KHÔI
PHỤC ĐẠO LÀM NGƯỜI
Nhuệ Hồng Nguyễn Hữu Thống
Song song với việc phát huy 10 t́nh cảm tự nhiên trong Đạo Làm Người như t́nh
gia đ́nh, t́nh thầy tṛ, t́nh bạn bè, t́nh lối xóm, t́nh yêu quê hương, yêu
đất nước, yêu dân tộc, yêu nhân loại, yêu thiên nhiên và yêu súc vật, chúng ta
phải phát huy 5 lư tưởng truyền thống của dân tộc như tinh thần đại đồng, tinh
thần nhân bản, tinh thần dân chủ, tinh thần hiếu hoà và tinh thần bao dung.
Mục đích để khôi phục Niềm Tin và khôi phục Đạo Làm Người.
PHÁT HUY NHỮNG LƯ TƯỞNG TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC
Đạo ở gần, sao t́m đâu xa?
Việc giản dị, sao t́m chỗ khó?
(Đạo tại nhĩ, nhi cầu chư viễn. Sự tại dị, nhi cầu chư nan).
Chỉ những kẻ đau khổ hoạn nạn, những cô thần nghiệt tử lúc nào cũng lao tâm
khổ trí mới thấu t́nh đạt lư. (Độc cô thần nghiệt tử cố đạt)
Năm 1905, sau khi Nhật thắng Nga tại Lữ Thuận, cụ Sào Nam Phan Bội Châu phát
động phong trào Đông Du để cầu ngoại viện và học hỏi tại chỗ sự phú cường của
Nhật Bản, mộât quốc gia đồng văn với Việt Nam. Lấy “tri hành hợp nhất” của nho
gia Vương Dương Minh làm chủ thuyết, từ thế kỷ trước, Minh Trị Thiên Hoàng đă
canh tân Nhật Bản theo biểu hiệu “nhật nhật tân, hựu nhật tân” của Khổng Tử
(ngày ngày đổi mới, càng ngày càng thêm mới).
Trong 20 năm hoạt động tại hải ngoại, cụ Phan đă kết giao với một số nhân sĩ
Nhật Bản như Đại Ôi Trung Tín và Khuyển Dưỡng Nghị cùng các nho sĩ Trung Hoa
như Lương Khải Siêu và Tôn Trung Sơn. Năm 1925, do sự chỉ điểm của Hồ Chí
Minh, cụ bị Pháp bắt tại Thượng Hải, rồi bị an trí hành chánh tại Huế. Trong
thời gian quản thúc, cụ biên soạn cuốn Khổng Học Đăng (Đèn Khổng Học), kêu gọi
quốc dân noi gương người Nhật đổi mới xứ sở bằng tân học (khoa học, kỹ thuật),
đồng thời bảo tồn các giá trị tinh thần trong đạo học cổ truyền.
Phan tiên sinh nhắn nhủ đám sinh viên hậu bối: ‘’ơHọc cũ là nền tảng mà học
mới là tài liệu, hai bên vẫn có thể giúp nhau làm nên một ṭa nhà hoa mỹ. Tác
giả viết sách này là muốn điều ḥa học cũ với học mới. Những ai chưa đọc sách
này mà đă có thành kiến, hoặc bài bác học cũ, hoặc công kích học mới, th́ xin
chớ đọc. Ai đọc sách này phải lập chí và tự nhủ rằng: thánh hiền là ta, ta là
thánh hiền. Ta chỉ là hậu tiến của cổ nhân mà thôi.’’
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ.
Muốn xây dựng một quốc gia tự cường, tự chủ, văn hiến và tiến bộ, các nhà giải
phóng dân tộc, chủ trương 4 mục tiêu phục quốc là KHAI (HÓA) DÂN TRÍ, (CHẤN)
HƯNG DÂN KHÍ, (ĐÔN) HẬU DÂN SINH và THỰC (ĐÀO TẠO) NHÂN TÀI. Muốn có độc lập
chính trị, trước hết phải có độc lập tinh thần. Do đó cách mạng tư tưởng phải
được tiến hành trước hết. Căn bản tư tưởng xây dựng trên Đạo Học Đông Phương
và Khoa Học Tây Phương. Đó là phương pháp “Truyền Bá Tư Tưởng Học Thuật Đông
Tây”.
