Huyền
Thoại Về Hiểm Họa Trung Quốc
The Myth of China Danger
Nền
kinh tế quốc gia Trung Quốc (TQ) đă bắt đầu được vực dậy qua chương tŕnh hiện
đại hóa của Đặng Tiểu B́nh từ một phần tư thế kỷ vừa qua. Và trong ṿng 10 năm
trở lại đây, mức phát triển của TQ vẫn ở mức 8 – 9% hàng năm. Điều nầy đă làm
thế giới ngạc nhiên nhất là qua các cuộc khủng hoăng tiền tệ ảnh hưởng lên các
nước trong vùng mà TQ vẫn tiếp tục phát triển chứ không bị suy thoái. Trong
những tháng gần đây, báo chí trên hầu hết khắp nơi đều đặt vấn đề và xem đây là
một hiện tượng “con rồng TQ” bắt đầu trở ḿnh và một đất nước “Thiên Tử” đang
hồi sinh.
Hỏi 1: Nhưng qua các thành tựu trên, chúng ta có thực sự thấy những ǵ đang diễn
ra ở TQ qua các thành quả đă đạt được ngày hôm nay? Xin TS MTT cho biết ư kiến
về t́nh h́nh phát triển chung của TQ?
Đáp 1: Trước hết chúng tôi xin liệt kê ra đây vài số liệu căn cứ vào thông tin
của cia.gov vào tháng 7/2004 trên mạng lưới toàn cầu, để nói lên t́nh trạng phát
triển chung của TQ:
Trung Quốc là một nước lớn chiếm diện tích 9,3 triệu Km2, có dân số là 1,3 tỷ
tính đến tháng 4/2004. Mức gia tăng dân số là 0,57% (2004). Số tuổi trung b́nh
là 31,8 tuổi. Lực lượng lao động của TQ lớn nhất thế giới với 778 triệu (2003),
trong đó tỷ lệ lao động được chia ra như sau: Lao động nông nghiệp, 50% (2001),
lao động kỹ nghệ, 22% (2001) và lao động dịch vụ, 28%. Trung b́nh mức lạm phát
vào khoảng 1 đến 2%. Lợi tức đầu người là 900 Mỹ kim (2004). Măi lực ṭan quốc
(Purchasing power parity) năm 2003 là 6.449 tỷ Mỹ kim đưa đến măi lực đầu người
là 5.000 Mỹ kim (2003).
Hỏi 2: Các số liệu trên nói lên t́nh trạng phát triển của TQ như thế nào, xin Ô.
đi sâu vào chi tiết.
Đáp 2: Cho đến nay, định mức sự phát triển của một quốc gia vẫn c̣n căn cứ vào
thuyết “tam khu” của Colin Clarke, trong đó gồm khu nông nghiệp, khu công
nghiệp, và khu dịch vụ. Từ đó qua sự phát triển, và qua từng giai đoạn, chỉ số
phát triển của một quốc gia được tính toán qua tỷ lệ của từng khu vực.
Như đă nói ở phần trên, TQ đă đi đôi hia “bảy dặm” bằng cách mở cửa giao tiếp
với thế giới bên ngoài từ năm 1979 dưới thời Đặng Tiểu B́nh với một phương châm
bất hủ là:” Dù mèo trắng hay mèo đen cũng chẳng sao, chỉ cần biết bắt chuột là
được”. Trong tinh thần thực dụng trên, TQ đă thành công và đưa đất nước ra khỏi
tụt hậu chỉ trong một thời gian không dài.
Hỏi 3: Lư do tại sao chương tŕnh hiện đại hóa của ĐTB́nh đă thành công?
Đáp 3: Thưa anh, ngay cả trong khi mở cửa, TQ đă vận dụng được thị trường nội
địa (1,3 tỷ) để đẩy mạnh kỹ nghệ sản xuất hàng tiêu dùng. Chính nhờ kỹ nghệ nầy
và đây cũng là lư do chính yếu, TQ đă chuyển dịch được một số lớn lao động trong
nông nghiệp chiếm tỷ lệ từ 70% (1970) xuống c̣n 50% (2001). Cho đến hôm nay, mức
đói nghèo của TQ đă giảm xuống c̣n 16%, và mức dự trử ngoại tệ nặng của TQ trong
năm 2004 là 414 tỷ Mỹ kim.
Trong những năm trở lại đây, TQ đă phát triển vượt bực, cao hơn mức dự tính của
thế giới. Vào năm 2004, Ngân hàng Phát triển Á châu đă dự tính TQ sẽ tăng 7,9%.
Nhưng trên thực tế TQ đă gia tăng 9,3%. Có nhiều lư do đúc kết sự thành công
vượt bực của TQ cho những năm gần đây là:
1 – Đất nước TQ không phải chịu những tai ượng thiên nhiên ảnh hưởng đến phát
triển như những quốc gia trong vùng. Cuộc khủng hoăng dầu hỏa gần đây đă được TQ
kiểm soát và điều tiết chừng mực do đó không tạo ra khủng hoảng năng lượng như
những năm 1979-1980.
