,,,,,Nhân dịp kỷ niệm đệ tứ chu niên Hiến Chương 2000, có một vấn đề đang
làm cho nhiều người thắc mắc : đó là triển vọng của thể chế chính trị ở Việt
Nam - cũng như ở Trung Hoa - sau khi hai nước này trở lại kinh tế thị trường
đă tới hai chục năm. Liệu rằng sự thị trường hóa nền kinh tế,với hệ quả
đương nhiên là sự tư hữu hóa nhiều thứ tài sản như hàng hóa, tư liệu sản
xuất, máy móc, cổ phần công ty, nhà ở, văn pḥng xí nghiệp, đất xây cất
v.v.. có đưa tới sự h́nh thành một thể chế chính trị dân chủ hơn, tự do hơn
không, Nếu có những người tin tưởng ở kết quả tốt đẹp của diễn biến hoà b́nh
th́ rất nhiều người khác hoài nghi cho rằng diễn biến hoà b́nh không chắc ǵ
đưa tới một chế độ thực sự dân chủ, thực sự tự do. Tại sao, Chính v́ đảng
cộng sản nắm quyền toàn trị có xu hướng duy tŕ quyền hành và thế lực của
ḿnh bằng mọi thủ đoạn. Do đó thể chế chính trị sẽ mang một dạng mới, không
giống kiểu mẫu cộng sản Liên Xô cũ, nhưng rất khác các chế độ dân chủ ta
hằng thấy ở nhiều nước Âu Mỹ. Phe nào đúng, Phe nào sai,,
,,, Trước hết cần gạt bỏ ngay cách nh́n phiến diện của những người tưởng
rằng có thể xét các sự kiện kinh tế và các sự kiện chính trị như những sự
kiện biệt lập, Nói rơ hơn, để tiện khảo sát và lư luận, những người đó vô
t́nh bỏ quên hay cố ư làm ngơ,mối liên hệ chặt chẽ giữa trạng thái kinh tế
và các,trạng thái khác của cuộc sống tập thể như : văn hóa, chính trị, giao
tế , quân sự v.v.. Trong trường hợp Việt Nam, bàn luận về kinh tế mà không
để ư đến ảnh hưởng sâu đậm,của thể chế,Cộng Sản toàn trị cũng như của nhân
sinh quan Mác xít vẫn c̣n ngự trị hay sót đọng trong đầu óc nhiều người,
hoặc bàn luận về chính trị mà không xét tới ảnh hưởng của các hiện tượng thị
trường hóa, tư nhân hóa và toàn cầu hóa kinh tế th́ quả thực là viển vông.
Do đó có hai cách tiếp cận,:
- Cách thứ nhất,là giả thiết rằng trong giai đoạn sắp tới cơ cấu văn
hóa,,chính trị nhân khẩu, xă hội, đường lối ngoại giao, cũng như hạ tầng cơ
sở giao thông, viễn liên.. và dĩ nhiên kỹ thuật trong mọi lĩnh vực đều không
có sự biến đổi nào đáng kể,Với giả thiết này, người ta có thể yên tâm dự
kiến các sự kiện kinh tế, đưa ra những giải pháp và những đề,án cụ thể. Nói
khác : dựa trên các số liệu kinh tế vĩ mô hiện tại rồi áp dụng những tỉ lệ,
những hệ số, t́m được nhờ ở phương pháp kinh toán để h́nh dung tương lai sẽ
ra sao. Chẳng hạn ước tính tỉ lệ tăng gia của tổng sản lượng quốc nội, dự
kiến số vốn đầu tư cần thiết để đạt chỉ tiêu ấy, dự kiến số tiêu thụ toàn
quốc là bao nhiêu, số tiết kiệm là bao nhiêu, do đó cần bao nhiêu vốn đầu tư
ngoại nhập;,sau đó có thể đi sáu vào chi tiết, xét xem nên đầu tư vào những
lĩnh vực nào, những ngành sản xuất nào, nên ấn định tổng số chi thu của ngân
sách Nhà nước ở mức nào,v.v.. Khỏi cần nói là những sự phân tích và ước tính
theo cách tiếp cận này chỉ có giá trị trong một thời hạn,ngắn. Ở nước ta,
dưới chế độ Đảng Cộng Sản toàn trị hiện thời, cứ 4 năm lại có một Đại Hội
toàn quốc của Đảng : những sự thay đổi quan trọng thường được quyết định
trong dịp Đại Hội : như vậy trong khoảng thời gian 4 năm giữa hai đại hội có
thể coi là mọi cơ cấu đều giữ nguyên.,Do đó các cuộc phân tích kinh tế ngắn
hạn,có thể,có giá trị nhiều lắm là 4 năm. Thiển kiến của tác giả bài tiểu
luận này là ở cương vị một kẻ ly hương v́ lư do chính trị , ta không nên chú
tâm quá đáng vào những vấn đề kinh tế ngắn hạn,. Lư do : nguyện vọng tha
thiết của chúng ta là cơ cấu văn hóa, chính trị, xă hội,của nước nhà sẽ mau
chóng thay đổi để nhường chỗ cho một nền văn hóa khai phóng, một chế độ
chính trị đích thực dân chủ, một xă hội tự do, công bằng được luật pháp bảo
đảm chắc chắn. Nếu sự thay đổi này không xẩy ra th́ những lời bàn luận của
chúng ta rút cục sẽ chẳng khác ǵ những tiếng nói trong sa mạc !
