tôi phải phản cung . Tôi rất ân hận”. Và như vậy Teera sẽ bị kết tội “Man khai hữu thệ!” Chỉ có vậy ! Thật tiến thoái lưỡng nan, thật éo le cho “kẻ giơ đầu chịu báng” (Scapegoat), một phó sản của chế độ cảnh sát trị . 3 . Teera tự mâu thuẫn qua các lời khai . Có khi Teera bảo tôi đă hành xử một cách đáng sợ . Khi khác lại bảo : “Bị cáo nói chuyện rất lịch sự trong suốt phi tŕnh”. Lời cáo buộc đầu c̣n mâu thuẫn với giọng cười lớn thích thú ( 2 lần ) và Teera vẫy tay chào lại khi tôi thích thú bảo Teera : “Xem ḱa! Đám trẻ và dân chúng trên đường đang vẫy tay chào tụi ḿnh dưới đường”. Đặc biệt nhất là, ngay sau khi rải xong truyền đơn trên không phận Sài G̣n, Teera phấn khởi hỏi tôi : “Okay chứ! Anh thỏa măn với kết quả chứ ?” Những tiếng cười, lời nói của Teera đều được ghi âm trong cuốn băng vật chứng, và được TDV Pimuk, theo lệnh của Thẩm phán Batac Chay và Công tố Surasak, ghi lại bằng văn bản nộp hồ sơ Ṭa . 4 . Và điểm quan trọng nhất là 2 lời khai sau đây của Teera . Lời khai đầu : “Lời đe dọa crash trong bức thư, nếu tôi không chấp hành chỉ thị của bị cáo, đă buộc tôi phải im lặng và hợp tác với bị cáo”. Và lời khai mâu thuẩn thứ hai : “Bị cáo đă dùng 10 ngàn Mỹ kim tiền mặt và máy quay phim video làm tặng phẩm để thuyết phục và dụ khị tôi tiếp tay, hợp tác!” ( Bản Cáo trạng của Ṭa cũng ghi đủ 2 lời khai đầy mâu thuẩn nầy để kết án tôi tội Không tặc ) .Video camera trị giá 1,200 MK . Tổng số phần thưởng là 11,200 MK ( và 5 ngàn MK sẽ đưa thêm sau khi phi vụ hoàn thành ) tức 729,000 baht, bath giá hối đoái năm 2000 . Một người công nhân Thái, lương 5,000 baht /1 tháng, phải lao động cật lực 12 năm 2 tháng để có được số tiền nầy ! Cảnh sát đă tịch thu số tiền nầy từ túi của Teera ! 5 . HLV Teera và vấn đề bức thư a - Tại sao Teera mâu thuẫn những lời khai đầu tiên ? HLV Teera, thực ra, là một người tốt, trung thực và lư tưởng . Nhưng dưới áp lực bằng quyền lực của Giám đốc Trường Bay, của Tướng Cảnh sát Pakoru và lời đe dọa của ông Chaisak : “Nếu Anh đồng ư hợp tác với bị cáo, Anh cũng sẽ bị buộc tội,” Teera đành phải bán cái mọi tội lỗi cho tôi . Bởi đúng ra, chính Teera là bị cáo phạm pháp và tôi là nhân chứng, v́ Teera là Trưởng Phi cơ, và đă t́nh nguyện hợp tác v́ chính nghĩa . Teera hợp tác v́ tin tưởng vào lời giải thích hợp lư về sự an toàn của phi vụ, v́ lời thuyết phục : Tôi nhận hoàn toàn trách nhiệm, đặc biệt Tôi đă dùng phi vụ Havana làm dẫn chứng . Trong phi vụ đó, Tôi chẳng bị rắc rối ǵ với luật pháp Hoa Kỳ, trái lại c̣n được hoan nghênh như một anh hùng . C̣n việc tặng hay nhận phần thưởng, dù đó là huy chương, bằng tưởng lục hay tài chánh cho những hành động anh hùng chẳng có ǵ sai trái . Đó là việc b́nh thường, đặc biệt đối với quân đội . b - Vấn đề lá thư Mục đích chính của lá thư là nhận lănh trách nhiệm về phần tôi trong việc thi hành phi vụ . Các câu trích dẫn làm bằng chứng “Tôi bảo đảm với Anh tôi sẽ nhận hoàn toàn trách nhiệm,” và “Anh cứ tŕnh lá thư nầy cho các