
Việt Nam và WTO
(I, II , III, IV)
|
2005.11.23
Tiến sĩ Trần Văn Hiển
- Nguyễn An
Thưa quư thính giả,
Việt Nam đă nộp đơn xin gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO cả thập kỷ
trước. Tuy nhiên, việc trở thành hội viên của tổ chức quốc tế này mới chỉ
trở nên cấp thiết trong đôi ba năm trở lại đây, khi nền kinh tế đă có những
bước phát triển tốt song song với yêu cầu hội nhập vào thế giới ngày càng
cấp thiết hơn.
 |
|
 |
Tải xuống để nghe
|
Để t́m hiểu quá tŕnh
Việt Nam xin gia nhập WTO cùng những vấn đề liên quan đến việc gia nhập ấy,
ban Việt ngữ đài Á châu tự do đă thực hiện một loạt cuộc trao đổi với Tiến
sĩ Trần Văn Hiển, giáo sư đại học và CPA ở tiểu bang Texas, Hoa kỳ. Giáo sư
Hiển hàng năm đi công tác ở Việt Nam cho đại học của ông. Mời quư thính giả
theo dơi cuộc trao đổi giữa BTV Nguyễn An của ban Việt ngữ vào giáo sư Hiển.
Bài 1: Yếu tố con người
trong phát triển kinh tế
Nguyễn An:
Chào giáo sư Trần Văn Hiển. Liên quan đến chuyện Việt Nam xin gia nhập tổ
chức thương mại thế giới WTO, th́ theo ông ta cần phải bàn những vấn đề ǵ?
Trần Văn Hiển:
Trước nhất tôi có lời cảm tạ đài Á châu tự do cho tôi cơ hội chia sẻ sự hiểu
biết của tôi với người Việt khắp nơi trên thế giới.
Mục đích những bài
phân tích kinh tế của tôi về việc Việt Nam gia nhập WTO là giúp người Việt
trong và ngoài nước hiểu rơ một vấn đề rất quan trọng và phức tạp cho tương
lai đất nước. Sự hiểu biết này sẽ giúp người Việt chúng ta cùng nhau giúp
đất nước thay đổi để có một chính quyền pháp trị hơn, minh bạch hơn, hợp lư
hơn trong sự quản lư nền kinh tế, để tạo một môi trường lành mạnh cho sự
phát triển kinh tế vững bền ở cấp bậc cao.
Trong ư hướng ấy, tôi
xin tŕnh bày với thính giả 7 đề tài sau đây:
Quốc gia nào có nhiều
tổ chức kinh tế lớn với năng suất cao, sẽ là một quốc gia giàu có, c̣n ngược
lại sẽ nghèo đói. Để tạo dựng được những tổ chức kinh tế lớn, giàu và mạnh,
quốc gia phải có con người nhiều khả năng. Do đó, điều cực kỳ quan trọng cho
mọi quốc gia là phải tạo ra được một môi trường lành mạnh cho sự phát triển
con người trước. Con người với nhiều khả năng sẽ là động lực đẩy đất nước đi
lên.
Tiến sĩ Trần Văn Hiển
- Yếu tố con người
trong sự phát triển kinh tế.
- Cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam.
- Tại sao Việt Nam cần phải nhập vào WTO
- WTO là ǵ và Việt Nam đang ở đâu trong tiến tŕnh gia nhập tổ chức này.
- Sự gia nhập WTO sẽ giúp Việt Nam giải quyết một số thử thách kinh tế trầm
trọng như thế nào?
- Người nước ngoài có thể giúp Việt Nam thay đổi, để tiến lên qua mô h́nh
WTO.
- Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam cần phải làm ǵ để trở thành một quốc gia
phú cường?
Nước giàu và nước nghèo
Nguyễn An:
Vậy hôm nay xin được bàn vấn đề thứ nhất, yếu tố con người trong phát triển
kinh tế. Nói đến phát triển kinh tế, là nói đến nước giàu và nước nghèo.
Theo ông giữa hai loại quốc gia này, sự khác biệt dễ nhận thấy nhất là ǵ?
Trần Văn Hiển:
Sự khác biệt rất lớn giữa nước giàu và nước nghèo, nằm ở yếu tố con người.
Ví dụ như vùng đất tên gọi là California chạy dài từ nước Mỹ qua đến Mễ tây
cơ. California phía bên Mỹ th́ trù phú thịnh vượng, trong khi đó California
bên Mễ th́ nghèo nàn lạc hậu. Chổ giàu có nhiều tổ chức kinh tế lớn với năng
suất cao. Chổ nghèo th́ chẳng có tổ chức kinh tế nào lớn cả.
Sở dĩ những tổ chức
kinh tế lớn đạt được năng suất cao, v́ họ thấu hiểu khách hàng cần ǵ, họ
phục vụ khách hàng tận tâm, chuyên môn hoá công việc, có tổ chức chặt chẽ
gắn liền lợi ích của công ty với lợi ích của nhân viên. Thêm vào đó tổ chức
kinh tế lớn có nhiều vốn, có thể làm những chuyện lớn và lâu dài được.
Quốc gia nào có nhiều
tổ chức kinh tế lớn với năng suất cao, sẽ là một quốc gia giàu có, c̣n ngược
lại sẽ nghèo đói. Để tạo dựng được những tổ chức kinh tế lớn, giàu và mạnh,
quốc gia phải có con người nhiều khả năng. Do đó, điều cực kỳ quan trọng cho
mọi quốc gia là phải tạo ra được một môi trường lành mạnh cho sự phát triển
con người trước. Con người với nhiều khả năng sẽ là động lực đẩy đất nước đi
lên.
Động lực đưa đất nước
tiến lên
Nguyễn An:
Thế xin GS cho biết, chúng ta cần phải đào tạo như thế nào để con người trở
thành động lực đưa đất nước tiến lên?
Trần Văn Hiển: Về vấn đề đào
tạo con người, có tất cả là năm lảnh vực đào tạo như sau:
Người Việt Nam rất
thông minh và chịu khó, nhưng nước Việt Nam rất nghèo. Sự nghèo khó này cho
thấy là yếu tố con người ở Việt Nam vẫn c̣n rất kém. Đây là lỗi chung của xă
hội v́ đại đa số các nước Á châu và Phi châu là thế.
Tiến sĩ Trần Văn Hiển
Yếu tố cơ bản - gồm có
sức khỏe; hiểu biết tổng quát về khoa học, về mối tương quan giữa con người
với môi trường, với xă hội và với thế giới; có tinh thần trách nhiệm; có
ḷng tự tin; năng động; có thể suy nghĩ và hành động độc lập; thành thật và
đạo đức; tôn trọng mọi người; can đảm nói lên sự thật; can đảm nhận và thực
hiện những thử thách mới, có tinh thần lạc quan; có chí ganh đua cao.