- Cách tiếp cận thứ hai là chú tâm vào những vấn đề,trường kỳ : sở dĩ gọi là
trường kỳ v́ những vấn đề này liên can tới sự biến đổi của mọi cơ cấu, từ cơ
cấu nhân khẩu , cơ cấu chính trị, cơ cấu xă hội tới cơ cấu văn hóa, cơ cấu
tinh thần, phong tục, nhân sinh quan v.v.. Khỏi cần nói là trong một thời
gian dài, ngay cả môi trường thiên nhiên cũng có thể biến đổi do những đại
công tác của Nhà nước và của tư nhân. Ảnh hưởng của những biến đổi này ra
sao đối với kinh tế : đó là những câu hỏi ta cần nêu để t́m giải đáp. Dĩ
nhiên, tác giả bài này không thể liệt kê tất cả các vấn đề đáng cho chúng
ta,suy tư và nghiên cứu. Chúng tôi chỉ đưa ra một đề tài mà chúng tôi coi là
căn bản v́,liên can tới tương lai gần của toàn thể dân tộc Việt Nam. Đó là
vấn đề viễn tượng của kiểu mẫu kinh tế,được nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam
gán cho nhăn hiệu "kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa ",
,,,,,,,,,,,,,,,*,, *,,,*,,,,,.,,
,,,,,,,,Ai cũng rơ,là Đảng Cộng Sản Việt Nam,bắt chước đàn anh Trung Cộng
khi đưa ra nhăn hiệu " Kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa
",v́ Bắc Kinh,chính thức gọi kiểu mẫu kinh tế của ḿnh là,Kinh tế thị trường
xă hội chủ nghĩa,( économie socialiste de marché ). Với khái niệm,này, Đảng
Cộng Sản Việt Nam cũng như Trung Cộng gián tiếp chủ trương rằng thị trường
không phải là một cơ chế,đặc thù của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa,( économie
capitaliste ) gắn liền với sự tồn vong của nền kinh tế này mà có thể hiện
diện ngay cả trong nền kinh tế xă hội chủ nghĩa. Như vậy,cả hai đảng đă gạt
bỏ kiểu mẫu kinh tế hoạch định toàn diện cố hữu v́ chấp nhận thị trường tức
là phó mặc sinh hoạt kinh tế,cho sáng kiến tư nhân, từ nay được tự do kiếm
sống, tự do sản xuất, tự do tiêu thụ, tự do trao đổi, tự do tích lũy, tự do
đầu tư..,Nhà Nước có thể,"phủi tay " không cần lo liệu từ bát cơm, manh áo
cho đến thuốc men, nhà ở,v.v..của từng gia đ́nh nhưng đồng thời chính quyền
cũng mất một phương tiện " áp đảo ",kẻ " cứng đầu " v́ khó dùng biện pháp "
bao vây kinh tể " hữu hiệu như xưa nữa. Dĩ nhiên, giới lănh đạo cộng sản Tầu
cũng như Việt tin rằng có thể giới hạn thị trường dưới một mức nào đó để có
thể duy tŕ quyền toàn trị của họ : chẳng hạn không cho phép các hoạt động
kinh tế thị trường vượt khỏi ranh giới một số " vùng kinh tế đặc biệt ",
hoặc tiếp tục dành vai tṛ " chủ đạo " cho những xí nghiệp quốc doanh bằng
cách trợ cấp,cho những xí nghiệp này bất chấp kết quả tối tệ của chúng. Quan
trọng hơn hết là ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam, khu vực nông thôn vẫn giữ
nguyên cơ cấu cũ với các hợp tác xă do Đảng kiểm soát và chế độ sở hữu tập
thể mọi đất đai canh tác. Giới lănh đạo Cộng Sản tin rằng chừng nào họ vẫn
nắm chắc thôn dân th́ chẳng kẻ thù nào có thể lật đổ họ.