cấp thẩm quyền như một bằng chứng tôi là người chịu trách nhiệm duy nhất”. Nhưng nghiệt ngă thay! Người ta lại dùng chính bức thư nầy để cáo buộc tôi tội Không tặc! Bằng cách thao túng ngôn từ, bới bèo ra bọ, dùng 1 trong 5 lỗi đánh máy vặt vănh trong thư do John Cosgrove, người nhuận sắc, đă sơ sót v́ thời giờ hạn hẹp, và Tôi, v́ bận óc với trăm vấn đề khẩn trương phải thu xếp nên không kiểm tra kỹ, đặc biệt Anh ngữ là ngôn ngữ thứ hai . Do đó từ Who đánh sai thành Whom, off thành of, pray thành prey, giới từ off bị bỏ sót và ground thành crowd . ( Tôi chỉ sửa từ nầy và bỏ sót các lỗi khác . Lỗi đánh máy đă được John xác nhận trong lời khai có tuyên thệ : “Trong khi nhuận sắc bức thư, tôi đă đánh nhầm từ ground thành crowd và đánh sót giới từ off của động từ Plunge trong bản gốc của Anh : “Tôi sẽ jump off ( nhảy ra ) khỏi phi cơ xuống đất”. Ngoài ra Anh ngữ có rất nhiều động từ không dùng giới từ off để thay thế cho động từ dùng với giới từ off như : delay = put off, interrupt = cut off … Do đó tôi đă nghĩ John đă dùng plunge thay cho jump off như một từ thích đáng, chính xác hơn . Ngay cả 4 Thông dịch viên người Thái cũng đă dịch thành jump off ( nhảy ) như đă tŕnh bày, và riêng bà Suthathif th́ dịch thành “đáp”, chẳng ai dịch crash . HLV Teera, sau một năm thực tập theo lệnh Sếp, cũng không thể phân biệt các nghĩa khác nhau của động từ plunge trong 3 thí dụ : I plunge into the ground, I plunge off into the ground và I plunge the aircraft into the ground, khi tôi đố Anh ta . Và khi Luật sư Somsak đề nghị Teera đọc thử câu nầy, Teera đọc và phát âm c̣n không đúng . Lănh sự Jeffrey đă xác nhận luận điểm nầy trước Ṭa Rayong . Mỗi từ Anh ngữ có rất nhiều nghĩa khác nhau, và động từ plunge có ít nhất sáu (6) nghĩa, theo Từ điển “Cambridge Dictionary of America English,” gồm “nhảy ra, tiến về trước hay xuống, đẩy vào, mất giá trị, nhảy vào, và trải qua đột ngột,” tùy thuộc vào ngữ cảnh (context), chẳng có nghĩa nào chính xác là crash . Tại sao bà Parasawadee dịch Prey ( với E ) thành cầu nguyện ( Pray với A ), thay v́ săn thú ? ( nghĩa đúng ) . V́ bà nhận ra lỗi chính tả nhờ ngữ cảnh, văn cảnh . Vậy tại sao trong trường hợp động từ Plunge, trong văn cảnh diễn tả sự cầu khẩn giúp sức, gây mối cảm thông, thương cảm, và nhận hoàn toàn trách nhiệm cho bản thân, bà lại dịch Crash thay v́ Jump off, nếu không phát xuất từ động cơ và mưu đồ đen tối, gian ác ? Và thay v́ phán xét vô tội hơn là có tội ( benefit of the doubt ) dựa trên Tiết 277, Đoạn 2, Thủ tục Luật H́nh Sự, Ṭa lại kết án Không tặc ! Đúng là một Mưu Đồ có cấu kết . C . Bằng Cớ Chứng Minh HLV Teera Không Đọc Bức Thư Ngoài kiến thức Anh ngữ kém cỏi như đă chứng minh, c̣n có các bằng chứng khác như : Khi được hỏi Tôi đă tặng Teera bao nhiêu tiền, Teera trả lời không biết, mặc dù Teera đă đọc lời ghi chú trên b́ thư, tài liệu duy nhất Teera đọc khi tôi trao một b́ thư lớn chứa 10 ngàn MK, truyền đơn Anh ngữ, truyền đơn Việt ngữ, và bức