Yếu tố chuyên môn công
việc - gồm có những chuyên môn cần khi làm việc kiếm sống như bác sĩ, dược
sĩ, kế toán, thợ nề, thợ mộc, v.v… Chuyên môn đ̣i hỏi nhiều về trí tuệ và
nền kinh tế đang cần, thường được lương cao.
Yếu tố giao tiếp - gồm
khả năng làm việc chung một cách ḥa giải với mọi người, được nhiều người
tin, ít kẻ chống đối, có nhiều bạn, có khả năng giải quyết những tranh chấp,
có thể thuyết phục người khác, v.v..
Yếu tố sáng tạo - gồm
những khả năng tạo nên được những ǵ mới lạ mà xă hội cần như sản phẩm mới,
dịch vụ mới, tư tưởng hay ư kiến mới, tổ chức kinh tế mới, thị trường mới,
phong cách làm việc hữu hiệu mới, v.v…
Yếu tố lănh đạo - gồm
có khả năng liên kết những cá nhân riêng rẽ thành một tổ chức kinh tế vững
chắc hữu hiệu; có tầm nh́n cao, xa, rơ rệt; tạo được mối quan hệ với những
tổ chức kinh tế trong và ngoài nước một cách hữu ích, ḥa giải, đạo đức,
ngay thẳng, và có nhiều lợi ích; xác định rơ các mục tiêu có thể đạt được và
truyền bá cho nhân viên; hiểu rơ được những nhu cầu của nhân viên và gắn
liền nhu cầu này vào mục tiêu của tổ chức kinh tế; tạo sự gắn bó, trung
thành và nhiệt tâm lâu dài của nhân viên với tổ chức kinh tế, biết cách tăng
cường năng suất chung của tổ chức kinh tế.
Con người của nước
nghèo thường thiếu những yếu tố quan trọng này, hay là những người có yếu tố
này, không được dụng vào những vị trí tương ứng.
Vai tṛ của nhà nước
Nguyễn An:
Từ những điều vừa nói về yếu tố con người, ông có thể nói về vai tṛ của nhà
nước trong sự phát triển yếu tố con người và sự tạo dựng những tổ chức kinh
tế lớn với năng suất cao không?
Trần Văn Hiển:
Vấn đề phát triển con người và phát triển kinh tế là chuyện chung của cá
nhân, gia đ́nh, chính quyền và xă hội. Ai cũng có thể tham gia vào sự phát
triển này. Tuy nhiên vai tṛ của nhà nước rất là quan trọng như sau:
Chúng tôi hoan nghênh mọi ư kiến đóng góp thêm. Xin
gửi E mail về
Vietnamese@www.rfa.org
hay gọi điện đến 202 530 7775
- Chính quyền tạo một
môi trường chính trị và kinh tế vĩ mô ổn định cho mọi người làm việc.
- Chính quyền giáo dục
người dân những yếu tố con người nêu ra trong bài này.
- Chính quyền có thể
làm gương sáng cho cá nhân bằng cách trung thực, đạo đức, tôn trọng sự thật,
công bằng, có tinh thần trách nhiệm với người dân, dùng người dân đúng chỗ,
dựa trên tài năng của họ hơn là dựa trên bè phái, v.v..
- Chính quyền tạo một
môi trường pháp lư lành mạnh trong đó người dân có thể phát huy mọi yếu tố
con người, được tự do hội họp để tạo nên tổ chức kinh tế mới, và được tự do
buôn bán với mọi người xa gần.
Nguyễn An:
Vừa rồi là ông nói chung các chính quyền. Trường hợp của Việt Nam th́ sao?
Trần Văn Hiển:
Người Việt Nam rất thông minh và chịu khó, nhưng nước Việt Nam rất nghèo. Sự
nghèo khó này cho thấy là yếu tố con người ở Việt Nam vẫn c̣n rất kém. Đây
là lỗi chung của xă hội v́ đại đa số các nước Á châu và Phi châu là thế. Nếu
chúng ta muốn hiểu được sự yếu kém của chính quyền Việt Nam ra sao trong sự
đào tạo con người, chúng ta có thể nh́n vào ba dữ kiện sau:
Hệ thống giáo dục của
Việt Nam ra sao? Việt Nam không có những tổ chức kinh tế lớn, năng suất cao
và giàu mạnh, cho thấy rằng hệ thống giáo dục của Việt Nam trong 70 năm qua
không đào tạo người dân với những yếu tố con người cao như giao tiếp, sáng
tạo và lănh đạo hay những ngựi tài không được dùng đúng chỗ.
Chính quyền có minh
bạch không? Theo Transparency International, sự minh bạch của chính quyền
Việt Nam rất kém. Năm 2004 bị xếp thứ ba từ chót đếm lên trong khu vực, hơn
được Indonesia và Miến Điện. Do đó, chính quyền Việt Nam cần phải thay đổi
nhiều lắm trước khi được làm gương sáng cho người dân.
Người dân có được tự
do phát triển không?
Theo tổ chức Freedom
House, chính quyền Việt Nam hạn chế rất nhiều tự do cho sự phát triển con
người. Năm 2004 bị xếp thứ nh́ từ chót đếm lên trong khu vực, hơn được Miến
Điện. Một lần nữa chính quyền Việt Nam c̣n rất nhiều việc lớn phải làm trong
sự nâng cao yếu tố con người cho phát triển kinh tế.
Nguyễn An:
Xin cảm ơn giáo sư Trần Văn Hiển.
Vừa rồi là cuộc trao
đổi giữa BTV Nguyễn An của ban Việt ngữ và Tiến sĩ Trần Văn Hiển về vốn con
người trong phát triển kinh tế, là phần đầu của loạt bài phân tích kinh tế
về Việt Nam và WTO. Chủ đề thảo luận kỳ tới sẽ là, cấu trúc của nền kinh tế
Việt Nam, mong quư thính giả đón nghe. Cũng xin nhắc rằng ư kiến của giáo sư
Hiển không nhất thiết phản ánh quan điểm của ban Việt ngữ đài Á châu tự do,
và chúng tôi hoan nghênh mọi ư kiến đóng góp thêm. Xin gửi E mail về
vietnamese@www.rfa.org hay gọi điện đến 202 530 7775.