,,,,,,,Thực tế đă cho ta thấy ǵ,
,,,,,,,Phải khách quan công nhận rằng nếu chỉ nh́n bề ngoài, thí dụ : cảnh
tượng các thành phố với những cao ốc, những cửa hàng đầy ăm ắp hàng hóa đủ
loại, những đường phố kẹt cứng v́ quá nhiều xe,cộ trong đó không thiếu ǵ
các xe hơi kiểu tối tân.. hoặc nếu chỉ căn cứ trên các số liệu thống kê vĩ
mô về sản xuất, về xuất nhập khẩu, về đầu tư v.v..,th́ sự tái lập thị trường
đă mang lại kết quả khá ngoạn mục ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc. Các cơ
quan quốc tế như Ngân Hàng Thế Giới, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân Hàng Phát
Triển Á Châu.. đều đă nêu tỷ lệ tăng trưởng rất cao của Trung Quốc và khá
cao của Việt Nam trong mấy năm qua. Tuy nhiên nếu căn cứ trên những thiên
phóng sự tỉ mỉ, đi sâu vào đời sống hàng ngày của nhân dân, do các kư giả
nổi danh là vô tư,đă cho phổ biến trên báo chí cũng như các đài truyền h́nh,
ta nhận thấy một số trạng thái tiêu cực rất quan trọng.,,
,,,,,,,Nhận định thứ nhất là có một sự chênh lệch trầm trọng giữa các thành
phố - cơ sở của nền kinh tế thị trường - với toàn thể các làng xă vẫn c̣n bị
giam hăm trong nền kinh tế hoạch định kiểu cộng sản. Trong những làng xă
này, nạn nghèo đói vẫn dai dẳng tồn tại. Ngoài những hậu quả thông thường
như thất học, hủ lậu, yểu tử, trẻ em thiếu dinh dưỡng v.v.. ở Việt Nam đă
xuất hiện hai hiện tượng mới : đó là nạn bán con cái cho ngoại nhân để lấy
tiền nuôi gia đ́nh và nạn dân nghèo đổ xô về các thành thị để sống trong
cảnh " màn trời chiếu đất, bùn lầy nước đọng "....
,,,,,,,,Nhận định thứ hai là sự chấp nhận quyền tư hữu gắn liền với kinh tế
thị trường đă khiến cho các tệ đoan như : chiếm công vi tư, hối mại quyền
thế, tham nhũng...lan rộng khắp các địa phương và xâm nhập hệ thống chính
quyền. T́nh trạng này đă gây bất ổn cho mọi cuộc kinh doanh lành mạnh, làm
nản ḷng những ngoại nhân muốn đầu tư trực tiếp và lâu dài. Triển vọng phát
triển kinh tế toàn quốc có thể trở nên u ám v́ các tệ đoan này.
,,,,,,, Nhận định thứ ba là nạn " cường hào ác bá " tái xuất hiện ở nhiều
nơi dưới một h́nh thức mới là những kẻ có đôi chút quyền hành hay thế lực
móc nối với kẻ bất lương để thực hiện những cuộc kinh doanh phi pháp. Người
ta thắc mắc : làm sao trừ diệt được nạn này khi quyền toàn trị vẫn ở trong
tay Đảng Cộng Sản,
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,*,,,*,,,*,
,,,,,,, Sự tái lập thị trường trong một nền kinh tế hoạch định kiểu cộng sản
ở Việt Nam - cũng như ở Trung Quốc - biểu lộ một đường lối đă được giới lănh
đạo công khai thú nhận : đó là chỉ " đổi mới " kinh tế c̣n cơ cấu chính trị
th́ vẫn giữ nguyên như cũ. Đường lối này có thể đem lại kết quả mong muốn
không,Ta có quyền hoài nghi trước những ǵ đă nhận thấy.
