Người Việt với
kiếp nô lệ
Lê Diễn Đức
http://www.danchimviet.com/php/modules.php
name=News&file=article&sid=776
Đọc bài của người bạn Tưởng Năng Tiến trong Ban Biên Tập: “Hoa sữa, Phương
Nam và công an (Phường)”, (www.danchimviet.com, 06/11/2005), không hiểu
sao ḷng tôi nao nao đến lạ lùng.
Tự dưng thấy ḿnh bị lạc vào cơi bi quan, thất vọng, ngậm ngùi với thân phận:
“Tôi xớ rớ, bơ vơ, lơ ngơ, lớ ngớ - ở tận một nơi thật xa nên cũng rất lạnh
nhạt trước những biến chuyển lịch sử đang diễn ra trên đất nước của ḿnh. Và e
rằng đây cũng là thái độ chung của nhiều người, những người Việt đă rời khỏi Tổ
quốc ra đi (cách đây chưa bao lâu) v́ những lư do - vô cùng - chính trị”.
Tất nhiên, tôi thấy ḿnh không lạnh nhạt như Tiến tưởng. Và Tiến cũng vậy thôi.
Người ta vẫn hay nói, giận cá bằm thớt, hay tức vợ đá chó mà! Nhưng buồn vẫn
buồn.
Tôi chợt nhớ cách đây không lâu tôi có viết một bài về văn hoá sợ hăi và nô lệ
của người Việt ở Đông Âu nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Ngẫm nghĩ, có lẽ
ḿnh cũng nên bày tỏ lại, đúng trong tâm cảnh này, trong sự cảm thông, trong nỗi
buồn tê tái của kẻ xa xứ, chẳng biết đến bao giờ mới được trở lại Việt Nam thân
yêu. Nhiều bạn Việt kiều (có vẻ) chống cộng dữ dội (nhưng chưa đủ can đảm dùng
tên thật) trên diễn đàn này và rất có thể, các bạn về Việt Nam dài dài không khó
khăn ǵ? Tôi, chúng tôi th́ khác. Nếu có quốc tịch Ba Lan như Cao Ngọc Quỳnh,
Trần Ngọc Thành, Nguyễn Thanh Sơn … th́ không được cấp visa, c̣n chỉ có thẻ định
cư mà vẫn sử dụng hộ chiếu Việt Nam th́ trở về Việt Nam có nghĩa là nộp ḿnh cho
quỷ, vào nhà đá mà “sám hối”.
Do ít thông tin và không chung đụng thực tế, người Việt sống tại các nước tư bản
Tây Âu, Mỹ, Úc hay Canada hiểu không bao nhiêu về người Việt thuộc các nước cựu
cộng sản như Nga, Ba Lan, CH Czech, Hungari, một phần phía Đông của CHLB Đức. Họ
là một bộ phận không thể tách rời khỏi cái khối gần 3 triệu người ở nuớc ngoài.
Họ là ai? Họ sống như thế nào?
Tại các nước này, dư luận nói chung cho rằng người Việt tới quốc gia của họ chủ
yếu v́ lư do kinh tế. Dường như bị quên lăng một điều rằng song song với hy vọng
ra đi t́m một cuộc sống kinh tế khá hơn, kiếm tiền cứu ḿnh và cứu gia đ́nh,
không ít người muốn thoát khỏi không khí chính trị ngột ngạt trong nước, v́ lư
do thấp cổ bé miệng, bị chèn ép, không có cơ hội làm ăn tiến thân.
Hầu hết họ xuất phát từ các gia đ́nh nghèo ở nông thôn thuộc các tỉnh của miền
Bắc như Thanh Hóa, Nam Định, Thái B́nh, Hưng Yên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Nghệ An,
Hà Tĩnh…
Để có một món tiền từ khỏang 5- 6 ngàn USD cho cuộc “hành hương - Exodus” về
miền “đất Hứa”, nhiều gia đ́nh đă phải bán nhà cửa, cầm cố, vay nặng lăi. Con
đường bắt đầu từ mảnh đất h́nh chữ S, đến nước Nga, hợp pháp bằng hộ chiếu do
nước CHXHCN Việt Nam cấp (mất 100 đến 200 USD do “dân dịch vụ” bao thầu) với
chiếu khán du lịch của toà Đại sứ Nga tại Hà Nội (cũng nằm luôn trong khâu trọn
gói).