Việt Nam và WTO (II)
2005.11.23
Tiến sĩ Trần Văn Hiển
- Nguyễn An
Thưa quư thính giả,
Việt Nam đă nộp đơn xin gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO cả thập kỷ
trước. Tuy nhiên, việc trở thành hội viên của tổ chức quốc tế này mới chỉ
trở nên cấp thiết trong đôi ba năm trở lại đây, khi nền kinh tế đă có những
bước phát triển tốt song song với yêu cầu hội nhập vào thế giới ngày càng
cấp thiết hơn.
 |
|
 |
|
Hạ tầng cơ sở của Việt
Nam rất là kém cho nhu cầu hiện đại hóa và công nghiệp hóa đất nước. AFP
PHOTO
Để t́m hiểu quá tŕnh
Việt Nam xin gia nhập WTO cùng những vấn đề liên quan đến việc gia nhập ấy,
ban Việt ngữ đài Á châu tự do đă thực hiện một loạt cuộc trao đổi với Tiến
sĩ Trần Văn Hiển, giáo sư đại học và CPA ở tiểu bang Texas, Hoa kỳ.
Giáo sư Hiển hàng năm
đi công tác ở Việt Nam cho đại học của ông. Trong buổi phát thanh trước, ông
Hiển đă bàn về tài năng con người trong phát triển kinh tế. Kỳ này, chủ đề
trao đổi là cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam. Mời quư thính giả theo dơi
cuộc trao đổi giữa BTV Nguyễn An của ban Việt ngữ vào giáo sư Hiển.
Bài 2: Cấu trúc của nền
kinh tế Việt Nam
Nguyễn An: Về đại thể,
theo giáo sư th́ cấu trúc của nền Kinh tế Việt Nam như thế nào?
Tiến sĩ Trần Văn Hiển: Năm
2004, Việt Nam có 82 triệu dân, GDP là 42 tỉ đô la, và GDP đầu người là 550
đô la. Chúng ta có thể nh́n cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam theo hai góc
độ khác nhau: 1) theo ngành chuyên môn và 2) theo quyền sở hữu.
Theo góc độ chuyên
môn, kinh tế Việt Nam chia làm 3 khu vực: 1) nông nghiệp, 2) kỹ nghệ và xây
dựng và 3) dịch vụ.
Khu vực kinh tế nhà
nước sản xuất 38% của GDP. Đây là khu vực tập trung những công ty lớn và
những kỹ nghệ trọng điểm của Việt Nam. Khu vực này vẫn tăng trưởng đều về số
lượng từ 1986, sau khi Việt Nam chuyển hướng qua kinh tế thị trường. Tuy
nhiên sự tăng trưởng này không đem lại công ăn việc làm cho người dân bao
nhiêu, trong khi cần rất nhiều trợ cấp từ chính quyền.
Tiến sĩ Trần Văn Hiển
Khu vực nông nghiệp
sản xuất 22% của GDP, dùng 2/3 dân số.
- Khu vực kỹ nghệ và xây dựng sản xuất 40% của GDP, dùng 13% dân số
- Khu vực dịch vụ sản xuất 38% của GDP, dùng 21% dân số.
Theo góc độ ai làm sở
hữu, kinh tế Việt Nam được chia làm 3 khu vực: 1) nhà nước, 2) nước ngoài,
và 3) tư nhân.
Khu vực kinh tế nhà
nước sản xuất 38% của GDP. Đây là khu vực tập trung những công ty lớn và
những kỹ nghệ trọng điểm của Việt Nam. Khu vực này vẫn tăng trưởng đều về số
lượng từ 1986, sau khi Việt Nam chuyển hướng qua kinh tế thị trường. Tuy
nhiên sự tăng trưởng này không đem lại công ăn việc làm cho người dân bao
nhiêu, trong khi cần rất nhiều trợ cấp từ chính quyền.
Khu vực kinh tế nước
ngoài sản xuất 14% của GDP. Khu vực này phát triển rất nhanh vào đầu thập
niên 90. Nhưng sau đó chậm lại nhiều.
Khu vực kinh tế tư
nhân sản xuất 48% của GDP. Khu vực này bắt đầu phát triển mạnh sau chính
sách đổi mới vào năm 1986, tăng vọt sau khi Việt Nam kư hiệp ước song phương
với Mỹ (gọi tắt là BTA) và thông qua luật đầu tư trong nước vào năm 2001.
Trong thập niên 90,
kinh tế Việt Nam phát triển khoảng 4.8%, thua nếu so với mức phát triển
trung b́nh của khu vực là 5.8%. Những năm gần đây, nhất là sau BTA, sự phát
triển của nền kinh tế Việt Nam bắt đầu cao hơn khu vực. Tuy nhiên vẫn thua
Trung Quốc chừng 2% đến 3% mỗi năm.
Khi đọ thu nhập trên
đầu người của Việt Nam, 550 đô la, với các nước nghèo trong khu vực như
Trung Quốc, Philippines và Indonesia, GDP đầu người của Việt Nam dưới ½ của
họ.
Hạ tầng cơ sở
Nguyễn An: Một trong
những điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế là có hạ tầng cơ sở vững mạnh.
Trường hợp của Việt Nam ra sao?
Chính quyền Việt Nam
không thu thuế từ người giàu. Đa số thu nhập của người giàu ở Việt Nam là
tiền mặt, và hầu như họ không đóng thuế. V́ không thu đủ thuế, chính quyền
Việt Nam không đủ tiền xây hạ tầng cơ sở.
Tiến sĩ Trần Văn Hiển
Tiến sĩ Trần Văn Hiển: Về hạ
tầng cơ sở th́ Việt Nam rất là kém cho nhu cầu hiện đại hóa và công nghiệp
hóa đất nước. Một vài ví dụ như sau:
Ví dụ 1. Đất nước
không có những hệ thống vận chuyển tối tân để vận chuyển người và hàng hóa
giữa hai miền Nam Bắc, giữa thôn quê và thành thị, giữa vùng xa với các
trung tâm thương mại.
Ví dụ 2. Ô nhiễm môi
trường rất nặng trong những thành phố lớn, và hiểm họa y tế như SARS và cúm
gà hoành hành Việt Nam.
Ví dụ 3. Trong những
thập niên qua, Việt Nam đạt được nhiều kết quả tốt trong giáo dục phổ thông,
và đại đa số người dân biết đọc biết viết. Tuy nhiên bậc đại học của Việt
Nam vẫn kém xa các nước trong khu vực.
Nguyễn An: Giáo sư có
thể giải thích tại sao, nhà nước Việt Nam không xây dựng được hạ tầng cơ sở
tốt cho sự phát triển kinh tế không?