2 – Phát triển kinh tế ở TQ hiện tại vẫn c̣n trong giai đoạn xử dụng ít năng
lượng hơn so với các quốc gia kỹ nghệ tiên tiến;
3 – Qua vốn đầu tư ngoại quốc, TQ đă cân bằng được mức phát triển qua những dịch
vụ thâm thủng trong cán cân thương mại xuất nhập nguyên liệu và thành phẩm.
Trong bảng xếp hạng 50 Đại công ty ṭan cầu năm 2004, Cty China Petroleum &
Chemical của TQ được xếp vàp hạng 9 với số thương vụ là 16,7 tỷ Mỹ kim, tăng 39%
so với năm 2003, chỉ đứng sau các cộng ty Dow Chemical, BASF, Du Pont, Exxon,
Total v.v...
4 – Phát triển TQ hiện nay đang dựa vào đầu tư ngoại quốc, do đó sự gia tăng giá
dầu thô đă được mức ngoại tệ đầu tư trên bổ xung vào mức thiếu hụt.
5 – Quan trọng hơn cả là 1,3 tỷ nhân khẩu nội địa. Hiện tại người dân TQ c̣n cần
quá nhiều nhu cầu để phục vụ tối thiểu cho đời sống của người dân ở một quốc gia
tân tiến, do đó kỹ nghệ TQ chỉ cần tập trung vào những mũi dùi phát triển là có
thể làm cho kinh tế cất cánh mau. Những mũi dùi phát triển đó là những mặt hàng
thông dụng như xe cộ, tủ lạnh, microwave, máy giặt, máy xấy, truyền thanh,
thuyền h́nh, xây dựng, và những mặt hàng gia dụng khác v.v...
Hỏi 4: Như vậy, quá tŕnh phát triển của TQ có phải là một quá tŕnh thực sự bền
vững trong công cuộc phát triển quốc gia hay không?
Đáp 4: Thưa anh, thiết nghĩ, sự phát triển kinh tế của TQ ngày hôm nay chỉ là
một quá tŕnh chuyển tiếp mục đích để phục vụ nhu cầu cần thiết cho người dân
của nước nầy, hầu có được một đời sống vật chất “tử tế”. Một khi mức sống tối
thiểu của người dân đă được bảo ḥa, vấn đề phát triển kinh tế của TQ sẽ chuyển
qua một tiến tŕnh khó khăn hơn nữa mà lănh đạo TQ cần phải tiên liệu cho tương
lai, nếu muốn ngăn chặn những cơn khủng hoăng xă hội có thể xảy ra sau đó. Đó là
việc chuyển tải lực lượng lao động qua công nghiệp và dịch vụ. Ở các quốc gia đă
phát triển như Tây Âu và Bắc Mỹ, lực lượng lao động nông nghiệp không quá 15%.
Riêng tại Hoa kỳ, lực lượng nầy chỉ c̣n dưới 2 triệu, so với gần 300 triệu dân
mà vẫn có đầy đủ lương thực cho nước Mỹ cũng như viện trợ cho hầu hết các nước
nghèo trên thế giới.
Hỏi 5: Qua những nhận xét và phân tích ở phần trên, chúng ta thấy TQ đang có
những bước phát triển “nhanh” trong tiến tŕnh hiện đại hóa quốc gia. Nhưng
những bước phát triển nhanh đó có thực sự là một thực tế hay không, thưa Ông?
Đáp 5: Chúng tôi nghĩ những bước phát triển của TQ chỉ là những bước đột phá ban
đầu. Thực sự những chỉ số phát triển vừa nêu trên chỉ là những chỉ số biểu kiến
và tương đối trong việc ổn định xă hôị TQ hiện nay mà thôi.
Gọi là biểu kiến v́ trong quá tŕnh phát triển quốc gia, TQ đă để lại biết bao
vấn nạn môi trường với ảnh hưởng và hậu quả nghiêm trọng chắc chắn sẽ xảy ra
trong một vài thập niên tới. TQ không có chính sách cân bằng phát triển và quản
lư môi trường. Do đó, t́nh trạng môi trường ngày càng xuống cấp: không khí đầy
bụi bậm chưá các kim loại độc hại như ch́ (lead) và thủy ngân (mercury) cùng
nhiều hợp chất hữu cơ nhẹ, nguồn nước ở nhiều nơi không c̣n sự hiện diện của tôm
cá và đă là những “ḍng sông đen”, đặc biệt là trong các phụ lưu của sông Hoàng
Hà và Dương Tử. Ngay cả ḍng chảy của sông Hoàng Hà đă chậm dần so với trước
kia, và không c̣n chảy ra biển nữa. Thành phố Vân Nam đă biến thành khu đại kỹ
nghệ hóa chất và khi gió đổi chiều, khói và bụi thành phố đă di chuyển đến
tận...Hoa Kỳ. Thành phố Thượng Hải và thềm lục địa chung quanh đang bị báo động
về ô nhiễm.