Từ Nga, trèo rừng, lội suối, lắm khi phải chờ đợi “thời cơ” hàng tháng trời tại
Ucraine hay Belarus ở những điểm sát biên giới (do “dân dịch vụ” sắp đặt) với
những điều kiện sống dành cho súc vật, để vượt hàng rào biên pḥng trốn sang Ba
Lan, CH Czech hay Slovakia… Sau khi trót lọt, họ sẽ được “đường dây” gom lại một
địa điểm, thường th́ đưa ra thẳng ra chợ trời (ở Ba Lan là chợ “Sân vận động X
năm”) rồi gọi phôn cho người nhà mang tiền ra “chuộc mạng”. Họ ở lại với người
thân (đương nhiên là “trên răng dưới… dép”, không giấy tờ cư trú, lúc nào cũng
nơm nớp sợ cảnh sát kiểm tra), hoặc tiến xa hơn về phương Tây (chủ yếu là CH
Liên Bang Đức), t́m cách tị nạn. Không hiếm những người tới đích nhưng không nơi
dựa dẫm, chót ra đi v́ bị dụ dỗ ngon ngọt của đám buôn người, muốn về lại Việt
Nam cũng không xong, đành chịu kiếp vất vưởng, bơ vơ, làm thuê trả nợ dần chi
phí chuyến đi, trước mắt để có cái ăn và chỗ dung thân mà sống. Không ít trường
hợp phải ăn cắp, vừa chân ướt chân ráo đă bị vào tù. Tôi đă làm phiên dịch cho
toà án trong nhiều phiên xử. Mỗi lần như thế, nh́n những người đồng hương chân
chất đến ngây ngô mà thấy đau ḷng, xấu hổ cho dân tộc Việt, xót xa cho những
cuộc đời bất hạnh này.
Con đường tới đích dài hay ngắn, trót lọt hay vào tù hoàn toàn phó thác cho số
phận, may rủi và nằm trong tay của những kẻ buôn người, được thiết lập chặt chẽ
từ “căn cứ địa cách mạng” tại Việt Nam. Bi kịch xảy ra thường xuyên. Có người bị
chết ngạt v́ bị lèn trong cốp xe tới 5, 7 người theo kiểu cá hộp. Có người vừa
hân hoan đón được vợ, người yêu th́ cũng bàng hoàng đau đớn với cái bầu ch́nh
́nh của vợ, người yêu mà chẳng biết là của ai (?). Chuyện ǵ mà không thể xảy ra
khi phải sống chung, ăn chực nằm chờ và tầm gửi vào tay kẻ ác? Tôi có quen một
chị tên L., sau những ngày chờ bị buộc làm việc cực nhọc cho tay chủ nhà người
Ucraine, bị đói khát và phục vụ t́nh dục, măi hơn nửa năm mới tới được Ba Lan,
cả gia đ́nh đều nghĩ chị đă chết trên đường. Chồng chị là một thương binh với
hàm thiếu tá Quân đội Nhân dân Việt Nam (!), c̣m cơi bằng nghề vắt than quả
bàng, nuôi lợn với 3 người con nheo nhóc. Nhờ những đứa con, anh đă không bị
điên v́ mất tiền, nặng nợ mà vợ th́ bặt âm vô tín. “Nhờ Trời, em thoát nạn. Em
đi giữ trẻ cho một gia đ́nh người Việt tử tế, mỗi tháng người ta trả em 350 đô,
bao ăn, em dành 50 đô góp tiền thuê nhà, chi phí đi lại, sinh hoạt cá nhân
khoảng 100 đô nữa, c̣n lại th́ gửi về cho chồng, vừa nuôi con, vừa trả nợ... Vợ
chồng em xác định phải xa nhau 4, 5 năm, dù sao cũng c̣n tốt hơn ngàn lần ở Việt
Nam. Làm sao em có thể kiếm được từng ấy tiền mỗi tháng…” – Cô kể với tôi như
thế.
Cái khổ mà những người miền Bắc hiện nay t́m đường sang Đông Âu dù ít nguy hiểm
hơn, nhưng có lẽ không kém phần gian nan, tủi nhục so với hàng triệu người miền
Nam vượt biển ra đi sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Có cái khổ nào giống cái nào?
Đây là nỗi đau chung, là tiếng kêu bi thảm của cả dân tộc, nơi mà con người phải
ĺa bỏ quê hương, phiêu bạt nơi đất người để mưu sinh.