Tiến sĩ Trần Văn Hiển: Tôi
nh́n thấy một số lư do như sau:
Chính quyền Việt Nam
không thu thuế từ người giàu. Đa số thu nhập của người giàu ở Việt Nam là
tiền mặt, và hầu như họ không đóng thuế. V́ không thu đủ thuế, chính quyền
Việt Nam không đủ tiền xây hạ tầng cơ sở.
Chính quyền Việt Nam
ít khả năng huy động vốn của người dân. Khi chính quyền Việt Nam bán công
khố phiếu cho người dân, không có mấy ai t́nh nguyện mua. V́ vậy chính quyền
Việt Nam không có thêm một phương cách hữu hiệu khác thu tiền cho xây dựng
hạ tầng cơ sở.
Chính quyền với minh
bạch thấp đưa đến nhiều công tŕnh xây dựng bị đ́nh trệ, hay xây dựng với
chất lượng rất kém.
Khu vực kinh tế quốc
doanh, về vấn đề buôn bán với những công ty hoặc cá nhân khác, th́ vẫn b́nh
thường thôi, nghĩa là thị trường định giá cho sản phẩm của họ. Sự khác biệt
lớn nhất giữa họ và những công ty khác là: 1) liên hệ với nhà nước, 2) phong
cách làm việc, 3) thành tựu.
Tiến sĩ Trần Văn Hiển
Khu vực kinh tế quốc
doanh
Nguyễn An: Chính phủ
Việt Nam chủ trương kinh tế quốc doanh là chủ đạo. Vậy khu vực quốc doanh
tại Việt Nam hoạt động thế nào?
Tiến sĩ Trần Văn Hiển: Khu
vực kinh tế quốc doanh, về vấn đề buôn bán với những công ty hoặc cá nhân
khác, th́ vẫn b́nh thường thôi, nghĩa là thị trường định giá cho sản phẩm
của họ. Sự khác biệt lớn nhất giữa họ và những công ty khác là: 1) liên hệ
với nhà nước, 2) phong cách làm việc, 3) thành tựu.
Về liên hệ với nhà
nước, đây là những điều quan trọng:
- Công ty nhà nước là
những công ty nắm những ngành trọng điểm mà nhà nước ấn định. Có nhiều cơ
hội được độc quyền.
- Được cấp giấy phép
nhanh chóng. Đây là một lợi điểm rất lớn v́ xin giấy phép ở Việt Nam là một
chuyện khó khăn và tốn kém không lường được.
- Có thể được trợ
cấp/đầu tư từ ngân sách nhà nước. Mỗi năm nhà nước dùng gần một nửa ngân
sách để trợ cấp những công ty quốc doanh.
- Được cho đất, hay
thuê đất với giá rất hạ. Đất ở Việt Nam đắt như vàng, được cấp đất như được
cấp vàng.
- Được ngân hàng nhà
nước cho vay dễ dăi.
Nh́n vào cấu trúc của
nền kinh tế Việt Nam, khu vực kinh tế nước ngoài và khu vực kinh tế tư nhân
là hầu như 80%-90% là kinh tế thị trường. 10%-20% không thị trường là do sự
khó khăn trong việc xin giấy phép từ nhà nước Việt Nam và điều này đưa đến
nền kinh tế Việt Nam kém tính cạnh tranh hơn những nền kinh tế thị trường
khác mà việc xin giấy phép dễ dàng hơn.
Tiến sĩ Trần Văn Hiển
- Được các cơ quan nhà
nước khác giúp đỡ, không bị ṿi vĩnh.
Về phong cách làm
việc, có 3 điều chính:
- Lương rất thấp và
lợi nhuận của công ty không gắn liền với lợi nhuận của nhân viên đưa đến
nhân viên làm việc kém năng suất.
- Công ty thường vướng
bận bởi những thủ tục hành chính phức tạp
- Đảng ủy của Đảng CS
(không phải giám đốc công ty) quyết định mọi chuyện quan trọng như về nhân
sự và hành chính như là chọn lănh đạo, đầu tư, sa thải nhân viên, v.v.
Về thành tựu, có bốn
điều quan trọng:
- Vẫn tăng trưởng đều
đều về số lượng trong hai thập niên qua mặc dù nền kinh tế đang chuyển hướng
qua kinh tế thị trường.
- Năng suất thấp. V́
ít quyền lợi đưa đến nhân viên làm hết giờ hơn là làm hết trách nhiệm.
- Chi phí đầu tư rất
cao. Theo bài nghiên cứu của David Deprice của ĐH Harvard, cho thủ tướng
Phan Văn Khải, th́ Việt Nam cần đầu tư 3 dollars để tạo ra một dollar mới
cho GDP khi đầu tư vào khu vực tư nhân, nhưng cần đến 5 dollars, hay 80%
hơn, khi đầu tư vào khu vực quốc doanh.
Chúng tôi hoan nghênh mọi ư kiến đóng
góp thêm. Xin gửi E mail về
Vietnamese@www.rfa.org
hay gọi điện đến 202 530 7775.
- Không tạo được nhiều
công ăn việc làm cho người dân, mặc dầu được nhà nước ưu đăi.
Kinh tế thị trường theo
định hướng Xă hội chủ nghĩa
Nguyễn An: Nhà nước Hà
Nội thường tuyên bố Việt Nam là một nước kinh tế thị trường theo định hướng
Xă hội chủ nghĩa. Là người từng về Việt Nam nhiều lần và với cái nh́n của
một nhà kinh tế, ông nhận xét thế nào về cái định hướng Xă hội chủ nghĩa ấy?
Tiến sĩ Trần Văn Hiển: Nh́n
vào cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam, khu vực kinh tế nước ngoài và khu vực
kinh tế tư nhân là hầu như 80%-90% là kinh tế thị trường. 10%-20% không thị
trường là do sự khó khăn trong việc xin giấy phép từ nhà nước Việt Nam và
điều này đưa đến nền kinh tế Việt Nam kém tính cạnh tranh hơn những nền kinh
tế thị trường khác mà việc xin giấy phép dễ dàng hơn.
Khu vực kinh tế quốc
doanh chiếm 38% của GDP. Khu vực này chỉ là kinh tế thị trường 10%-20% v́
giá cả được định bởi thị trường. C̣n tất cả những ǵ c̣n lại th́ chẳng khác
ǵ khu vực kinh tế quốc doanh của các nước xă hội chủ nghĩa khác.
Nguyễn An: Cảm ơn Tiến
sĩ Trần Văn Hiển.