thư .Nếu Teera không thấy chữ 10 ngàn MK viết ngoài b́ thư, lập lại 2 lần, tổng số gồm 20 từ trong một ghi chú chỉ có 88 từ, làm sao Teera thấy nhận ra từ off bị đánh thiếu trong một bức thư khá phức tạp, được viết lại bởi một Tiến sĩ người Mỹ, mà ngay chính tôi, đă phải tra từ điển để hiểu thấu đáo sau nầy khi nhận cáo buộc phạm pháp, với 914 từ, và hầu hết đều dài hơn từ off, lại được gấp lại trong bao thư lẫn lộn giữa đống tiền và tài liệu khác, khi Teera không hề lấy bức thư ra, không thấy bức thư qua lời cung khai : “Sau khi mở nắp phong b́ bị cáo đưa, tôi chỉ liếc mắt vào trong phong b́, thấy rất nhiều tiền và không để ư đến bức thư!” Bà Pasarawadee đă bịa đặt sự đe dọa crash quá trễ! V́ thế bà Suthathif đă khai : “Không ai đề cập đến bức thư và lời đe dọa crash tại Bót Banchang vào thời điểm đó,” và Biên bản Cảnh sát Ṭa sử dụng để buộc tội, gồm 475 chữ Thái, không có chữ nào đề cập đến bức thư và từ crash, ng̣ai những lời buộc tội mơ hồ, trừu tượng được trích ra từ Bộ Luật H́nh Sự, Điều Khoản 309 . D . Ṭa Án Và Vấn Đề Bà Suthathif 1 . Bà Suthathif là một Thông ngôn, Dịch giả Cảnh sát Bà Suthathif được ông Thanh tra phó của Bót Cảnh sát Banchang yêu cầu phụ trách dịch thuật và thông ngôn từ lúc khởi sự . V́ thế bà biết rơ Sự Thật . Bà là người can trường, trung thực, công chính . Khi cuộc thẩm vấn thứ ba chấm dứt, bà đến pḥng tôi ngồi và bảo : “Chồng tôi giận dữ khi họ phản cung v́ chúng tôi là người bảo vệ công lư ( Justice Defenders ). Anh vui ḷng giúp tôi làm ông ấy b́nh tĩnh dùm !” Chồng bà người Bỉ . Đó là lư do tại sao khi nhận được Cáo Trạng buộc tội vu khống, tôi đă gọi điện thoại nhờ bà ra Ṭa làm chứng ( Thời ở nhà thương điên ). Bà lúc đó mang tâm trạng bất an . Bà nói : “Xin Anh vui ḷng đừng gọi phôn tôi nữa . Tôi bị cảnh sát đe dọa từ đó đến nay . Điện thoại tôi đang bị theo dơi . Tôi không muốn dính líu vào vụ rắc rối nầy . Tôi chỉ ra Ṭa làm nhân chứng lúc nào nhận được trát ṭa gọi”. Có lẽ cảnh sát đă ép buộc bà phải công nhận tội danh bịa đặt cho tôi dựa trên từ Crash với những câu đe dọa đại loại: “Nếu bà không nghe theo lời cố vấn, bà sẽ bị Crash ( nghiền nát ) thành từng mănh!” May thay, bà đă được chính công tố viên Surasak triệu đ̣i ra Ṭa làm nhân chứng công tố, bởi ông tin chắc rằng bà rồi cũng sẽ ngoan ngoăn, vâng lời, đầu hàng như những kẻ hèn nhát mà ông vẫn thường đối phó trong thời gian làm công tố đă qua và hiện tại . Bởi vậy ông đă “tá hỏa” khi nghe những lời thẳng thắn, chân thật của bà, ngay cả sau nhiều tháng trường bị cảnh sát dọa dẫm, trong phiên ṭa ngày 18-07-2001 . Bà rất xúc động và khóc tức tưởi trong suốt thời gian cung khai . Tôi đoán rằng bà không chỉ khóc cho số phận nghiệt ngă của tôi mà c̣n cho cả tương lai khốn khổ của bà . Bà đă trả bằng giá bị đuổi sở . Bà là một sinh vật người quư, hiếm, không chỉ trên đất Thái Lan, mà trên toàn địa cầu, đă can trường hy sinh bản thân để bảo vệ Sự Thật, bảo vệ Công Lư, đặc biệt trong vụ án mà bà không hề