Thế nhưng có một điều rất lạ mà tôi không hiểu nổi. Những con người đáng thương
kia, h́nh như họ không nhận thấy ḿnh là nạn nhân của những kẻ cầm quyền vô
trách nhiệm, bị lưu manh hoá, đẩy một bộ phận lớn nhân dân vào ṿng nghèo đói?
Tôi chỉ thấy họ nhẫn nhục, im lặng chịu đựng trước bạo quyền. Họ lánh xa chính
trị và không bao giờ dám có biểu hiện nào chống đối.
Một thực tế phũ phàng, cay đắng luôn bủa vây, trùm bọc lên con người và cuộc
sống của đại đa số người Việt ở đây là sự hèn nhát trước bạo lực của chế độ độc
tài Hà Nội. Họ sợ thật sự, sợ lắm, không hề dấu diếm. Có lẽ họ sợ liên luỵ đến
người thân c̣n ở quê nhà và mong ngày về với chút tiền dành dụm, không bị ai
sách nhiễu?. Một anh bạn tên N.V.T., có bằng tiến sĩ địa - vật lư, buôn lậu một
cây, nhờ “thẻ Đỏ” (*) mang hàng lậu mà thành “Soái”, nói xấu (lén) Đảng và nhà
nước có hạng, không dưới một lần trong các buổi ăn nhậu đă thản nhiên phát biểu:
“Tôi thừa nhận tôi hèn, chúng tôi hèn”.
Câu hỏi được đặt ra là tại sao lại có nghịch lư đó. Có rất nhiều người lư giải
rằng khi người ta thoát khỏi sự chết chóc của chiến tranh, vượt qua những năm
tháng thiếu ăn, thiếu mặc, th́ dẫn đến tâm lư tự nhiên là muốn an phận, tự hài
ḷng để tồn tại. Những ǵ mà họ có trong tay thời b́nh bây giờ là tốt đẹp lắm
rồi, thời chiến có bao giời dám mơ tới.
Văn hoá sợ hăi và nô lệ không chỉ hiện hữu tại Việt Nam mà ngay trên cả những
miền đất tự do họ t́m đến để mưu cầu một cuộc sống khác, tốt đẹp hơn. Với một
guồng máy công an khổng lồ nuôi bằng tiền thuế của dân, đảng cộng sản Việt Nam
trong hơn nửa thế kỷ qua đă thành công trong việc huấn luyện hàng chục triệu con
người thành những sinh vật, (tôi nhấn mạnh: những sinh vật) nhút nhát. Những
sinh vật này trước sự đàn áp và nhà tù của bạo quyền luôn luôn phải sống lá mặt
lá trái, cúi đầu v́ mưu sinh, “ngậm miệng ăn tiền”, mặc dù trong thâm tâm họ có
đủ nhận thức để thấy bản thân và đồng loại bị cướp đoạt đi những quyền cơ bản
nhất của con người. Cái cách sống đó ăn sâu vào máu thịt người Việt từng sống
dưới chế độ cộng sản và họ ẵm nguyên xi như thế sang Đông Âu. Bóng ma cái Ác của
chính quyền cộng sản Việt Nam vẫn thường trực ám ảnh, thôi miên, nhắc nhở và đe
doạ họ. Việc nhiều người trí thức thản nhiên thừa nhận ḿnh là kẻ hèn, như tôi
đă nói về anh bạn, hèn v́ không dám nói lên khát vọng dân chủ cho đất nước mà
chính ḿnh cũng trăn trở, chứng minh cho nhận định nêu trên. Đây một hiện tượng
bất b́nh thường về nhân cách của “trí thức xă hội chủ nghĩa” Việt Nam nói chung.