Vừa rồi là cuộc trao
đổi giữa BTV Nguyễn An của ban Việt ngữ và Tiến sĩ Trần Văn Hiển về cấu trúc
của nền kinh tế Việt Nam, là bài thứ hai của loạt bài phân tích kinh tế về
Việt Nam và WTO. Chủ đề thảo luận kỳ tới sẽ là, sự cần thiết gia nhập WTO
của Việt Nam, mong quư thính giả đón nghe.
Cũng xin nhắc rằng ư
kiến của giáo sư Hiển không nhất thiết phản ánh quan điểm của ban Việt ngữ
đài Á châu tự do, và chúng tôi hoan nghênh mọi ư kiến đóng góp thêm. Xin gửi
E mail về vietnamese@www.rfa.org hay gọi điện đến 202 530 7775.
Việt Nam và WTO (III)
2005.11.24
Tiến sĩ Trần Văn Hiển
- Nguyễn An
Thưa quư thính giả,
Việt Nam đă nộp đơn xin gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO cả thập kỷ
trước. Tuy nhiên, việc trở thành hội viên của tổ chức quốc tế này mới chỉ
trở nên cấp thiết trong đôi ba năm trở lại đây, khi nền kinh tế đă có những
bứơc phát triển tốt song song với yêu cầu hội nhập vào thế giới ngày càng
cấp thiết hơn.
 |
|
 |
|
Để t́m hiểu quá tŕnh
Việt Nam xin gia nhập WTO cùng những vấn đề liên quan đến việc gia nhập ấy,
ban Việt ngữ đài Á châu tự do đă thực hiện một loạt cuộc trao đổi với Tiến
sĩ Trần Văn Hiển, giáo sư đại học và CPA ở tiểu bang Texas, Hoa kỳ.
Giáo sư Hiển hàng năm
đi công tác ở Việt Nam cho đại học của ông. Trong buổi phát thanh trứơc, ông
Hiển đă bàn về cấu trúc của nền Kinh tế Việt Nam. Kỳ này, chủ đề thảo luận
là sự cần thiết phải gia nhập WTO của Việt Nam. Mời quư thính giả theo dơi
cuộc trao đổi giữa BTV Nguyễn An của ban Việt ngữ vào giáo sư Hiển.
Bài 3: Sự cần thiết phải
gia nhập WTO của Việt Nam
Nguyễn An:
Ông nói kinh tế Việt Nam thiếu cân bằng. Ông có thể phân tích thêm vấn đề
này? Những đặc tính nào của nền kinh tế khiến ông đi đến nhận định như vậy?
Trần Văn Hiển:
Một nền kinh tế cân bằng là một nền kinh tế trong đó có nhiều ngành công
nghiệp khác nhau, chế tạo nhiều sản phẩm và dịch vụ khác nhau, và trao đổi
lẫn nhau. Người chế tạo một sản phẩm này, bán đi lấy tiền mua sản phẩm khác.
Ví dụ như người làm nông bán gạo mua xe, người làm xe bán xe mua gạo.
Đa số người Việt Nam
làm nông nghiệp và sản xuất quá thừa nông phẩm như gạo, cá basa, café, hạt
điều, v.v... Trong khi đó Việt Nam không có công nghiệp đa dạng đủ để nông
dân có thể trao đổi nông phẩm c̣n thừa. Việt Nam cần phải bán nông phẩm hay
nguyên liệu thừa cho nước ngoài, và mua sản phẩm công nghiệp từ nước ngoài.
Một nền kinh tế cân
bằng là một nền kinh tế trong đó có nhiều ngành công nghiệp khác nhau, chế
tạo nhiều sản phẩm và dịch vụ khác nhau, và trao đổi lẫn nhau. Người chế tạo
một sản phẩm này, bán đi lấy tiền mua sản phẩm khác.
Tiến sĩ Trần Văn Hiển
Nguyễn An:
Bây giờ th́ xin đi vào câu hỏi chính cho cuộc trao đổi hôm nay. Thưa giáo sư
Hiển, một cách đại thể, th́ tại sao Việt Nam cần gia nhập WTO?
Trần Văn Hiển:
Việt Nam cần gia nhập WTO để buôn bán với nhiều nước trên thế giới một cách
hữu hiệu và thu được nhiều lợi nhuận như sau:
Bán sản phẩm nông
nghiệp thừa. Từ ngày đổi mới, Việt Nam sản xuất nhiều nông phẩm hơn, và dư
dùng cho cả nước. Vào WTO, Việt Nam sẽ mở rộng thị trường cho nông phẩm như
cá basa, gạo, hạt điều, v.v…
Mua máy móc và dịch vụ
cao từ bên ngoài để hiện đại hóa và kỹ nghệ hóa đất nước.
Tạo công ăn việc làm
cho công nhân trẻ. Dân số Việt Nam tăng thêm mỗi năm chừng 1 đến 1 triệu
rưỡi người. Việt Nam cần những công ty nưóc ngoài đến, tạo công ăn việc làm
cho người dân, mặc dầu những công việc này trả rất ít tiền.
Tạo công ăn việc làm
cho những người nông dân không việc làm. 2/3 dân số của Việt Nam tức khoảng
54 triệu người sống bằng nghề nông. Nếu Việt Nam thành công trong sự hiện
đại hóa đất nước, th́ chừng bốn phần năm (4/5) nông dân sẽ không có việc
làm, và phải chuyển qua kỹ nghệ hay dịch vụ. Việt Nam cần công ty nưóc ngoài
vào, tạo việc làm mới cho những nông dân này.
Thu hút đầu tư nước
ngoài: Việt Nam vẫn là một nước nghèo, không đủ vốn đầu tư cho phát triển,
và do đó cần rất nhiều đầu tư từ nước ngoài. Trong đầu thập niên 90, Việt
Nam và Trung Quốc có khả năng thu hút đầu tư nước ngoài như nhau. Trong mười
năm vừa qua, đầu tư vào Việt Nam giảm đi rất nhiều và đầu tư vào Trung Quốc
tăng vụt lên. Một phần v́ Trung Quốc được vào WTO. Việt Nam cần phải vào WTO
để tăng uy tín đối với giới đầu tư nứơc ngoài và nhờ thế thu hút được nhiều
đầu tư hơn.
Những bất lợi cho nền
kinh tế
Nguyễn An:
Hiện nay th́ Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO. T́nh h́nh ấy đưa đến
những bất lợi nào cho nền kinh tế? Tức là những bất lợi mà nếu được gia nhập
tổ chức ấy th́ sẽ giải quyết được vấn đề?
Khi Việt Nam bắt đầu
buôn bán với Phưong Tây, Việt Nam gặp nhiều trở ngại lớn với những bạn hàng
mới. Vào WTO, Việt Nam sẽ tránh được rất nhiều trở ngại.