Theo Phan Bội Châu, “xây dựng một quốc gia cũng như xây cất một căn nhà. Phải
lấy đạo học làm nền móng (tinh thần) và khoa học kỹ thuật làm kiến trúc (vật
liệu). Không có nền móng, không xây được nhà; không có kiến trúc, không cất
được nhà. Đạo Học (Đông Phương) và Khoa Học (Tây Phương) chẳng những không
tương phản mà c̣n tương thành” (Khổng Học Đăng, 1929).
Theo Phạm Quỳnh, “đối với Khoa Học ta nên có ḷng công ích. Đối với Đạo Học,
ta phải có dạ chân thành. Có Khoa Học mà không có Đạo Học thời như có vỏ mà
không có ruột. Có Đạo Học mà không có Khoa Học th́ như có ruột mà không có vỏ.
Có vỏ mà thiếu ruột th́ không thành lập được ở đời. Có ruột mà thiếu vỏ th́
không xông pha được với đời. Điều ḥa Khoa Học và Đạo Học, ḷng công ích và dạ
chân thành, là điều ḥa Văn Hoá Đông Tây”. (Nam Phong, 1924).
Tại Hội Khuyến Học Nam Kỳ năm 1925, trong một buổi diễn thuyết về Đạo Đức và
Luân Lư Đông Tây, Phan Chu Trinh nhận xét rằng v́ học đạo Khổng Mạnh một cách
lầm lạc cho nên hơn ngh́n năm nay hết thảy những nước theo đạo hủ nho đều yếu
hèn và đă đánh mất chủ quyền một cách nhục nhă.
Để làm sáng tỏ Nho Học, ông so sánh học thuyết này với các thể chế chính trị
đời nay:
“ Đạo Khổng Mạnh không phải là cách chuyên chế của nhà vua mà anh em mộng
tưởng đâu. Đạo Khổng Mạnh dạy quân dân tịnh trọng (vua dân đều trọng) và rất
b́nh đẳng; vua và dân đều cần có đạo đức luân lư, nghĩa là dân phải kính trọng
vua như cha mẹ mà vua cũng phải suy ḷng đó yêu dấu dân như con đỏ vậy.
“Sách Đại Học khuyên mọi người từ vua cho đến dân đều phải lấy việc sửa ḿnh
làm gốc. Sửa ḿnh là việc lớn mà đức Khổng Tử buộc dân và vua phải như thế,
chẳng là b́nh đẳng lắm ru? Cái chính thể ấy bên Âu Châu thực hành đă lâu rồi,
nghĩa là cái chính thể Quân dân cộng-trị mà Tàu dịch ra là quân chủ lập hiến.
“Hiện nay có nước Anh, nước Bỉ và nước Nhật đang theo chính thể ấy. Dân trí
hai nước trên đă tiến tới nhiều, cho nên quyền vua cũng đă giảm bớt nhưng dân
vẫn thương vua mà vua cũng yêu dân. Nước Nhật th́ c̣n kém thua nhưng đă theo
chính thể lập hiến th́ trước sau rồi cũng tới nơi vậy.
“Đến thời ông Mạnh, các vua chuyên chế thái quá th́ ông lại xướng lên CHỦ
NGHĨA DÂN CHỦ. Như ông nói rằng: “Dân vi quí, xă tắc thứ chi, quân vi khinh”.
Nghĩa là dân quí hơn hết, đất cát thứ nh́, vua là khinh. Ngày nay bên Pháp,
bên Đức, tuy chính thể của họ có khác nhau chút đỉnh nhưng cũng đều thực hành
cái chủ nghĩa dân chủ cả. Thế th́ cái văn minh Âu Châu bây giờ có trái ǵ với
đạo Khổng Mạnh đâu.”
Phan Chu Trinh khuyên đồng bào trở về đạo đức cổ truyền:
“Tôi nói đạo đức cũ không phải là con phải làm tôi mọi cho cha, vợ phải làm
tôi mọi cho chồng, tôi phải làm tôi mọi cho vua đâu, mà chính là cái đạo đức
trung dung của Khổng Mạnh, đem dùng vào đời nào, nước nào cũng được, không cổ,
không kim, không đông, không tây. Đạo ấy ở trong những câu: “Sĩ khả sát, bất
khả phục, Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.”
(Kẻ sĩ có thể bị giết chứ không chịu khuất phục. Giàu sang không làm mê hoặc
ḿnh, nghèo hèn không làm đổi chí ḿnh, uy lực không thể khuất phục ḿnh.)