Đất nước với t́nh trạng tham nhũng trở thành quốc nạn, tệ nạn xă hội ở mức quy
mô đang đẻ ra một thế hệ vô trách nhiệm, một kỷ nguyên của chủ nghĩa thực dụng,
ham muốn hưởng thụ, “makeno” (Mặc kệ nó). Cuộc sống của tuổi trẻ thành thị đồng
nghĩa với ăn chơi đua đ̣i, quần xệ mông, áo hở rốn, “chích – chat”, chơi game
trực tuyến, x́ ke, đua xe, xuất ngoại … Đồng tiền đang là thước đo cho mọi chân
giá trị của Việt Nam thời “định hướng xă hội chủ nghĩa”. “Có tiền mua tiên cũng
được”, “tiền là sức bật của tuổi trẻ, sức khoẻ của của già, là cái đà hy vọng,
là cái lọng che thân, là cán cân công lư…”. Một người bạn thân sau chuyến về
Việt Nam cưới vợ mới đây nói với tôi rằng, nếu lái xe ở Việt Nam chẳng may gây
tai nạn, đụng người bị thương th́ tốt nhất là đâm cho chết luôn, sau đó hoặc
thương lượng đền tiền cho gia đ́nh bị nạn, tương đương 2 ngàn đô, hoặc dùng tiền
mua quan toà chạy tội. Trong trường hợp ngược lại, tức là phải nuôi người bị nạn
suốt đời th́ “đứt bóng”. Mạng của người dân Việt thời nay rẻ mạt như thế ư?
Nhiều người về nước sang hả hê kể về sự thay đổi của Việt Nam, về đời sống phóng
túng, thoải mái, “có tiền là có hết”... cứ như Việt Nam đang là một thiên đàng
của tự do, nhưng hỏi Phạm Hồng Sơn, Lê Chí Quang, Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Vũ
B́nh, Hà Sĩ Phu… là ai th́ không hề biết. Đành rằng nhà nước bưng bít kín như hũ
nút th́ làm sao ai nghe, ai thấy. Nhưng thực trạng bàng quang với nhân t́nh thế
thái là phổ biến.
Đến thăm hầu hết các gia đ́nh người Việt tại các nước Đông Âu, chúng ta thấy
phương tiện giải trí cơ bản nhất của họ là đọc báo từ trong nước nhập qua, xem
các bộ phim rẻ tiền của Việt Nam, Trung quốc, Nam Hàn, nghe nhạc Việt, chơi bài,
đánh bạc, cá độ vào những mùa bóng đá và xem chương tŕnh truyền h́nh qua vệ
tinh VTV 4.
Người ta lư giải cho việc giữ ǵn bản sắc văn hóa dân tộc nhưng quên rằng họ
đang cọ xát hàng ngày với một nền văn hóa khác của bản xứ, của cái đất nước đang
chứa chấp, bao dung và cưu mang họ. Rất nhiều và rất nhiều, kể cả những người
mang bảng hiệu kỹ sư, tiến sĩ, sống đă xấp xỉ một vài thập niên ở đất người
nhưng nói tiếng bản xứ vẫn phải bằng tay là chính, chưa một lần đi nhà hát, xem
phim ở rạp hay thăm một viện bảo tàng nào đó với gia đ́nh. Cuộc sống văn hóa của
quốc gia tạm dung thân (nhưng chưa biết ngày về) không là mối quan tâm của họ.
Làm ăn tử tế có, buôn gian, bán lậu, trốn thuế, các kiểu phi pháp khác nhau có,
nghĩa là họ tận dụng tối đa nền dân chủ của xứ người để làm giàu, kiếm tiền,
nhưng lại t́m mọi cách hạn chế sự đóng góp cho chính cái xă hội đă và đang tạo
cơ hội cho ḿnh và con cháu ḿnh.
Tất cả những điều nêu trên, theo tôi là di hoạ của nền giáo dục cộng sản, căn
bệnh ung thư của văn hoá “nô lệ và sợ hăi”. Nó tạo nên một biến tướng mang tầm
vóc dân tộc. Đạo đức và các giá trị truyền thống như t́nh hàng xóm tối lửa tắt
đèn có nhau, tôn sư trọng đạo, tiên học lễ, nhị học văn, vân vân, đang trượt dài
trên con đường tàn lụi, tiêu vong.
Do đó, nếu có một sự đổi thay cơ bản th́ họa chăng vài chục năm sau đối với thế
hệ các cháu nhỏ được sinh ra và giáo dục trong nền văn hóa bản xứ. Điều này cũng
không hoàn toàn đơn giản khi nếp sống của cha mẹ ảnh hưởng trực tiếp lên chúng
trong nuôi dưỡng hàng ngày. Cũng chính v́ vậy, người Ba Lan nói cộng đồng người
Việt là một tập hợp khép kín là hoàn toàn chính xác. Một cộng đồng mà bản chất
luôn hướng nội, tự ty, không vượt qua được sợ hăi để sống thật với chính ḿnh,
tự thân biến thành con tin của nhà nước cộng sản và góp phần kéo dài sự cai trị
của nó.