quen biết bị can . Đó là lư do tại sao có lần tôi viết trong Biện Minh Trạng : “Nếu Đại Hồng Thủy xảy ra đúng như Kinh Thánh tiên tri, bà Suthathif là người sẽ được Chúa Trời cứu vớt trên thuyền Noah để sinh tạo nên một thế hệ mới, một giống người mă thượng, chân chính cho Vương Quốc vĩ đại Thái Lan mai hậu”. Bà xứng đáng với danh hiệu : Người bảo vệ Công Lư! Nếu Thượng Đế đă không truyền lệnh đưa bà đến giúp tôi, có lẽ tôi đă nhận Bản Án Tử H́nh bởi bọn Quỷ dữ, dù với tội danh bịa đặt, theo đơn đặt hàng của VC . Tôi không thảm kịch hóa với ư đồ đê tiện . Đây là một vài bằng chứng : a - Bị cáo S. cướp của và giết đôi vợ chồng trẻ . TR/úy Cảnh sát Choompol ra giá 1 triệu baht sẽ hủy hồ sơ .S. không đồng ư, ở tù và ra Ṭa Rayong nhận lănh Bản án Chung thân . Ngay sau ngày ra phán quyết, Luật sư anh ta đến gặp thương lượng : “Cảnh sát đ̣i một triệu baht ( #25,000 MK ). Nếu anh đồng ư trả, anh sẽ được trắng án!” b - Bị cáo P. biển thủ 700,000baht ( #17,000 MK ) và nhận Bản Án một trăm (100) năm! (Không biết các Giám đốc công ty Euron và các vụ x́ căng đan tài chánh biển thủ hàng tỉ MK sẽ lănh bao nhiêu án tử h́nh nếu Hoa Kỳ sử dụng luật Thái Lan ?) Đây là những người tù cùng pḥng xà lim với tôi . Bị can trong pḥng tôi lănh án từ 50-200 năm, chung thân, tử h́nh . Bởi vậy khi nghe tôi lănh án 7 năm 4 tháng, họ khôi hài bảo : “Chuyện vặt ! Bằng án tội buôn bán 200 viên Amphetamine !” Chỉ sau khi bị rắc rối với thủ tục pháp lư Thái Lan tôi mới nhận thức được lư do tại sao người dân tại các nước theo Hồi giáo lại chọn luật Shia hơn luật lệ các nước tự cho là dân chủ như Thái Lan . Luật Hồi giáo Shia rất là khắc nghiệt, nhưng ít nhất, tại các nước áp dụng luật nầy không có cảnh nhiều người vô tội bị buộc tội bằng những tội danh bịa đặt, hư cấu và cũng ít có trường hợp những tên tội phạm nguy hiểm có thể được trắng án nếu có đủ khả năng tài chánh và chịu chi đúng giá . Tại Thái Lan, Ṭa phải buộc tội kẻ vô tội để bù lại số bị cáo phạm tội đă được thả v́ tiền, để nhà tù Thái có đủ nhân lực tù để bóc lột sức lao động khổ sai của họ làm giàu . Đó là lư do tôi đă đặt tên Liên minh nhà tù, cảnh sát, ṭa án và luật sư là Liên Minh Ma Quỷ . Tôi phải tự biện hộ trước Ṭa thay v́ giao số phận ḿnh cho Luật sư Thái như câu châm ngôn Việt Nam “giao trứng cho ác!” 2 . Công tố viên Surasak Pransilpa Công tố viên Surasak dung dưỡng nhân chứng công tố công nhiên phạm tội “Man khai hữu thệ” một cách trắng trợn v́ quyền lợi của ḿnh và hỗ trợ họ, đặc biệt trong trường hợp Tr/úy Choompol . Khi tôi vặn hỏi Choompol : “ Tại sao Biên bản Vật chứng ngày 18-11-2000 không có dao nhíp, cắt móng tay, dao cạo râu và Biên bản Vật chứng ngày 18-11-2000, làm sau đó 10 ngày lại có ?” Choompol luống cuống biện minh cho ư đồ gian ác bằng cách trả lời : “Ngày đề trong tài liệu J.11 có vẻ không đúng . Tôi không chắc ngày nào”. Thế là công tố Surasak nhảy vào cứu bồ : “Tôi đồng ư với Choompol!” Cảnh sát điều tra lại có thể đề sai ngày và