Phạm Quỳnh cũng tin tưởng vào đạo Nho chân chính của các bậc chân nho, chứ
không phải cái đạo tiểu thừa của bọn hủ nho đạo đức giả. Do đó, về mặt xây
dựng nền móng tinh thần cho quốc gia, đạo Nho hay Đạo Làm Người phải được coi
là căn bản:
“Như cái thuyết nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, th́ thật là giường mối của đạo đức
luân lư muôn đời. Đem đạo nghĩa của thánh hiền mà phát huy cái tinh lư bao hàm
trong mấy quan niệm thâm trầm mầu nhiệm đó, rồi xét xem nên ứng dụng ở đời thế
nào, đó chẳng phải là một việc mà các nhà nho nên nhiệt thành đảm nhiệm dư?
“Thuyết tu, tề, trị, b́nh há chẳng tiêu biểu cho một lư tưởng làm người rất
thâm trầm và rất thiết thực dư? Thuyết này vừa kiêm được cả chủ nghĩa cá nhân,
chủ nghĩa gia tộc, chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa xă hội, chủ nghĩa thế giới,
không cái nào mâu thuẫn với cái nào, hết thảy đều như hiệp tác với nhau theo
một trật tự rất hợp với lẽ thiên nhiên.
“Người ta trước hết phải tu thân, nghĩa là trau giồi cho nhân cách ḿnh được
ḥan ṭan, ấy là chủ nghĩa cá nhân. Rồi phải tề gia, nghĩa là cai quản trong
gia đ́nh cho có trật tự, đó là chủ nghĩa gia tộc, mà đă hàm có tính cách chủ
nghĩa xă hội đôi chút, v́ gia tộc là một tiểu xă hội. Rồi phải trị quốc, nghĩa
là ra tham dự việc nước, lo vận mệnh chung cho quốc gia, cho xă hội, đó là chủ
nghĩa quốc gia, chủ nghĩa xă hội chân chính. Sau cùng phải b́nh thiên hạ,
nghĩa là mưu sự ḥa b́nh hạnh phúc cho loài người, đó là chủ nghĩa thế giới,
chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa nhân đạo, hay chủ nghĩa bác ái, danh từ có khác,
nhưng cái tôn chỉ cũng là một, là muốn cho cả thiên hạ được yên ổn sung sướng,
biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, chứ đừng tương tàn tương hại nhau nữa.
“Ấy đạo Nho đại thừa nó rộng răi sâu xa như vậy. Ai dám bảo rằng đạo ấy không
hợp với thời đại này? Đạo ấy là đạo thiên cổ, ḷai người c̣n sinh trưởng trên
mặt đất này, th́ đời nào, nước nào cũng thích hợp.” (Nhà Nho, Nam Phong
5/1932)
Phạm Quỳnh lấy gương nước Nhật để tŕnh bầy tại sao người Nhật có tư tưởng đặc
sắc và tinh thần tự lực tự cường.
“Như trong đạo Khổng th́ nước Nhật chỉ lấy cái phần đạo đức thuần túy, c̣n
những chế độ chính trị th́ bỏ hết, nhất là chế độ khoa cử đă di hại nước Tàu,
nước Nam, và nước Cao Ly biết bao nhiêu mà kể. Chế độ khoa cử lung lạc tinh
thần người ta bằng cái học phiền tóai, giáo dục thuần dùng trí nhớ, chỉ chủ có
một mục đích, là dạy cho thuộc nhiều chữ sách để đi thi mà thôi. Chế độ đó ở
nước Nam này rất thịnh hành, khiến cho bao nhiêu kẻ thượng lưu trí thức trong
nước chỉ khuynh hướng về đường đi thi để làm quan, cho là ngọai giả không c̣n
nghề ǵ xứng đáng nữa. Và phàm học vấn chỉ quanh quẩn trong mấy pho kinh
truyện, đời ấy sang đời khác, bàn đi giải lại, biện luận chú thích ḥai, cho
là ngoại giả không c̣n cái ǵ đáng nghiên cứu nữa. Chế độ ấy vào trong tay
người cầm quyền, hoặc vua chúa, thành một cái lợi khí chính trị rất mạnh để
đàn áp kẻ thức giả”. (Gương nước Nhật, Nam Phong 1/1930)
Vận dụng cả Đạo Học cổ truyền (Đạo Làm Người) lẫn Khoa Học Kỹ Thuật tân tiến,
chúng ta sẽ kiến tạo được một quốc gia văn minh, tiến bộ và dân chủ. Khoa học
kỹ thuật chẳng những có tác dụng phát triển kinh tế, canh tân xă hội, mà c̣n
để xây dựng một chế độ chính trị nhân bản và dân chủ. Với các kỹ thuật pháp lư
rút ra từ luật học và chính trị học, chúng ta sẽ xây dựng được một chế độ Dân
Chủ Pháp Trị với Thượng Tôn Luật Pháp, chống tệ sùng bái cá nhân và độc tài
độc tôn, Tam Quyền Phân Lập chống chuyên chế và tập trung quyền lực với những
hậu quả tất nhiên của nó là tham nhũng do sự thiếu kiểm soát và chế tài, và
bất lực v́ bè phái, phe đảng do những phần tử không được quốc dân tuyển chọn.