Hỏi 6: C̣n gọi là phát triển tương đối là thế nào, ông có thể nói rơ thêm?
Đáp 6: Gọi là tương đối, v́ sự phát triển của TQ chỉ tương đối so với nhu cầu
của 1,3 tỷ dân chúng và thị trường nhân công rẻ mạt. Các chương tŕnh hiện đại
hóa điển h́nh của TQ sau đây thể hiện rơ nét của tính tương đối trong phát triển
của TQ. Theo một báo cáo của Hàn Lâm Viện TQ (Chinese Academy of Sciences, 2004)
th́ TQ đă phát triển chậm hơn so với Hoa Kỳ 100 năm, với Đức Quốc 70 năm, và 60
năm so với Nhật Bản.
Vào năm 2001, măi lực tính theo đầu người của một người TQ là 3.583 Mỹ kim (năm
2004 lên đến $5.000), trong lúc đó thời điểm một người Hoa Kỳ có măi lực trên là
vào năm 1892 , tức 109 năm trước đó. Vào năm 2002, lợi tức người dân HK là
35.400 Mỹ kim, tăng 4% so với năm trước đó, tức tăng 1.416 Mỹ kim. Trong lúc đó,
lợi tức của một người TQ ở thời điểm trên là 900 Mỹ kim, tăng 8% so với năm
trước, tức 72 Mỹ kim. Qua các số liệu trên, chứng tỏ rằng dù mức tăng trường
hàng năm của TQ có là 15%, th́ khoảng cách lợi tức so với HK cũng ngày càng cách
xa dù KH chỉ tăng trưởng 3-4% mỗi năm.
Thêm nữa, theo một báo cáo của Chương tŕnh Môi trường LHQ vào năm 2002, hậu quả
của việc phát triển ồ ạt ở TQ và lơ là trong việc bảo vệ môi trường làm cho chi
phí ước tính cho việc giải quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường có thể lên đến 7%
tổng sản lượng quốc gia. Nói như thế, có nghĩa là với mức tăng trưởng trung b́nh
hàng năm là 8 – 9%, nhưng trên thực tế, mức tăng trưởng thực sự chỉ vào khoảng
2% mà thôi, cộng thêm sự di hại môi trường ảnh hưởng đến các thế hệ về sau nữa.
Hỏi 7: Như vậy, để kết luận, TS vẫn cho rằng hiễm họa TQ ảnh hưởng lên phát
triển ṭan cầu chỉ là một huyền thoại. V́ đâu Ô. có lập luận nầy?
Đáp 7: Chúng tôi vẫn nh́n thấy TQ hiện nay vẫn c̣n là một quốc gia đang phát
triển dù hiện đang thúc đẩy rất mạnh tiến tŕnh hiện đại hóa và khó có thể h́nh
dung được một h́nh ảnh TQ vượt trội lên hàng quốc gia phát triển trong ṿng 30 –
40 năm tới.
Cũng theo tài liệu của Hàn Lâm Viện Khoa học TQ, TQ sẽ vươn lên thứ hạng 39 về
kinh tế so với các quốc gia trên thế giới vào năm 2080, và hiện nay (2005), TQ
đang được xếp vào hạng 69.
Ngay tại Hội thảo “Tổng kết 20 năm đổi mới ở Hà Nội ngày 1/7/2005, TS Carlyle
Thayer (Úc) nhấn mạnh rằng:” Sau một phần tư thế kỷ cải cách, mô h́nh TQ không
thể giải quyết được những vấn đề cấp bách như cấu trúc ngân hàng và tài chánh
yếu kém, quốc doanh bị nợ nặng nề, tham nhũng tràn lan. Việt Nam cũng đang đối
mặt với nhiều vần đề tương tự, và việc học tập mô h́nh TQ không thể giúp Việt
Nam giải quyết được”.
Do đó, để kết luận cho trường hợp TQ là quốc gia nầy sẽ không bao giời trở thành
một huyền thoại trong tiến tŕnh hiện đại hóa theo chiều hướng hiện tại, trừ phi
có một sự thay đổi năo trạng và quan điểm đúng đắn về việc bảo vệ môi trường,
vấn đề cần phải được đặt ưu tiên hàng đầu trong phát triển quốc gia.
Cũng cần nói thêm cho trường hợp Việt Nam là, mô h́nh hiện đại hóa của TQ sau ¼
thế kỷ đă mang lại cho Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm về các mâu thuẫn trong
phát triển hơn là một khuôn mẩu để phát triển. Nhưng tiếc thay, cho đến hôm nay,
Việt Nam vẫn c̣n rập khuôn theo tiến tŕnh trên, một tiến tŕnh chắc chắn sẽ đưa
đất nước vào ngơ cụt.
Mai Thanh Truyết
Hội KH&KT Việt Nam (VAST)
8/2005