không biết chắc ngày nào! Đúng là chủ bênh tớ . Trong trường hợp của nhân chứng công tố công chính như bà Suthathif, công tố viên lại thẳng thừng đuổi ra khỏi pḥng xử án, không cho bà làm chứng lần thứ nh́ để xác nhận những điểm thiếu sót của thẩm phán cũ Batac Chay, dù bà có trát ṭa đ̣i, v́ bà là nhân chứng duy nhất dám nói Sự Thật . Chính ông ta đă cố vấn cho thẩm phán Pairut gạt bỏ tên và lời khai của bà ra khỏi Phán quyết, v́ Pairut mới đổi đến, không biết ǵ về vụ rắc rối nầy . Đó là lư do tại sao tôi đặt cho bà tên “Người phá vỡ Âm Mưu”. 3 . Thẩm phán cũ Batac Chay Thẩm phán Batac Chay không bao giờ đọc lại Biên bản khai cung của nhân chứng trước khi yêu cầu họ kư như các thẩm phán tại Ṭa Prachuap. Ṭa Pattaya . Khi cô thư kư đánh máy xong, cô đưa Biên bản cho họ kư . Chỉ có thế . Ông dùng “Trí Nhớ Chọn Lọc” ( Selective Memory ) để ghi lời khai cung, bỏ qua hoặc sửa đổi từ, câu theo ư ông . Trong trường hợp bà Suthathif, người dám nói Sự Thật và Chỉ Sự Thật, ông tự tiện bỏ các luận điểm quan trọng thuận lợi cho tôi hoặc làm giảm bớt tầm quan trọng ảnh hưởng, bởi không thể không ghi ǵ cả, bằng cách sử dụng kiến thức chuyên nghiệp thao túng các thuật ngữ pháp lư . Tôi chứng minh bằng các dữ kiện sau đây : a - Những lời khai của bà Suthathif được ghi tương đối chính xác “Không có ngôn từ trong lá thư được đề cập ngụ ư những hành động ép buộc đối với viên phi công … Không có bất cứ sự đe dọa nào”. b - Lời khai bà Suthathif bị bẻ cong và bị ghi thiếu sót b1 . Bà Suthathif khai : “HLV Teera đă nói với tôi và bị cáo rằng bị cáo rất lịch sự với Teera . Bị cáo không dùng bạo lực, không dùng đe dọa, chỉ năn nỉ giúp sức . V́ sợ bị mất việc ảnh hưởng gia đ́nh, Teera phải phản cung, và rất ân hận”. - Thẩm phán ghi : “Teera bảo tôi và bị cáo rằng mặc dù bị cáo rất lịch sự với tôi trong khi bay, nhưng v́ sợ bị mất việc ảnh hưởng đến gia đ́nh, Teera cần phải đưa bị cáo đến gặp an ninh sau khi đáp tại Utapao , và Teera rất ân hận”. * Lời ghi của thẩm phán thiếu các điểm chính : “Không dùng bạo lực, không đe dọa, chỉ năn nĩ giúp sức và Teera phản cung”. b2 . Bà Suthathif khai : “Khi họ phản cung, chồng tôi rất bất b́nh v́ chúng tôi là những người bảo vệ Công Lư,” và bảo Lư Tống : “Nhờ Anh giúp tôi làm ông ấy nguôi giận”. - Thẩm phán ghi : “Khi cảnh sát buộc tội bị cáo, chồng tôi hơi bất b́nh”. * Thẩm phán cố t́nh tránh từ “phản cung” . b3 . Bà Suthathif khai : “Không, tôi không nhớ ,” khi tôi hỏi : “Có ai ở Bót cảnh sát đề cập đến bức thư và đe dọa crash vào hôm đó không ?” - Thẩm phán ghi : “ Việc Teera có dịch câu đó với nghĩa bị cáo định crash máy bay hay không, tôi không nhớ”. * Thẩm phán sửa từ có ai đề cập thành Teera có dịch vậy không . c - Những lời khai của bà Suthathif cần được giải thích thêm “ Tôi có nghe Teera nói chuyện riêng với bị cáo một lúc, nhưng tôi không có ư lắng nghe”. Tôi và Teera đúng ra đă nói chuyện với nhau tất cả 3 lần trong buổi sáng ấy. c1 . Lần thứ nhất : Là lần bà