Nếu các nhà lănh đạo quốc dân như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Phạm Quỳnh
biết kết hợp đấu tranh không bạo động và không vọng ngọai, th́ cuộâc diện Việt
Nam sẽ thay đổi hẳn, và Việt Nam rất có thể đă được độc lập từ 1946 như Phi
Luật Tân, Syrie và Liban hay từ 1947 như Ấn Độ-Đại Hồi.
Canh tân giáo dục để có độc lập tinh thần bằng cách nâng cao dân trí, chấn
hưng dân khí và đào tạo nhân tài. Độc lập tinh thần là bước đầu của độc lập
chính trị. Đó là mục tiêu giải phóng dân tộc.
Việt Nam ngày nay đang lên cơn sốt phát triển. Với sự thao túng của kinh tế
thị trường giả hiệu, mặt trái của nó đă phát hiện những tệ đoan trầm trọng như
tham lam, ích kỷ, xa hoa, phóng đăng. Muốn đem lại quân b́nh cho xă hội và
hạnh phúc cho con người, hơn bao giờ hết, Việt Nam phải biết phục hồi những
giá trị tinh thần truyền thống của nho giáo, như tinh thần đại đồng, tinh thần
nhân bản, tinh thần dân chủ, tinh thần hiếu ḥa và tinh thần bao dung. Đó là
những nền móng tinh thần để dựng nước.
1. TINH THẦN ĐẠI ĐỒNG.-
“Muốn thi hành Đại Đạo phải coi thiên hạ là của chung. Tuyển chọn người hiền
năng, giảng điều tín nghĩa, dậy điều ḥa thuận. Cho nên người dân không chỉ
thân riêng cha mẹ ḿnh, không chỉ thương riêng con ḿnh. Cho người già có chỗ
nương thân trọn đời, người trai tráng có việc làm, và trẻ thơ được dưỡng dục
đến trưởng thành. Chăm sóc người góa phụ, trẻ mồ côi, kẻ tàn phế. Thanh niên
có chức phận, phụ nữ có gia đ́nh. Tài sản không hoang phí ngoài ruộng đất, mà
hà tất phải tàng trữ làm của riêng tư? Tài lực do thân ḿnh làm ra, mà hà tất
chỉ để phục vụ quyền lợi riêng ḿnh? V́ vậy mưu mô quỷ quyệt không thi thố
được, trộm cướp phi pháp không lộng hành được. Từ đó cửa ngơ không cần đóng
kín. Đó là đời Đại Đồng.” (Kinh Lễ).
Các quốc gia dân chủ Tây Phương đă thiết lập chế độ an sinh xă hội để nuôi
dưỡng người già, trẻ thơ, người tàn phế, người thất nghiệp. Tại Hoa Kỳ ngày
nay, người già có chỗ nương thân trọn đời; trẻ thơ được dưỡng dục đến trưởng
thành; kẻ tàn phế, người thất nghiệp được hưởng trợ cấp. Vậy mà nạn trộm cướp,
bạo hành, sát nhân, ma tuư, du đăng vẫn lộng hành. Con người có cơm ăn áo mặc,
nhưng vẫn thiếu an vui hạnh phúc. Lư do là v́ nhà nước quá chú trọng về kinh
tế mà xao lăng Đạo Lư, đặt quyền lợi trước Lễ Nghĩa.
Các nhà thức giả kỳ vọng rằng rồi đây, nhân loại sẽ bước vào kỷ nguyên Đại
Đồng khi Khoa Học Tây Phương phối hợp với Đạo Học Đông Phương. Khu vực Á Châu
Thái B́nh Dương sẽ là nơi thực thi nền tổng hợp Đông Tây đem lại Thái Ḥa cho
nhân loại.