,,,,,,, Bất cứ nền kinh tế quốc gia nào chỉ có thể phát triển bền vững khi
mọi địa phương, mọi khu vực, mọi ngành hoạt động đều hội nhập và gắn bó hài
ḥa , tạo thành một hệ thống thuần nhất : có như thế th́ sự tăng trưởng
trong một " khâu " mới tạo ảnh hưởng dây truyền,và đưa tới sự tăng trưởng
gấp bội của toàn bộ. Ta đă thấy là không thể tách kinh tế ra khỏi chính trị.
Sớm muộn ǵ sự " sống chung " trong khuôn khổ quốc gia giữa nền kinh tế thị
trường với nền kinh tế hoạch định cộng sản cũng đưa tới xung đột : nền kinh
tế nào hữu hiệu nhất sẽ,có nhiều cơ tồn tại khi cuộc xung đột chấm dứt. Dựa
trên,những ǵ đă nhận thấy ở Trung Quốc và ở Việt Nam ta có thể tin chắc
rằng đó sẽ là kinh tế thị trường. Một vấn nạn cần được giải đáp : sự hội
nhập kinh tế thị trường đă có những ảnh hưởng ǵ đối với thể chế chính trị ở
hai nước này,Vẫn biết nhà cầm quyền chủ trương giữ nguyên thể chế chính trị
như trước khi đổi mới kinh tế nhưng họ đâu có thể cưỡng lại những đ̣i hỏi về
mặt chính trị mà sự đổi mới kinh tế đă làm nảy sinh ! Khi t́m giải đáp cho
câu hỏi này, chúng tôi nhận thấy một sự khác biệt quan trọng giữa hai nước
Trung Hoa và Việt Nam
,,,,,,,Ai cũng biết là dưới chế độ đảng Cộng Sản toàn trị, những tổ chức
chính trị đích thực đối lập,bị triệt để ngăn cấm v́ mọi sinh hoạt chính trị
đều phải đặt trong khuôn khổ thể chế hiện hành, do Hiến Pháp ấn định, để
chịu sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền -,nghĩa là của Đảng Cộng Sản. Các
cá nhân hay tổ chức đích thực đối lập chỉ c̣n một cách xử sự : nếu ở lại
trong nước th́ phải " rút vào bóng tối " để hoạt động bí mật với nguy cơ là
bất cứ lúc nào cũng có thể bị đàn áp và truy tố dưới tội danh " phá hoại chế
độ ", " âm mưu phản loạn ",, "làm gián điệp cho ngoại bang ", vân vân.. Nếu
muốn hoạt đng công khai th́ phải di tản ra ngoại quốc, do đó không thể nào
liên lạc thường xuyên với nhân dân quốc nội để phổ biến lập trường, quan
điểm cùng mọi đề án của ḿnh nữa.
,,,,,,, Trong hoàn cảnh này, đổi mới chính trị chỉ có thể là dân chủ hóa chế
độ, bằng cách sửa lại Hiến Pháp để chính thức công nhận quyền đối lập. Cả
hai đảng Cộng Sản Trung Hoa và Việt Nam đều chưa chịu làm công việc đổi mới
ấy ! Cả hai đảng đều giữ vững các nguyên lư rút tỉa từ chủ thuyết Mác Lê nin
như :Đảng Cộng Sản nắm quyền chuyên chính v́ lẽ Đảng là đạo quân tiền phong
của Giai Cấp Vô Sản ;,quyền quyết định cuối cùng thuộc Ban Chấp Hành Trung
Ương v́ đó là cơ quan cao nhất trong bộ máy Đảng ; trong thực tế việc quyết
định giao cho Bộ Chính Trị là cơ quan có thể họp thường xuyên với một số
thành viên không quá hai chục người đă được Ban Chấp Hành Trung Ương bầu ra
; trong sự chọn lựa các cán bộ điều khiển ở mọi cấp, ưu tiên phải dành cho
các đảng viên có nhiều tuổi đảng, xuất phát từ thành phần công nhân và nông
dân : thành phần doanh thương luôn luôn phải coi là thành phần khả nghi v́
họ có xu hướng trở lại tư bản chủ nghĩa ; không nên giao cho các phần tử trí
thức và chuyên gia các chức vụ có nhiều quyền hành v́ như Đệ Tam Quốc Tế đă
khẳng định họ thường " bấp bênh " nghĩa là có xu hướng đặt nặng yêu cầu kỹ
thuật,,coi nhẹ yêu cầu chính trị của nền vô sản chuyên chính ; vân vân.. Tuy
nhiên dưới áp lực của việc hội nhập kinh tế thị trường, cả hai đảng Cộng Sản
Trung Hoa và Việt Nam đều đă phải làm mềm dẻo phần nào các nguyên lư vừa kể.