Suthathif đề cập trên . Tôi kề tai Teera bảo nhỏ : “Hăy giữ 10 ngàn MK . Đừng để cảnh sát biết và lấy mất,” và Teera trả lời kín đáo : “Cảnh sát đă tịch thu mất tiền rồi”. c2 . Lần thứ nh́ : Lần nầy và lần thứ ba chắc chắn bà Suthathif phải nghe . Trong khi đang trả lời phỏng vấn của các Đài ở bên Hoa kỳ, tôi hỏi lớn Teera : “Tụi ḿnh bay trên Sài G̣n chừng bao lâu ?” ( do Đoan Trang bảo, bên VN thân hữu nói phi cơ bay ḷng ṿng cả giờ ), và Teera trả lời : “Chừng 25 phút” . c3 . Lần thứ ba : Khi Tr/úy cảnh sát Choompol yêu cầu tôi kư biên bản cảnh sát, tôi từ chối kư và hỏi Teera đang ngồi trước mặt tôi, bà Suthathif và Choompol : “Teera ! Tôi có dùng bạo lực hoặc đe dọa đối với anh như báo cáo nầy bịa đặt không ?” Teera im lặng, không trả lời, và nét mặt rất buồn bả, ân hận . Tất cả những lời khai chính xác đề cập trên đă được bà Suthathif xác nhận tại pḥng xử án Rayong trong phiên ṭa ngày 3-11-2003 trước mặt Lănh sự Jeffrey, một quan chức Mỹ khác, viên phụ tá người Thái của ông, phóng viên AP và báo chí Thái Lan . d - Quyết định cuả Thẩm phán Batac Chay về vấn đề bà Suthathif Sau khi có bản khai bằng Anh ngữ của bà Suthathif, chừng vài tháng sau phiên ṭa đó, tôi có cơ hội nghiên cứu kỹ và kinh ngạc khi thấy các điều vô lư trên . V́ thế, khi đến phiên tôi tự biện hộ, tôi đă tuyên bố rằng : Tôi chỉ kư Biên bản Ṭa sau khi đă được Thông dịch viên dịch cho nghe và phải sửa chữa các phần không đúng theo lời khai của tôi . Khi tôi khiếu kiện về phương pháp ghi chép và các điểm chính bị thiếu sót, thẩm phán Batac Chay buộc tôi tội “Khinh mạn ṭa án” . Tôi trả lời : “Nếu bảo vệ Sự Thật và Công Lư được xem là khinh mạn Ṭa án, tôi chấp nhận tội đó . V́ tôi khinh mạn Ṭa án không nghiêm trọng bằng tội coi thường Công Lư, nhất là trong trường hợp Thẩm phán và Công tố” . Tôi yêu cầu Ṭa gọi bà Suthathif ra Ṭa lần nh́ và làm nhân chứng bị cáo để xác minh các điểm thiếu sót . Với sự nhân chứng của Lănh sự Jeffrey, thẩm phán cuối cùng chấp thuận cho bà làm nhân chứng của tôi . 4 . Thẩm phán Pairut Nunpradej ( chính ) và thẩm phán Chatree Luangruang ( phụ ) Khi thẩm phán Batac Chay chuyển nhiệm sở, tôi có hai thẩm phán mới thay v́ chỉ một thẩm phán theo quy định mới . Ngày 3-11-2003, bà Suthathif đến làm nhân chứng cho tôi theo Trát Ṭa . Phiên ṭa nầy có dự mưu nên L/S Somsak kiếm cớ vắng mặt, cho phụ tá thay thế bởi ông là người phụ trách gởi Trát Ṭa ( để nhận 100 MK tiền tôi thưởng ). Ngay lúc phiên ṭa khai mạc, công tố Surasak đuổi bà Suthathif ra khỏi pḥng xử án . Tôi ngạc nhiên hỏi công tố viên : “Phiên ṭa nầy chính thức dành cho nhân chứng của tôi, và ông đă từng bảo sẽ đối chất tôi sau khi các phần khai của nhân chứng kết thúc . Tại sao ?” Ông trả lời : “Tôi muốn hỏi anh trước và tôi không muốn bà nghe lời khai của anh”. “Nhưng nếu ông cố t́nh kéo dài việc đối chất, c̣n th́ giờ đâu để tôi tra hỏi bà ấy ?” “Tôi bảo đảm dành đủ th́ giờ cho phần bà ấy, công tố Surasak hứa . Sau phần hỏi cung tôi, công tố viên