2. TINH THẦN NHÂN BẢN. (Giá trị con người trong vũ trụ)
“Lửa và nước có khí mà không có sinh. Cây cỏ có sinh mà không có biết. Muông
chim có biết mà không có nghĩa. Con người có khí, có sinh, có biết, lại có
nghĩa, nên được coi là quư nhất trong thiên ha.” (Tuân Tử)
“Người là cái đức của trời đất, sự giao hợp của âm dương, sự tụ hội của quỷ
thần, là cái khí tinh tuư của ngũ hành.” (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). (Lễ Kư).
Nhờ có tinh thần linh diệu và khí chất tinh tuư, con người có giá trị tôn quư
trong vũ trụ, được sánh ngang với trời đất trong ba ngôi tam tài Thiên, Địa,
Nhân. Trời sinh ra người, phú cho người cái tính sáng suốt, th́ đạo làm người
là phải cố gắng theo đạo trời mà tiến đến chỗ chí thiện, chí mỹ. Cái tính sáng
suốt ấy được gọi là minh đức hay lương tri, tức là khiếu tri giác mẫn tiệp
giúp con người hiểu được tinh thần và chân lư của vạn vật.
3. TINH THẦN DÂN CHỦ (Dân vi quư- Quân vi khinh)
“Người ta sinh hoạt ở đời không thể không quần tụ. Quần tụ mà không định phận
trên dưới th́ tranh đoạt nhau. Tranh đoạt nhau th́ loạn, loạn th́ khốn cùng.
Cho nên định phận là cái lợi lớn của thiên hạ, mà đấng nhân quân (chính quyền)
là cái then chốt để cai quản phận trên dưới. Đă có nhân quần phải có nhân quân
để giữ trật tự xă hội. Quân giả là cái nguồn của dân, nguồn trong th́ nước
trong, nguồn đục th́ nước đục. Thi nhân với thiên hạ th́ ai cũng yêu, thi
nghĩa với thiên hạ th́ ai cũng quư. Thiên hạ trọng bậc nhân quân, th́ bậc nhân
quân cũng phải coi thiên hạ là của chung. Nếu họ chỉ biết thủ lợi riêng và làm
điều bạo ngược, th́ trái với thiên đạo. Trời sinh ra dân không phải v́ vua.
Trời lập ra vua là bởi v́ dân. Khi vua tàn bạo, người dân có quyền phế bỏ.
Giết vua tàn bạo cũng như giết đứa độc phu (tru bạo quốc chi quân, nhược tru
độc phu). Lấy nhân nghĩa mà trị thiên hạ th́ yên, lấy tàn bạo mà trị thiên hạ
th́ nguy. Quân là thuyền, dân là nước. Nước chở thuyền, nhưng nước lại đánh
đắm thuyền...” (Tuân Tử)
“Vua coi dân như tay chân th́ dân coi vua như ḷng dạ. Vua coi dân như chó
ngựa, th́ dân coi vua như người dưng. Vua coi dân như cỏ rác, th́ dân coi vua
như giặc thù. Người làm hại nhân là tặc, người làm hại nghĩa là tàn. Tàn tặc
là kẻ không ra ǵ. Ta chỉ nghe nói giết tên Trụ, chứ không nghe nói giết vua
vậy...” (Mạnh Tử)
Một số tôn giáo chủ trương vua là con Trời (thiên tử) thay Trời trị dân, vua
muốn điều ǵ là Trời muốn điều ấy. Nho giáo trái lại quan niệm Trời với người
đồng một thể, hễ dân muốn điều ǵ là Trời muốn điều đó. Muốn biết Thiên Ư, cứ
xem ở Dân Tâm.
‘’Trời bao giờ cũng thương dân, dân muốn điều ǵ, Trời cũng chiều theo’’.
(Thiên căng vu dân, dân chi sở dục, thiên tất ṭng chi). (Kinh Thư)
“Trời trông thấy cũng v́ dân trông thấy. Trời nghe thấy cũng v́ dân nghe thấy.
Trời sáng suốt là v́ dân sáng suốt. Trời minh định thiện ác là v́ dân minh
định thiện ác. Trên Trời dưới dân thông đạt với nhau...