Đất nước chúng ta đă có gần 30 năm ḥa b́nh mà sao măi không ngớt ḍng người
tiếp tục từ bỏ Tổ quốc để ra đi? Hết Nam đến Bắc. Hàng trăm ngàn người dù biết
tủi nhục, dù phải gạt nước mắt xa cha mẹ đi làm "vợ dịch vụ” người Đài Loan, Đại
Hàn, đi lao động xuất khẩu, làm nô lệ t́nh dục hay làm cu-li kéo xe ở Ba Lan,
vẫn chạy các cửa để “lên đường”! Nhà cầm quyền Hà Nội nói sao về hiện tượng này?
Lănh đạo một đất nước mà những người con dân rủ nhau ĺa bỏ nó ra đi hoài hoài
th́ chỉ có thể là đất nước đă rơi vào tay một đám quân vô lại, bất nhân.
Hăy gỡ đi bảng hiệu dối trá :“Chủ trương của nhà nước là khuyến khích bà con làm
thế nào để ổn định cuộc sống, hội nhập vào đất nước mà ḿnh đang sống...” (
***).
“ Freedom is not free” - Tự do không cho không - Đó là câu viết trên đài tưởng
niệm các chiến sĩ đă hy sinh trong hai cuộc chiến thế giới tại Washington. Tôi
rất tâm đắc ḍng chữ này trong chuyến thăm quan nhân cuộc họp mặt Đàn Chim Việt
tại New Jersey vừa qua.
Việt Nam chỉ có thể tiến nhanh tới xă hội dân chủ tự do khi người Việt dám dũng
cảm rũ bỏ văn hoá sợ hăi và nô lệ và tư tưởng dân chủ dọn sẵn, “dân chủ ḿ ăn
liền”, há miệng chờ sung rụng, sẵn sàng đối đầu với bạo quyền, bằng mọi h́nh
thức và linh hoạt tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể của từng người!
Rồi chúng ta sẽ thấy, những kẻ cơ hội, “gió chiều nào theo chiều ấy”, những tên
đầu cơ chính trị, ngày hôm nay (giả vờ) tung hô Đảng, Bác Hồ, hoặc vụng trộm đi
đêm, đánh đĩ với Hà Nội, ngày mai chúng sẽ là những kẻ to mồm nhất gọi dân chủ
là “Thượng đế” và chưa chừng, chính chúng sẽ thích dựng giá treo cổ cho những
người đồng chí của ḿnh trước đây (như ông A. Michnik nói về những người cộng
sản Ba Lan), chứ không phải những người đang tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam
hiện nay đang phải chịu tù đày, áp bức. Khác với bản chất của cộng sản chuyên
chính, những người yêu tự do và dân chủ chân chính không bao giờ lấy hận thù làm
cớ để thực hiện và biện minh tội ác.
Khi Việt Nam có một nền dân chủ, tự do đúng nghĩa, đời sống nông thôn được cải
thiện, con người có quyền và cơ hội b́nh đẳng để mưu sinh trong một định chế
pháp luật đứng ngoài ảnh hưởng của đảng cầm quyền, th́ lúc đó mới hạn chế được
ḍng người t́m cách trốn bỏ quê hương ra nước ngoài.
Và khi đă ở nước ngoài, chỉ có những người tự do, cởi mở, sống chân thật với
chính lương tâm và suy nghĩ của ḿnh mới có khả năng hội nhập vào một xă hội dân
chủ mà thôi. Mọi sự bao biện giải khác đều là giả dối.
07/11/2005
-------------------------------------
(*): “Thẻ Đỏ”: Trong thập niên 80, những người Việt ở Ba Lan thường thuê các
cán bộ mang cao cấp hộ chiếu ngoại giao, có b́a màu đỏ, mang hàng lậu như đồng
hồ điện tử, thuốc Tây, thuốc lá để qua mặt hải quan.
(**) Trích câu nói của Hồ Chí Minh trong dịp khai trường.
(****): Trích phát biểu tại trường đại học Johns Hopkins của ông Nguyễn Đ́nh
Bin, chủ tịch Ủy Ban Người Việt Nước Ngoài nhân chuyến thăm Mỹ ngày 14/06/2003.