chỉ nhượng bộ bằng cách cho phép bà trở lại pḥng sau khi tôi cương quyết yêu cầu được đối chất với bà Suthathif, nhưng không cho bà cung khai . Tôi yêu cầu bà xác nhận những điểm thiếu sót quan trọng trước mặt Lănh sự Jeffrey, hai phụ tá của ông, phóng viên AP và Báo chí Thái Lan đặc biệt nhấn mạnh các điểm : không dùng bạo lực, không dùng đe dọa, chỉ năn nỉ giúp sức và Teera phản cung . Sau đó, tôi yêu cầu Lănh sự Jeffrey can thiệp . V́ Jeffrey đă chứng kiến cuộc tranh luận giữa tôi và thẩm phán cũ Batac Chay, ông đă phái viên phụ tá người Thái lên tŕnh bày với thẩm phán Pairut . Cuối cùng, thẩm phán Pairut đồng ư cho bà tŕnh bày các điểm cần xác nhận tại bàn thẩm phán, không tại vành móng ngựa, và ông không ghi các lời xác nhận của bà vào Biên bản !Tồi tệ nhất, ông không ghi tên và lời khai của bà Suthathif, dù là nhân chứng công tố hay nhân chứng bị cáo, trong Phán quyết ! Ông ta ngang nhiên gạt bỏ bà một cách bất hợp pháp, nhân chứng duy nhất thật sự can trường, trung thực và công chính, người dám bảo vệ Sự Thật và Công Lư, ra khỏi vụ án của tôi . Vậy công dụng của nhân chứng trong Thủ tục Tố tụng là ǵ ? Thẩm phán chỉ cần những nhân chứng hèn nhát, dối trá để cũng cố tội danh bịa đặt và loại bỏ những nhân chứng khai chống ư ḿnh v́ quyền lợi riêng ?! Đúng là thứ thẩm phán quái đản, thứ công lư quái đản! Hành động nầy có đáng để buộc tội Coi thường Công Lư không ? 5 . Chánh án trưởng Pracha Ngamlamyang Nghĩ rằng thuộc cấp của ông : Công tố viên Surasak, thẩm phán Batac Chay, thẩm phán Pairut, thẩm phán Chatree cố t́nh bưng bít, che dấu không cho ông biết sự thật, tôi đă có lần yêu cầu được gặp ông, tận tay trao trực tiếp ông Biện Minh Trạng và Hồ Sơ Ṭa để ông xem và phán xét . Nhưng kết quả của Phán quyết đă xác nhận rằng ông đă dung dưỡng các hành động bất hợp pháp, bất công của họ . Điều nầy đă đủ để chứng minh một Âm Mưu cấu kết với VC để hăm hại tôi theo đơn đặt hàng của VC ? Ṭa án Rayong cả gan coi thường Công Lư, Chân Lư sau khi tôi đă gởi BMT và các bằng chứng đến Đức Vua, Thủ Tướng, Chủ Tịch Thượng Viện, Bộ Trưởng Tư Pháp, Công Tố Trưởng, Bộ Trưởng Ngoại Giao, Bộ Trưởng Nội Vụ,Giám đốc Cảnh sát Quốc gia Thái Lan, kể cả 25 vị lănh đạo Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc ! Kính Quư Thẩm Quyền, Đó là lư do tại sao tôi phải đánh bạo gởi khiếu nại nầy đến Quư vị để Quư vị giúp tôi bảo vệ Công Lư nhân danh Công Lư . Tôi là một Chiến Sĩ đấu tranh Tự do tầm vóc Thế giới, đă được Vinh danh bởi Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan, Quư Thượng Nghị Sĩ, Thị Trưởng, Nghị Viên của các Tiểu bang California, Louisiana, Florida và Washington State . Tôi c̣n được vinh danh Anh hùng bởi hàng triệu người Việt Nam, Cuba và những người yêu chuộng và bảo vệ công lư khắp thế giới về sự hy sinh trong sự nghiệp chống bọn Qủy Đỏ, nhân danh những người bị đàn áp, bóc lột, với 18 năm thể xác bị cực h́nh, tinh thần bị khủng bố trong thân phận của một tù chính trị, với 5 