Trời không thân riêng với ai, chỉ giúp người có đức. Mệnh Trời không trao măi
cho ai, thiện th́ được, bất thiện th́ mất...”(Kinh Thư)
“Thuận đạo Trời th́ c̣n, trái đạo Trời th́ mất.’’ (Thuận thiên giả tồn, nghịch
thiên giả vong) (Mạnh Tử)
Làm trái ḷng dân là trái mệnh Trời. Vua Thang đánh vua Kiệt, vua Vũ diệt vua
Trụ là để cứu dân phạt kẻ có tội (điếu dân phạt tội).
Trời với dân tương quan mật thiết với nhau, do đó trong thiên hạ, dân quư hơn
cả. V́ có dân mới có nước, có nước mới có vua. Dân là gốc, nên phải lấy dân
làm quư, vua làm khinh.
“Dân vi quư, xă tắc thứ chi, quân vi khinh. Đắc hồ kỳ dân nhi vi thiên tử’’
(Mạnh Tử)... LẤY DÂN LÀM TRỌNG, NHÀ NƯỚC LÀ THỨ YẾU VÀ COI NHẸ CHÍNH QUYỀN. AI
ĐƯỢC L̉NG DÂN, SẼ ĐƯỢC LÀM VUA. Lincoln cũng quan niệm tương tự như vậy khi
chủ trương “một chính phủ của dân, bởi dân và v́ dân”.
DÂN VI QUƯ đưa ra những chủ trương đường lối thực tiễn để mưu cầu hạnh phúc
cho dân, tạo b́nh đẳng cơ hội cho dân trau giồi giáo dục kỹ thuật để tự lực
mưu sinh, phát huy văn hóa đạo đức để nâng cao nhân phẩm, gây cho dân ư thức
về nghĩa vụ và quyền lợi để tự làm chủ lấy ḿnh (tự do) và làm chủ xă hội (dân
chủ).
Theo quan niệm XĂ TẮC THỨ CHI, nhà nước là một công cụ để điều ḥa quyền lợi
và nghĩa vụ của các tầng lớp dân chúng. Do đó không thiết lập tư bản nhà nước
hay đế quốc nhà nuớc để tước đoạt tự do và tài sản của dân. Không tổ chức công
an mật vụ để trấn áp dân. Không xây dựng quân đội hùng mạnh để thực thi nghĩa
vụ quốc tế, đi gây hấn và xâm lấn các quốc gia hiếu ḥa lân bang.
Do quan niệm QUÂN VI KHINH, nhân dân có quyền truất phế các chính quyền chuyên
chế, bất lực hay tham nhũng. Nếu gặp phải hôn quân bạo chúa, nhân dân có quyền
dùng vơ trang tiêu diệt kẻ tham quyền cố vị. Trong chế độ dân chủ pháp trị,
nhân dân có thể thay đổi chính phủ trong ṿng ôn ḥa và hợp pháp bằng cách sử
dụng lá phiếu trong các cuộc tổng tuyển cử tự do và công bằng.
Nhắc lại chủ trương Dân Vi Quư của Nho Giáo, chúng ta mới ư thức câu “Đạo ở
gần, sao t́m đâu xa? Việc giản dị, sao t́m chỗ khó?”
(Đạo tại nhĩ, nhi cầu chư viễn. Sự tại dị, nhi cầu chư nan).
4. TINH THẦN HIẾU H̉A (Thiện chiến giả phục thượng h́nh)
Thời Chiến Quốc các nước chỉ chú trọng vào việc kinh doanh thủ lợi, bắt dân đi
lao công khổ sai để khai phá rừng hoang làm giàu cho vua chúa. Có phương tiện
trong tay, vua chúa tuyển mộ quân lính, mua sắm vơ khí để tranh quyền cuớp
nước, gây nên cảnh chinh chiến tàn sát dân lành.
‘’Đời nay người thờ vua nói rằng: ta v́ vua mà khai phá ruộng đất, làm đầy kho
tàng. Họ tự nhận là lương thần, đời xưa coi họ là dân tặc. Vua không theo đạo
nhân mà giúp cho giầu có, tức là giúp cho tên Kiệt vậy. Đời xưa làm cửa ải để
chống tàn bạo (ngoại xâm), đời nay làm cửa ải để làm điều tàn bạo (đàn áp bóc
lột dân).
“Có người nói: ta giỏi bày trận, ta giỏi chinh chiến, như thế là đại tội.