,,,,,,,Ở Trung Hoa, ngoài sự chấp nhận việc làm giầu là một hành động không
những hợp pháp mà c̣n nên khuyến khích, mới đây Đảng Cộng Sản Trung Hoa c̣n
chính thức băi bỏ mọi sự kỳ thị đối với thành phần doanh thương, từ nay sẵn
sàng để cho những đảng viên thuộc thành phần này được bầu vào các chức vụ
điều khiển trong bộ máy Đảng và Nhà Nước. Khỏi cần nói mục tiêu của chính
sách, trước nhất là để " bạch hóa " những hành động hối mại quyền thế, nhũng
lạm, chiếm công vi tư.. mà rất nhiều cán bộ Đảng đă làm,cũng như để,bạch hóa
các tài sản mà họ đă thủ đắc. Mục tiêu thứ hai được rầm rộ nêu cao, là
khuyến khích các doanh gia cự phú gốc Hoa, hiện thời sinh sống ở ngoại quốc,
hồi hương lập nghiệp,mang theo tài sản quư báu của họ. Họ sẽ yên tâm làm ăn
nơi quê cha đất tổ v́ từ nay chính họ,hoặc thân nhân hay bằng hữu có thể
tham gia chính quyền, nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng
Dẫu sao với sự phục hồi địa vị của thành phần doanh thương, rơ ràng là
Đảng Cộng Sản Trung Hoa đă gạt bỏ một giáo điều căn bản của chủ thuyết Mác
Lê nin. Một khi thành phần doanh thương được công nhận là thành viên chính
đáng của Đảng Cộng Sản th́ Đảng này c̣n có thể coi là đạo quân tiên phong
của giai cấp vô sản nữa không, Ta có thể nêu giả thuyết : nếu mai đây những
đảng viên thuộc thành phần doanh thương, nguyên,là những nhà tư bản " trưởng
giả ", nắm quyền lănh đạo Đảng th́ liệu rằng họ có duy tŕ thể chế chính trị
hiên thời nữa không, Giờ đây chưa ai có thể trả lời câu hỏi này v́ hăy c̣n
quá sớm...
,,,,,,Ở Việt Nam, từ Đại Hội VI ( 1986 ), Đảng Cộng Sản quyết định đổi mới
kinh tế,để thoát khỏi t́nh trạng khủng hoảng đă trở nên trầm trọng, Dư luận
cho rằng các kẻ lănh đạo Đảng đă tuân theo lời khuyến cáo của Gorbatchev
trong cuộc viêng thăm chính thức Việt Nam của ông ta,trước ngày Đại Hội
không lâu. Đồng thời với đường lối đổi mới kinh tế, Đảng đă tung ra khẩu
hiệu " Liên minh công nông trí thức ". Trong cuốn Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt
Nam xuất bản tại Hà Nội năm 1999, các tác giả đă cố chứng minh rằng ư kiến
liên minh ba thành phần xă hội này không phải là mới v́ ngay từ năm 1945, để
thực hiện cuộc cách mạng giành độc lập, Mặt Trận Việt Minh đă được sự tham
gia của nhiều nhân vật trí thức tên tuổi. Tuy nhiên, theo những chứng nhân
biết rơ sự thật lịch sử thời đó, th́ các nhân vật trí thức,ấy chỉ đóng vai "
long trọng viên " : trên danh nghĩa họ được giao những chức vụ rất quan
trọng như Bộ Trưởng, Tổng Vụ Trưởng, Chủ Nhiệm, Chủ Tịch.. nhưng mọi quyết
định đều do những cộng sự viên không phải là trí thức, do Đảng bổ nhiệm,làm
đảng ủy trong cơ quan. Thái độ nghi kỵ - có thể nói là miệt thị - tầng lớp
tri thức tồn tại cho tới giữa thập niên 1980. Tại sao Đảng Cộng Sản Việt Nam
đă thay đổi đường lối từ Đại Hội VI, Vẫn theo cuốn Lịch Sử Đảng nói trên, lư
do là : " Tương quan lực lượng giữa cách mạng và thế lực chống đối ở nước ta
quy định điều đó. Liên minh công-nông-trí vững mạnh chính là điều kiện để
Đảng đưa cách mạng bước vào thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
với tính cách là mơt chế độ thống tri.." (trang 302 ).