Tiến sĩ Trần Văn Hiển
Trần Văn Hiển:
Việt Nam là một nước xă hội chủ nghiă. Hai thập niên trước, Liên Sô và Đông
Âu là đồng minh chính trị, quân sự và vừa là bạn hàng mậu dịch của Việt Nam.
Sự sụp đổ của Liên Sô và tan ră của Đông Âu làm nền kinh tế Việt Nam mất chỗ
dựa. Khi Việt Nam bắt đầu buôn bán với Phưong Tây, Việt Nam gặp nhiều trở
ngại lớn với những bạn hàng mới. Vào WTO, Việt Nam sẽ tránh được rất nhiều
trở ngại như sau:
WTO bỏ quota/hạn ngạch
về may mặc cho hội viên. Vào năm 2005, WTO bắt đầu bỏ quota trên hàng may
mặc cho hội viên. Nếu Việt Nam không gia nhập WTO được sớm, th́ Việt Nam
không cạnh tranh được với những nước hội viên. Điều này có thể ảnh hưởng đến
công ăn việc làm của hàng triệu công nhân.
Mậu dịch với Mỹ bấp
bênh v́ luật Jackson-Vanik tu chính.
Trong năm 2004, Việt
Nam xuất cảng qua Mỹ trên 5 tỉ dollars. Đây là một con số rất lớn cho Việt
Nam. Thị trường Mỹ là một thị trường rất quan trọng cho Việt Nam.
Nếu Việt Nam muốn giao
thương với Mỹ được bền vững, Việt Nam cần được quốc hội Mỹ chấp nhận quy chế
“Quan hệ mậu dịch b́nh thường lâu dài” với Mỹ. Tiếng Anh gọi là “permanent
normal trade relations.” Trước đây người ta thường dùng từ tối huệ quốc,
“most favored nation” thay v́ “normal trade relations.”
Quan hệ mậu dịch b́nh
thường
Những nước có Quan hệ
mậu dịch b́nh thường lâu dài được 3 điều lợi: 1) thuế nhập cảng vào Mỹ thấp,
2) ngân hàng Mỹ được phép cộng tác trong việc mua bán, 3) không cần Tổng
thống hay quốc hội Mỹ phê duyệt hàng năm và tránh bị lôi kéo bởi chính trị
trong nước của Mỹ.
Jackson-Vanik tu chính
Nếu không được “Quan
hệ mậu dịch b́nh thường lâu dài” th́ cần có “Quan hệ mậu dịch b́nh thường
tạm thời” hay là quan hệ mậu dịch b́nh thường từng năm một. Hiện giờ Việt
Nam đang được quy chế mậu dịch này.
Việt Nam nằm trên danh
sách của Jackson-Vanik và trước đây không được Quan hệ mậu b́nh thường với
Mỹ. Nghĩa là hàng Việt Nam bị thuế cao và ngân hàng Mỹ không cộng tác trong
mậu dịch.
Tiến sĩ Trần Văn Hiển
Jackson-Vanik tu chính
ra đời vào năm 1974 với mục đích tạo thay đổi chính sách nhân quyền của
những nước xă hội chủ nghiă, có nền kinh tế không thị trường, và thựng tạo
khó khăn cho những người dân muốn di dân qua Phưong Tây. Việt Nam nằm trên
danh sách của Jackson-Vanik và trước đây không được Quan hệ mậu b́nh thường
với Mỹ. Nghĩa là hàng Việt Nam bị thuế cao và ngân hàng Mỹ không cộng tác
trong mậu dịch.
Mỗi năm tổng thống Mỹ
phải phê duyệt t́nh h́nh nhân quyền của Việt Nam. Nếu không có vi phạm trầm
trọng và quốc hội không chống đối, tổng thống tạm không áp dụng luật
Jackson-Vanik, và Việt Nam được quy chế mậu dịch b́nh thường thêm một năm
nữa. Đây là một bấp bênh lớn cho Việt Nam, v́ chính trị Mỹ Việt có nhiều
điều mâu thuẫn.
Trong tiến tŕnh gia
nhập WTO, Việt Nam có thể giải quyết được sự khó khăn này.
Làm sao giữ được ḷng
dân
Phương tây không chấp
nhận những nền kinh tế không thị trường. Ví dụ, Mỹ dùng lư do kinh tế không
thị trường để đánh thuế cá basa nhập vào Mỹ. Trong sự gia nhập WTO, Việt Nam
đang t́m cách thay đổi mô h́nh kinh tế quốc doanh để sẽ không c̣n bị gọi là
kinh tế không thị trường trong tương lai. Làm sao giữ được ḷng dân. Cái
thành công nhất của đảng CS Việt Nam trong 6 thập niên qua là những chiến
thắng quân sự, và những chiến thắng này bắt đầu nhạt dần trong ḷng người
dân. Đảng CS Việt Nam đang noi gương Trung Quốc và Singapore để giữ ḷng
dân. Chính quyền hai nước ấy là chính quyền một đảng, và được dân ủng hộ v́
Kinh tế của họ càng ngày càng tốt hơn.
Khi Việt Nam đàm phán
với Mỹ về hiệp ước song phương, nhiều người cho rằng Việt Nam sẽ không đủ
sức cạnh tranh với Mỹ. Việt Nam hiện rất thành công trong giao thương với Mỹ
và Đảng CS Việt Nam hy vọng là Việt Nam sẽ thành công ít nhất là tương tự
như thế sau khi gia nhập WTO. Sự thành công kinh tế này sẽ giúp ĐCS giữ được
ḷng dân.
chúng tôi hoan nghênh mọi ư kiến đóng góp thêm. Xin
gửi E mail về
Vietnamese@www.rfa.org
hay gọi điện đến 202 530 7775.
Vừa rồi là cuộc trao
đổi giữa BTV Nguyễn An của ban Việt ngữ và Tiến sĩ Trần Văn Hiển về sự cần
thiết phải gia nhập WTO của Việt Nam, là phần thứ ba của loạt bài phân tích
kinh tế về Việt Nam và WTO. Kỳ tới ông Hiển sẽ tŕnh bày về tổ chức WTO,
mong quư thính giả đón nghe. Cũng xin nhắc rằng ư kiến của giáo sư Hiển
không nhất thiết phản ánh quan điểm của ban Việt ngữ đài Á châu tự do, và
chúng tôi hoan nghênh mọi ư kiến đóng góp thêm. Xin gửi E mail về
vietnamese@www.rfa.org hay gọi điện đến 202 530 7775.