Không giúp ông vua làm điều nhân chính mà làm điều cường chiến. Chiến tranh
giành đất, xác người đầy đồng; tấn công vây thành, xác người đầy thành, thế là
đem đất ăn thịt người, tội ấy đem xử tử c̣n chưa hết tội! Kẻ thiện chiến phải
tội đại h́nh! (Thiện chiến giả phục thượng h́nh). Kẻ bắt dân đi lao công khai
phá rừng hoang làm giàu cho vua chúa phải chịu tội thứ’’ (Mạnh Tử).
Ngày nay những kẻ cầm quân, coi binh sĩ như cỏ rác, đẩy một lúc hàng vạn người
vào chỗ chết trong chiến thuật biển người (thảo thảo chi binh), không biết
phải phạt về tội ǵ? (Giăi thây trăm họ làm công một người: Nguyễn Du)
5. TINH THẦN BAO DUNG (Thiên Hạ Đồng Quy Nhi Thù Đồ)
Trong khi tại miền Tây Á những cuộc chiến tranh tôn giáo và chủng tộc vẫn diễn
ra triền miên th́ tại miền Đông Á, với truyền thống bao dung về tín ngưỡng, ba
đạo Phật-Khổng-Lăo đă đồng thời phát triển trong hàng chục thế kỷ. Đó là tinh
thần “tam giáo đồng nguyên”, “tam giáo đồng tôn”.
Theo Khổng Tử, thiên lư tuy biến hóa theo trăm đường ngàn lối nhưng rút cuộc
chỉ thuộc về một mối mà thôi. “Thiên hạ lo ǵ nghĩ ǵ? Thiên hạ rồi đây sẽ quy
về một mối dầu theo những con đường khác nhau.” (Thiên hạ đồng quy nhi thù
đồ). V́ trăm lo chẳng qua chỉ hướng về một mục đích: đem lại tự do, thanh
b́nh, an vui và hạnh phúc cho toàn thể loài người (nhất trí nhi bách lự) (Kinh
Dịch).
“Đạo, theo Khổng Tử, rộng như trời đất, che chở muôn loài, chuyển vần như bốn
mùa, sáng rơ như mặt trời, mặt trăng. Vạn vật cùng hóa dục mà không tương
khắc, các tôn giáo cùng hành đạo mà không tương phản.” (đạo tịnh hành nhi bất
tương bội) (Trung Dung).
Không chủ trương độc tôn, Khổng Tử cũng không bài bác các tín ngưỡng khác. V́
‘’công kích các tôn giáo khác chỉ có hại cho đạo mà thôi’’ (công hồ dị đoan,
tư hại giă dĩ: Luận ngữ).
TÍN NGHĨA VÀ QUYỀN MƯU
Trong việc lập quốc, nho gia dựa vào trào lưu đương thời mà chia làm ba lối:
“Lấy nghĩa mà lập là theo vương đạo; lấy tín mà lập là theo bá đạo; lấy mưu mô
quỷ quyệt mà lập là vong quốc” (nghĩa lập nhi vương, tín lập nhi bá, quyền mưu
lập nhi vong).
“Hô hào cả nước làm giàu, mà không vụ nghĩa, thủ tín, chỉ cốt vụ lợi. Trong
th́ gạt dân để cầu lợi nhỏ, ngoài th́ dối các nước bạn để t́m lợi lớn. Trong
th́ không lo phẩm chất tài hóa của ḿnh, mà chỉ muốn tài hoá của người. Như
thế th́ ai cũng lấy giả dối mà đối đăi với nhau. Nguời trên gạt ngừơi dưới,
người dưới dối người trên, gây nên chia rẽ. Các địch quốc sẽ khinh thường ḿnh
và các nước bạn sẽ nghi ngờ ḿnh. Dùng măi mưu mô quỷ quyệt sẽ đưa đất nước
tới nguy biến. Đó là con đường vong quốc. Lư do là v́ không dùng tín nghĩa mà
chỉ dùng quyền mưu vậy.” (Tuân Tử)
Dùng quyền mưu có thể cướp được chính quyền, nhưng không thể xây dựng được một
quốc gia tiên tiến với dân giàu, nước mạnh và xă hội văn minh.
NHO HỌC VÀ PHÁT TRIỂN
Trong thế kỷù 18 mệnh danh là Thế Kỷ Ánh Sáng, một số triết gia, nhà văn, nhà
giáo Âu Châu đề nghị chọn Nho Học làm mẫu mực cho văn hoá Tây Phương. Đối
chiếu với các tôn giáo cuồng tín và quá khích làm đảo lộn đời sống tâm linh và
xă hội đương thời, họ công nhận và đề cao nền giáo lư nhân bản, bao dung và
duy lư của Khổng Tử.