,,,,,,,Lời giải thích này là một sự thú nhận gián tiếp. Đảng Cộng Sản Việt
Nam thú nhận rằng Đảng đă sai lầm vào năm 1975, khi quyết định tiến mau,
tiến mạnh lên xă hội chủ nghĩa, không cần phải qua thời kỳ quá độ như Các
Mác đă dự kiến.,Do đó cuộc khủng hoảng đă xẩy ra và trở nên rất trầm trọng
vào khoảng cuối năm 1985. Đổi mới kinh tế, tái lập thị trường, có nghĩa là
trở lại thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ này,- chính thức được gọi là kinh tế
thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa -, tuy cho phép tư nhân làm
giầu, nhưng cần phải tránh sự h́nh thành một chế độ tư bản chủ nghĩa có tính
cách thống trị. Chính v́ vậy mà phải ngăn ngừa tầng lớp trí thức liên minh
với tầng lớp tư sản doanh thương : trái lại cần thực hiện và tăng cường liên
minh giữa giai cấp công-nông và tầng lớp trí thức, dĩ nhiên dưới sự lănh đạo
của Đảng Cộng Sản để khỏi đi sai đường.
,,,,,,,Chính sách liên minh công-nông-trí có thể mở đường cho sự dân chủ hóa
thể chế chính trị không, Sự phân tích vừa kể cho ta thấy rơ thâm ư của Đảng
Cộng Sản Việt Nam : Đảng vẫn giữ vững định hướng xă hội chủ nghĩa và chỉ
muốn dùng đội ngũ trí thức như một lợi khí trong giai đoạn quá độ hiện thời
mà thôi! Ai cũng biết nhà đương quyền cộng sản Việt Nam đang áp dụng kế
hoạch cấp phát bừa băi học hàm, cho phép các cán bộ đảng theo học những khóa
huấn luyện kỹ thuật đơn giản, rút ngắn, để rồi cấp cho họ những học hàm tiến
sĩ, phó tiến sĩ, thạc sĩ v.v.. Đó là chưa kể những tệ đoan như đút lót để
trúng tuyển trong các kỳ thi, thuê người thi hộ, mua bằng giả.. Hậu quả tức
th́ là bằng cấp mất giá trị không c̣n được coi là một bảo đảm chắc chắn.
Những trí thức " khoa bảng " mất dần uy tín không c̣n là một đe doạ chính
trị nữa. Đảng đạt được mục tiêu trước mắt là hạ thấp thế lực xă hội của tầng
lớp trí thức.Nhưng hậu quả lâu dài vô cùng tai hại : những trí thức và
chuyên gia đào tạo ở hải ngoại sẽ chán ngán không thiết hồi hương trong khi
đó những trí thức và khoa bảng " nội hóa " càng ngày càng bất măn v́ không
được " trọng dụng " như họ mong muốn
,,,,,,,,Trong t́nh trạng này, muốn tiến tới một chế độ dân chù thực sự,
không c̣n cách nào khác là phải t́m cách băi bỏ,thể chế cộng sản toàn trị
qua một cuộc vận động mạnh mẽ và quyết liệt ở quốc nội. Trông chờ ở diễn
biến tự nhiên chỉ là một thái độ không thực tế.
Vũ Quốc Thúc (Paris)