Việt Nam và WTO (IV)
2005.11.25
Tiến sĩ Trần Văn Hiển
- Nguyễn An
Thưa quư thính giả,
Việt Nam đă nộp đơn xin gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO cả thập kỷ
trước. Tuy nhiên, việc trở thành hội viên của tổ chức quốc tế này mới chỉ
trở nên cấp thiết trong đôi ba năm trở lại đây, khi nền kinh tế đă có những
bước phát triển tốt song song với yêu cầu hội nhập vào thế giới ngày càng
cấp thiết hơn.
 |
|
 |
|
Để t́m hiểu quá tŕnh
Việt Nam xin gia nhập WTO cùng những vấn đề liên quan đến việc gia nhập ấy,
ban Việt ngữ đài Á châu tự do đă thực hiện một loạt cuộc trao đổi với Tiến
sĩ Trần Văn Hiển, giáo sư đại học và CPA ở tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Giáo sư
Hiển hàng năm đi công tác ở Việt Nam cho đại học của ông.
Trong các buổi phát
thanh trước, ông Hiển đă phân tích đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam từ đó
đi đến nhận định là Việt Nam cần thiết phải gia nhập WTO. Nhưng WTO là ǵ và
tiến tŕnh xin gia nhập ra sao? Đó là chủ đề được bàn đến kỳ này. Mời quư
thính giả theo dơi cuộc trao đổi giữa BTV Nguyễn An của ban Việt ngữ và giáo
sư Hiển.
Bài 4: WTO là ǵ và tiến
tŕnh xin gia nhập
Nguyễn An:
Nói chung th́ gia nhập vào nền thương mại quốc tế có lợi ǵ?
Tiến sĩ Trần
Văn Hiển: Khi nhiều quốc gia gia nhập nền thương mại toàn cầu, mỗi
quốc gia sản xuất những ǵ mà họ giỏi nhất, chất lượng cao nhất, giá rẻ
nhất. Sau đó họ trao đổi với nhau. Kết quả là mọi quốc gia cùng lợi.
Nguyễn An:
WTO là ǵ?
Khi hai thành viên có
tranh căi, họ có thể nhờ WTO can thiệp. WTO cử những chuyên gia kinh tế đến
ḥa giải dùng những quy luật đă được đồng thuận. Đây là một biện pháp rất
hữu hiệu và ít tốn kém cho những thành viên bé hay nghèo.
Tiến sĩ Trần Văn Hiển
Tiến sĩ Trần
Văn Hiển: WTO là tổ chức mậu dịch quốc tế của 149 quốc gia thành
viên, nhằm thực hiện những quy luật thương mại đă được những quốc gia trên
đồng thuận. Các thành viên phải tuân theo những quy luật này khi trao đổi
với nhau. Khi có tranh chấp về mậu dịch, họ có thể nhờ đến WTO giải quyết
một cách nhanh chóng và hữu hiệu.
Nguyễn An:
Ông vừa nói là WTO có một hệ thống quy luật thương mại đồng thuận bởi mọi
thành viên. Những quy luật ấy có đặc điểm ǵ?
Tiến sĩ Trần
Văn Hiển: Hệ thống quy luật thương mại này có những đặc tính như
sau:
Không phân biệt đối xử
giữa những thành phiên. Tất cả mọi thành viên đều như nhau. Khi nhượng bộ
cho một thành viên, th́ phải nhượng bộ tất cả mọi thành viên khác.
Biết rơ về môi trường
pháp lư và thuế quan của mỗi thành viên trước khi bắt đầu mậu dịch.
Mậu dịch sẽ tự do và
cạnh tranh hơn v́ mọi thành viên phải tháo gỡ hàng rào cản trước khi trở
thành thành viên.
Nguyễn An:
Ông cũng nói là WTO giúp giải quyết tranh căi giữa các thành viên. Giải
quyết bằng cách nào?
Tiến sĩ Trần
Văn Hiển: Khi hai thành viên có tranh căi, họ có thể nhờ WTO can
thiệp. WTO cử những chuyên gia kinh tế đến ḥa giải dùng những quy luật đă
được đồng thuận. Đây là một biện pháp rất hữu hiệu và ít tốn kém cho những
thành viên bé hay nghèo.
Nguyễn An:
Tiến tŕnh xin gia nhập tổ chức quốc tế này ra sao? (III)
Hoa Kỳ là một thành
viên rất quan trọng đối Việt Nam v́ Hoa Kỳ có nền kinh tế lớn nhất thế giới,
là khách hàng lớn nhất của Việt Nam, và biết Việt Nam rất nhiều qua Hiệp ước
song phương.
Tiến sĩ Trần Văn Hiên
Tiến sĩ Trần
Văn Hiển: Tiến tŕnh gia nhập WTO gồm có năm bước chính:
- Quốc gia xin gia
nhập báo cáo cho WTO luật pháp và thủ tục thuế quan đang dùng trong nước.
- WTO cử một Hội đồng
làm việc (tiếng Anh gọi là Working Party) để làm việc với nước xin gia nhập.
Thành viên của HĐLV gồm những nước có nhiều quan tâm đến mậu dịch với quốc
gia này.
- Quốc gia xin gia
nhập phải trải qua nhiều đàm phán song phương với những thành viên có quan
tâm. Sau khi kết thúc một đàm phán song phương, th́ những thỏa thuận sẽ được
lưu trữ và thành quy luật thương mại trong tương lai nếu được WTO chấp nhận.
- Sau khi kết thúc mọi
đàm phán song phương, Hội đồng làm việc gom mọi quy luật đươc đồng thuận và
nộp vào một trong những buổi họp thường niên của WTO.
- Khi được ít nhất 2/3
thành viên chấp nhận, quốc gia này sẽ trở thành một thành viên mới, và những
quy luật đồng thuận mới được nhập vào thư viện của mọi quy luật đương thời
của WTO.
Hiện trạng của Việt Nam
Nguyễn An:
Vậy Việt Nam hiện đang ở chỗ nào trên tiến tŕnh ấy?
Tiến sĩ Trần
Văn Hiển: Việt Nam phải họp song phương với tất cả 29 nước, hiện đă
xong với 23 nước. 6 nước c̣n lại là Hoa Kỳ, Úc, Tân Tây Lan, và 3 nước nhỏ
khác.