Triết gia Leibnitz người Đức, nhiệt liệt ca tụng Kinh Dịch mà ông đă nghiên
cứu và từ đó rút ra những nguyên lư khoa học, như thuyết nhất nguyên về bản
chất trong sinh học và thuyết lưỡng thể về toán học.
Văn hào Voltaire người Pháp, phổ biến các giáo lư Nho học và sáng tác vở kịch
“Đạo Đức Khổng Giáo” gồm 5 hồi.
Trong số các học giả, nhà văn, nhà thơ Tây Phương chịu ảnh hưởng và tán dương
Khổng Tử, ta c̣n có thể kể Goethe (Đức), Diderot (nhóm Bách Khoa Pháp),
Alexander Pope, Charles Lamb, Bertrand Russell (Anh), và John Dewey (Hoa Kỳ).
Bàn về nguyên nhân sự phát triển kinh tế vượt bực hiện nay của một số quốc gia
Đông Nam Á, các tác giả Thomas và Dorothy Hoober viết:
“Các giá trị tinh thần của Nho Giáo là những động lực đem tới sự thành công
rực rỡ về kinh tế tại các quốc gia thuộc Ṿng Đai Thái B́nh Dương.
Trong những năm gần đây, Nhật Bản đă trở thành một siêu cường kinh tế. Nối gót
không xa là bốn con hổ Nam Hàn, Đài Loan, Hồng Kông và Tân Gia Ba.
Tại các quốc gia này, các giá trị tinh thần của Nho Giáo được phổ biến và áp
dụng trong đời sống hàng ngày. Tôn trọng kỷ cương là nguyên tắc. Người dân
chịu khó làm việc chuyên cần và nhiều giờ tại các xí nghiệp và văn pḥng.
Phương châm là hợp tác chủ thợ. Mọi quyết định quan trọng phải được sự tán
đồng của cả hai bên. Nhưng một khi đă có quyết nghị, th́ tất cả mọi người phải
góp sức cộng tác để đạt được mục tiêu.
Các công nhân viên thường tự nguyện làm thêm giờ và nhiều khi họ phải hy sinh
cả những ngày nghỉ có trả lương để ḥan thành công việc. Tại nhiều xí nghiệp,
mỗi buổi sáng, chủ thợ cùng hát bài “xưởng ca”, và công ty được coi như một
đại gia đ́nh.
Dầu sao gia đ́nh cổ truyền vẫn là đơn vị căn bản trong xă hội. Tinh thần chung
là thân thiện và ḥa thuận. Tỷ lệ phạm pháp rất thấp tại các quốc gia Ṿng Đai
Thái B́nh Dương. Lư do là v́ ai cũng muốn bảo ṭan danh dự gia đ́nh, không dám
làm điều ǵ trái phép sợ gây tai tiếng cho ḍng họ.
Sự tôn kính các bậc huynh trưởng không chỉ giới hạn trong phạm vi gia đ́nh.
Thầy giáo rất được trọng nể. Học tṛ coi thầy cô như cha mẹ và kỷ luật học
đường được tôn trọng một cách tự nhiên.
Trong khi các công nhân viên xí nghiệp làm việc chuyên cần th́ các học sinh,
sinh viên, học hành chăm chỉ. Ước vọng của họ là được trúng tuyển vào các
trường đại học danh tiếng, cũng như tổ phụ họ khi xưa mơ ước được thi đỗ, có
bảng vàng đề tên.
Trong thế giới tân tiến hiện nay, Khổng Tử vẫn nói lên những lời minh triết
đầy thuyết phục. Như từ thuở xa xưa, người dân chỉ mong ước được sống trong
một xă hội kỷ cương, có sự ḥa đồng giữa con người và thiên nhiên, và giữa
người với người, có t́nh nhân ái, lương thiện, nghĩa lư và trung tín. Theo
Khổng Tử, muốn giải quyết thỏa đáng những vấn đề quốc gia xă hội, trước hết
con người phải biết tu thân. Từ 25 thế kỷ nay, những nguyên lư tinh thần của
nho giáo vẫn giữ nguyên giá trị. Dầu là một tôn giáo hay triết học, Khổng Giáo
vẫn duy tŕ được sức mạnh tinh thần và trường tồn với thời gian”.
Nhuệ Hồng Nguyễn Hữu Thống (Ngày Khánh Đản Khổng Phu Tử 2004)