ngàn giờ bay của một phi công cường kích phản lực , trải qua những trận chiến hiểm nghèo, khốc liệt nhất trong Chiến tranh Việt Nam v́ Chính nghĩa . Tôi thề với Trời Đất rằng, tôi không hề dùng vũ lực, không hề dùng đe dọa, chỉ dùng những lời giải thích hợp lư về tính chất an toàn của phi vụ, thuyết phục bằng chính nghĩa cao thượng và tưởng thưởng để nhận sự tự nguyện hợp tác và phụ tá của HLV Teera . Nếu Tôi đă làm điều ǵ sai, tại sao Tôi không đáp ở một nơi vắng vẻ và thoát thân, thay v́ công nhiên trở về đáp tại Utapao ? Tôi cũng không cố t́nh vi phạm Luật Di Trú và Hàng Không Thái Lan v́ trong Phi vụ Havana, Cuba, ngày 01-01-2000, Tôi chẳng bị buộc tội, trái lại được nhận sự Vinh danh Anh hùng và các bằng khen . Phi vụ Havana là một Tiền Lệ tốt . Tôi chỉ phạm tội “Bất Tuân Dân Sự”, không phạm tội h́nh sự . Giúp giải phóng người bị đàn áp, bóc lột là nhiệm vụ của mỗi người Tự do, mỗi nước Tự do . Nếu không có “Bất Tuân Dân Sự” ( Civil Disobedience ) để thăng tiến, cải thiện và không có Cách Mạng để thay đổi xă hội loài người, chúng ta vẫn c̣n sống trong bóng đêm tăm tối của Thời Trung Cổ, thay v́ xă hội văn minh, tiến bộ và nhân bản mà chúng ta, một số, đang được hưởng . Ngay cả những vi phạm luật pháp trầm trọng như Nhóm Kháng Chiến Thái-Lào đă tấn công đồn biên pḥng Lào, gây thiệt hại nhân mạng và vật chất, cũng c̣n được Ṭa án Thái Lan tha bổng . Và Sinh viên Soe Myint, đă cưỡng ép máy bay hành khách Thái chuyển hướng đi Calcutta, Ấn độ, bằng cục xà pḥng ngụy trang, để kêu gọi thế giới quan tâm đến hoàn cảnh của Lănh tụ Dân chủ Miến Điện Aung San Suukyi, cũng đă được Ṭa án Barasat, Ấn độ, tha bổng ngày 2-7-2003 . Phương tiện của Tôi hoàn toàn ḥa b́nh, mục đích của tôi cao thượng hơn của họ, vậy tại sao tôi không được tha bổng và được đối xử như trong phi vụ Havana ? Kính Thưa Quư Thẩm Quyền, Lănh sự cũ Paul Mayer, do vắng mặt trong phiên Ṭa, đă có dịp nghe bà Suthathif tŕnh bày sự thật tại Ṭa đại sứ Mỹ ở Bangkok , và Lănh sự Jeffrey cũng đă chứng kiến cuộc tranh luận giữa tôi và thẩm phán Batac Chay, đă nghe bà Suthathif xác nhận tại pḥng xử án trong phiên Ṭa ngày 3-11-2003, và c̣n hỏi chuyện bà sau phiên Ṭa . Vậy, Tôi kính mong Quư vị, với thẩm quyền ḿnh, cho lệnh Lănh sự Paul, Lănh sự Jeffrey hay bà Suthathif, kể cả HLV Teera ( Nếu Teera được bảo đảm Quyền tị nạn chính trị tại Hoa Kỳ để tránh bị Thái Lan trả thù, trừng phạt ) được tŕnh bày Sự Thật tại Quốc Hội Hoa Kỳ, Ṭa Án Đặc Biệt, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ và Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế để bảo vệ Công Lư, v́, theo Martin Luther King Jr ., “Bất công bất cứ nơi đâu đều đe dọa nền Công Lư toàn Thế giới”.
* Chú thích : Những lời khai LƯ TỐNG Nhân chứng được trích từ Tài Trại giam Rayong, ngày 25-01-2003 Liệu Ṭa Án . |
|
Xin vui ḷng liên lạc với butvang@yahoo.com về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương Copyright © 2004 Anh Duong Online Last modified: 08/10/06 |