V́ chưa được quy chế
Quan hệ mậu dịch b́nh thường lâu dài, Việt Nam vẫn ở trong t́nh trạng bấp
bênh v́ mỗi năm phải được Tổng thống Mỹ và quốc hội duyệt lại quy chế. Trong
trường hợp này, những nhượng bộ Hoa Kỳ dành cho những thành viên WTO khác sẽ
không áp dụng cho Việt Nam. Đây là một thiệt tḥi lớn cho Việt Nam, v́ hàng
hóa Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn ở Hoa Kỳ hơn.
Tiến sĩ Trần Văn Hiển
Nguyễn An:
Việt Nam hiện vẫn chưa kết thúc thương thảo với Hoa kỳ, và vẫn coi đó là
chặng đường gay go nhất. Ông vui ḷng phân tích những t́nh huống có thể xẩy
ra.
Tiến sĩ Trần
Văn Hiển: Hoa Kỳ là một thành viên rất quan trọng đối Việt Nam v́
Hoa Kỳ có nền kinh tế lớn nhất thế giới, là khách hàng lớn nhất của Việt
Nam, và biết Việt Nam rất nhiều qua Hiệp ước song phương. Đây là một số lănh
vực Hoa Kỳ muốn đàm phán:
- Bảo vệ sản phẩm trí
tuệ. Việt Nam hứa hẹn qua Hiệp ước song phương nhưng sản phẩm trí tuệ của
Hoa Kỳ vẫn bị bán lậu đầy đường ở Việt Nam như trước.
- Minh bạch hóa chính
quyền. Sau 4 năm mậu dịch với Hoa Kỳ, chỉ số minh bạch của chính quyền Việt
Nam vẫn vậy, chừng 2,5 đến 2,6. Một lần nữa, Việt Nam thay đổi quá ít, và
Hoa Kỳ không hài ḷng.
- Hoa Kỳ có mậu dịch
thâm thủng lớn với Việt Nam, chừng 4 tỉ dollars. Việt Nam có thể mở những kỹ
nghệ trọng điểm cho công ty Mỹ hay không.
- Không ai biết được
là đàm phán song phương Mỹ-Việt sẽ mất bao lâu.
Những yêu cầu của Việt
Nam
Nguyễn An:
Những yêu cầu của Việt Nam trong các cuộc đàm phán với Hoa kỳ là ǵ?
Tiến sĩ Trần
Văn Hiển: 3 mục đích chính của Việt Nam trong đàm phán song phương
với Hoa Kỳ là:
Chúng tôi hoan nghênh mọi ư kiến đóng góp thêm. Xin
gửi E mail về
Vietnamese@www.rfa.org
hay gọi điện đến 202 530 7775.
- Việt Nam được vào
WTO.
- Việt Nam được quốc hội Hoa Kỳ cho Việt Nam quy chế Quan hệ mậu dịch b́nh
thường lâu dài.
- Hoa Kỳ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường.
-Việt Nam muốn một lúc cả ba. Tuy nhiên Việt Nam có thể đặt từng mục đích
một như sau:
Việt Nam chỉ đạt được
một mục đích - Vào WTO. Sau khi đàm phán xong với Hoa Kỳ và 5 nước c̣n lại,
Việt Nam có thể gia nhập WTO trong vài tháng. V́ chưa được quy chế Quan hệ
mậu dịch b́nh thường lâu dài, Việt Nam vẫn ở trong t́nh trạng bấp bênh v́
mỗi năm phải được Tổng thống Mỹ và quốc hội duyệt lại quy chế.
Trong trường hợp này,
những nhượng bộ Hoa Kỳ dành cho những thành viên WTO khác sẽ không áp dụng
cho Việt Nam. Đây là một thiệt tḥi lớn cho Việt Nam, v́ hàng hóa Việt Nam
sẽ gặp nhiều khó khăn ở Hoa Kỳ hơn. Hiệp định song phương Mỹ-Việt kư năm
2001 sẽ thay thế đàm phán song phương. Ngược lại, những nhượng bộ của Việt
Nam cho thành viên WTO khác không áp dụng cho Hoa Kỳ. V́ Hoa Kỳ bán quá ít
cho Việt Nam, những nhượng bộ trên không đáng kể cho lắm.
Việt Nam đạt được 2
mục đích cùng lúc - Được quy chế Quan hệ mậu dịch b́nh thường lâu dài và vào
WTO. Trong trường hợp của Trung Quốc và Hoa Kỳ, Trung Quốc phải đợi một năm
sau khi kết thúc đàm phán song phương để được cả hai. Dùng trường hợp của
Trung Quốc làm điển h́nh, có lẻ Việt Nam phải đợi ít nhất đến năm 2007 để
được cả hai.
Việt Nam đạt được một
mục đích - Được quy chế kinh tế thị trường. Mục đích này c̣n tùy thuộc vào
Việt Nam trong sự cổ phần hóa những công ty quốc doanh. Mục đích này độc lập
với hai mục đích trên. Cuba và Trung Quốc, có nền kinh tế không thị trường,
nhưng vẫn là thành viên của WTO. Nếu không là kinh tế thị thường, hàng hóa
Việt Nam thỉnh thoảng có thể bị khó khăn ở một số nước nhất là Hoa Kỳ và
Liên Hiệp Âu châu.
Những việc cần làm
Nguyễn An:
Vậy trước mắt Việt Nam cần làm những ǵ?
Tiến sĩ Trần
Văn Hiển: Việt Nam phải làm nhiều lắm:
- Tạo nên và tu chỉnh
nhiều bộ luật và quy định đ̣i hỏi bởi những thành viên của WTO.
- Thay đổi cơ chế làm việc ở nhiều cơ quan để tăng sự minh bạch của chính
quyền.
- Thực hiện những hứa hẹn từ Hiệp đinh song phương Mỹ-Việt càng sớm càng
tốt.
- Cổ phần hóa công ty quốc doanh càng sớm càng tốt.
Vừa rồi là cuộc trao
đổi giữa BTV Nguyễn An của ban Việt ngữ và Tiến sĩ Trần Văn Hiển về Tổ chức
Thương mại thế giới WTO, là bài thứ tư của loạt bài phân tích kinh tế về
Việt Nam và WTO. Chủ đề thảo luận kỳ tới sẽ là, ‘Việc trở thành một hội viên
của WTO sẽ giúp Vịêt Nam hiệu chính những khó khăn nào của nền kinh tế?’,
mong quư thính giả đón nghe.
Cũng xin nhắc rằng ư
kiến của giáo sư Hiển không nhất thiết phản ánh quan điểm của ban Việt ngữ
đài Á châu tự do, và chúng tôi hoan nghênh mọi ư kiến đóng góp thêm. Xin gửi
E mail về vietnamese@www.rfa.org hay gọi điện đến 202 530 7775.
Theo ḍng sự kiện:
