Năng Lượng
Hạch Nhân Cho Tương Lai
Nuclear Power For The Future
Quan niệm đúng đắn về phát triển bền vững cũng như nhu cầu năng lượng cần
thiết cho phát triển là hai vấn đề cấp thiết mà nhân loại cần lưu phải tâm
trong những năm sắp đến. Tiến tŕnh toàn cầu hóa trong phát triển chung khiến
cho hầu hết lănh đạo các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những quốâc gia
hậu kỹ nghệ cần phải ngồi lại để t́mra những biện pháp chung để giải quyết vấn
đề cốt lỏi của con người. Đó là năng lượng cần thiết để phát triển.
Trước những vấn nạn môi trường và hệ sinh thái bị hủy diệt, nhu cầu điện năng
đến từ than đá hay thủy điện dần dần bị thay thế bằng những nguyên liệu “sạch”
cho năng lượng. Năng lượng từ dầu hỏa có nguy cơ bị cạn kiệt trong những thập
niên sắp đến. Về năng lượng gió cũng như năng lượng mặt trời...chỉ là những
bước đầu, chưa đạt quy mô lớn và giá thành tương đối c̣n cao.
Chỉ c̣n lại năng lượng hạch nhân hiện đang được các quốc gia ráo riết tập
trung nghiên cứu để tiến đến một công nghệ năng lượng sạch, an toàn, giá thành
rẽ, và mang lại nhiều ứng dụng khác hơn là việc tạo ra điện năng phù hợp với
tinh thần phát triển bền vững do LHQ đề ra.
Bài viết có mục đích tŕnh bày một số thông tin căn bản về sự lịch sử và sự
h́nh thành một ḷ phản ưng hạch nhân, cùng những viễn kiến tiến tới một công
nghệ sạch cùng một số an toàn lao động trong vận hành.
Sự phân bổ các ḷ năng lượng hạch nhân
Hiện tại (2004), trên thế giới hiện có 441 ḷ phản ứng hạch nhân đang hoạt
động răi rác ở 31 quốc gia, sản xuất ra 363 triệu Kilowatt (KW) điện năng.
Trung b́nh một ḷ phản ứng có khả năng sản xuất từ 800 trăm ngàn đến một triệu
KW. Hiện tại, có 30 ḷ đang được xây cất ở 24 quốc gia, và thế giới cũng đang
có dự kiến xây dựng thêm 104 ḷ phản ứng nữa trong ṿng 10 năm tới.
Các quốc gia Á Châu như Trung Hoa, Nhật Bản, Đài Loan, Đại Hàn là những quốc
gia đang đặt trọng tâm vào việc xây dựng ḷ phản ứng cho nhu cầu năng lượng
cần cho phát triển. Trong tượng lai, năng lượng hạch tâm không chỉ được được
xử dụng để sản xuất ra điện năng mà c̣n được ứng dụng như một dạng năng lượng
để sản xuất ra khí Hydrogen (H2), hoặc dùng để khử muối trong nước biển cho
nhu cầu nước sinh hoạt ở những vùng không đủ nước. Có thể nói H2 là hoá chất
căn bản để thực hiện hầu hết các quy tŕnh sản xuất hóa chất trong kỹ nghệ,
đây là một nguyên liệu có thể thay thế các sản phẩm hóa chất khác từ dầu hỏa.
Tại Hoa kỳ, hiện có 103 ḷ phản ứng đang hoạt dộng, sản xuất ra 97 triệu KW,
chiếm khoảng 20% nhu cầu điện năng toàn quốc. Chi phí xây dựng cho 1 KW giờ
điện của loại năng lượng nậy là 1,68 cents, chỉ đứng sau giá điện năng do thủy
điện cung cấp mà thôi. Tại California, chúng ta phải trả trung b́nh khoảng 7
cents cho 1 KW giờ. Thời gian hoạt động của một ḷ phản ứng năng lượng hạch
nhân là khoảng 40 năm.
Đối với các quốc gia Tây Âu, tỷ lệ xử dụng điện từ ḷ hạch nhân trung b́nh
khoảng 35%> Pháp đă xử dụng 78% cho nhu cầu điện toàn quốc; Bỉ, 55%.
Lịch sử h́nh thành ḷ phản ứng hạch nhân
Một trong những nhu cầu cần thiết để phát triển quốc gia là năng lượng. Và
năng lượng đến từ các ḷ phản ứng hạch nhân được các khoa học gia chú ư đến từ
những năm đầu thập niên 50. Từ đó ḷ phản ứng thuộc thế hệ I (generation I) ra
đời. Các ḷ nầy hiện tại vẫn c̣n được xử dụng. Tuy nhiên các ḷ thuộc thế hệ
nầy đang đi dần đến sự đào thải v́ thời gian vận hành sắp chấm dứt (tuổi thọ
của một ḷ phản ứng vào khoảng 50 năm). Thế hệ thứ II ra đời vào đầu thập niên
70. Thế hệ thứ III, vào thập niên 90. Và sau cùng thế hệ thứ IV đang được
chuẩn bị với rất nhiều hy vọng trở thànhmột công nghệ toàn hảo v́ sẽ làm giảm
thiểu tối đa hiệu ứng nhà kính qua việc phóng thích thán khí đối với các ḷ
phản ứng thuộc các thế hệ trước đó, thực hiện được an toàn lao động trong vận
hành, và nhất là các ḷ trên sẽ là “ḷ phản ứng tự giải quyết” trong trường
hợp có tai nạn xảy ra, nghĩa là không cần thiết đến sự hiện diện của con người
trong trường hợp nầy.
1-Ḷ phản ứng thế hệ I – Ḷ phản ứng có tên Magnox là một ḷ phản ứng đầu tiên
được sản xuất và tung ra thị trường vào những năm đầy thập niên 50 do 3 nhà
vật lư học người Anh sáng chế có tên: TS Ion, TS Khalit, và TS Magwood. Ḷ
Magnox xử dụng nguyên liẹâu Uranium trong thiên nhiên trong đó chỉ có 0,7%
chất đồng vị (isotope) U-235 và 99,2% U-238. Nguyên tắc vận hành có thể được
tóm tắt như sau: Các ống kim loại Uranium nầy được bao bọc bằng một lớp hợp
kim gồm nhôm (Al) và Magnesium (Mg). Một lớp than graphite đặt nằm giữa ống
Uranium và hợp kim trên có mục đích làm chậm bớt vận tốc phóng thích của trung
ḥa khí (neutron) do sự tách rời (fission) U-235. Từ đó các trung ḥa khí trên
sẽ va chạm mạnh với hạch nhân của U-235 (nuclei)...để các phản ứng dây chuyền
liên tục xảy ra làm tăng thêm sự va chạm... Đây là một phản ứng phát nhiệt rất
lớn và thán khí (CO2) được dùng để chuyển tải nhiệt năng nầy đến một máy
turbine hơi nước để từ đó biến cải thành điện năng.
Việc điều ḥa vận tốc phản ứng dây chuyền hoặc chận đứng phản ứng là một công
đoạn quan trọng bậc nhất của một ḷ phản ứng. Trong công đoạn nầy ḷ Magnox xử
dụng một loại thép làm từ hóa chất boron (B), loại thép nầy có tính chất hấp
thụ các trung ḥa tử, do đó có thể điều khiển phản ứng theo ư muốn. Có tất cả
26 ḷ Magnox đă hoạt động ở Anh Quốc, hiện tại chỉ c̣n 8 ḷ c̣n đang họat động
và sẽ bị đào thải vào năm 2010.
2- Ḷ phản ứng thế hệ II: Các ḷ nầy đă ra đời vào thập niên 70 và 80, hiện
chiếm đa số các ḷ đang họat động trên thế giới. Từ lúc ban đầu, 60% của loại
ḷ nầy áp dụng nguyên lư ḷ nước dưới áp suất (pressurized water reactor-PWR),
trong đó nước dưới áp suất cao được xử dụng vừa làm dung dịch làm nguội, vừa
làm dung dịch điều ḥa phản ứng. Nguyên liệu xử dụng cho ḷ thuộc thế hệ II
nầy thay v́ dùng Uranium thiên nhiên, hợp chất Uranium dioxide được thay thế
và hợp kim nầy được bọc trong các ống cấu tạo bằng kim loại Zirconium. Do đó
Uranium-235 sẽ được tinh luyện từ 0,7% đến 3,0 – 3,5%. Nhưng các loại ḷ nầy
lần lần được thay thế bằng cách áp dụng nguyên lư của ḷ hơi nước dưới áp suất
(boiling water reactor-BWR). Một khác biệt căn bản là nước được đun sôi rồi
mới chuyển qua hệ thống làm tăng áp suất. Làm như thế, phương pháp nầy rút
ngắn tiến tŕnh tạo nhiệt của hơi nước trong khi chuyển số nhiệt lượng qua các
turbine để biến thành điện năng.
3-Ḷ phản ứng thế hệ III: Kễ từ cuối thập niên 80, thế hệ III bắt đầu được
nghiên cứu với nhiều cải tiến từ các ḷ phản ứng loại BWR của thế hệ II. Và ḷ
nầy được đi vào hoạt động đầu tiên vào năm 1996 tại Nhật Bản. Bằng sáng chế đă
được US Nuclear Regulatory Commission (NRC) xác nhận. Hiện tại các ḷ nầy đang
được thiết lập ở nhiều quốc gia trên thế giới v́ đáp ứng được nhu cầu xây cất
tương đối ngắn, 3 năm, và chi phí cũng giảm so với các ḷ thuộc thế hệ trước
cùng phương cách vận hành cũng như bảo tŕ tương đối giản dị và an toàn hơn.
4- Ḷ phản ứng thế hệ IV: Tuy nhiên trước yêu cầu ngày càng cấp thiết hơn về
an toàn lao động và bảo vệ ô nhiễm môi trường nhất là hiệu ứng nhà kính, các
khoa học gia đang tiến dần đến việc xây dựng các ḷ hạch nhân thế hệ IV, trong
đó hệ thống an toàn không c̣n dùng đến con người nữa mà hoàn toàn tự động.
Thêm nữa sẽ không c̣n có việc thải hồi khí CO2 vào không khí. Một đặc điểm mới
của ḷ hạch nhân thế hệ IV nầy là có thể sản xuất ngoài điện năng, c̣n cho ra
Hydrogen, một nhân tố căn bản cho hầu hết các phương pháp tổng hợp hóa chất
cần thiết cho công kỹ nghệ. Thế hệ IV c̣n được gọi là “ḷ phản ứng cách mạng (
revolutionary reactor). Thế hệ nầy đang được 9 quốc gia phối hợp thử nghiệm từ
năm 2000. Các quốc gia nầy gồm: Á Căn Đ́nh, Ba Tây, Canada, Pháp, Nhật BaÛn,
Nam Phi, Đại Hàn, Anh Quốc, và Thụy Sĩ. Cộng đồng nguyên tử năng Âu Châu
(European Atomic Energy Community) cũng đă xin gia nhập nghiên cứu chung vào
năm 2003.
Thế hệ nầy sẽ đi vào ứng dụng vào năm 2030 và có thể thỏa măn những điều kiện
sau ngoài các lợi thế kễ trên: 1- giá thành cho điện năng sẽ rẻ hơn hiện tại;
2- hoàn toàn an toàn 100%; 3- phế thải giảm thiểu tối đa.
Vấn đề an toàn vận hành của một ḷ hạch nhân
Để đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững trong tương lai, việc làm khẩn thiết và
cấp bách của các khoa học gia là làm thế nào để bảo đăm an toàn lao động trong
vận hành và an toàn cho dân chúng sống chung quanh ḷ hạch nhân trong tường
hợp có tai nạn hay khủng bố. Đây là mục tiêu mà mọi quốc gia đang nhắm đến.
Tuy nhiên vấn đề an toàn lao động trong việc xử dụng năng lượng hạch nhân đă
làm tăng thêm nhiều dị biệt trong quan niệm về lănh vực nầy của các nhà làm
khoa học. GS Jerrence Collins, thuộc đại học Carnegie Mellon, Pittsburgh đă
phát biểu:” Tôi nghĩ năng lượng hạch nhân là một hướng đi sai lầm v́ việc xử
dụng loại năng lượng nầy sẽ không bao giờ có được an toàn”.
Ngược lại, TS Peterson có cái nh́n tích cực hơn trong khi suy nghĩ về tính an
toàn trong vận hành một ḷ phản ứng là: 1- Cần phải có một hệ thống kiểm soát
hữu hiệu để chấm dứt sự tách đôi của các trung ḥa tử (nghĩa là chấm dứt hệ
thống phát nhiệt) khi xảy ra tai nạn. Tai nạn ở Chernobyl năm 1986 đă xảy ra
quá trầm trọng về mặt thiệt hại nhân sự v́ ḷ hạch nhân ở nơi đây không có hệ
thống tự động để ngưng phản ứng kễ trên. 2- Mục tiêu thứ hai cho an toàn lao
động là làm thế nào để di dời các phế thải phóng xạ (radioactive decay) được
sinh ra liên tục trong giai đoạn va chạm và tách rời giữa các trung ḥa tử và
hạch tâm Uranium. Nếu không được di dời đúng lúc, phế thải phóng xạ sẽ tích tụ
ngày càng nhiều làm cho các ống phản ứng nóng thêm ra và làm hư hại các ống
nầy, do đó ḷ phản ứng sẽ bị giảm hiệu năng và có thể xảy ra tai nạn. Đó là
tai ạnn ở một ḷ hạch nhân Pennsylvania vào năm 1979. 3- Mục tiêu thứ ba là
làm thế nào để ngăn chặn việc chất phóng xạ thoát ra ngoài không khí. Do đó,
ḷ phản ứng phải hoàn toàn bị cô lập trong trường hợp có tai nạn.
Các ḷ phản ứng thuộc thế hệ I và II có hệ thống an toàn dựa theo các nguyên
lư về cơ học, vật lư, và điện học như: hệ thống kiểm soát nhiệt, các chốt
đóng/mở tự động, bơm tự động, hệ thống trao đổi nhiệt (làm nguội) tự động.
Trong lúc đó các ḷ thuộc thế hệ III được trang bị hệ thống di dời phế thải
phóng xạ và có hệ thống bơm nước để gỉai nhiệt ṭan thể ḷ phản ứng; khi tai
nạn xảy ra sẽ có một hệ thống an toàn tự động bắt đầu hoạt động ngay không cần
có sự điều khiển của con người.
Hiện tại, trước khi thế hệ IV đi vào hoạt động, thế hệ III đang được cải tiến
thêm để thỏa măn 3 mục tiêu kễ trên. Đó là ḷ hạch nhân Westinghouse AP 1000
do Westinghouse Electris (US) sáng chế. Ḷ nầy, so với 3 thế hệ trước đă giảm
được 50% chốt đóng mở, 35% bơm áp suất, 80% đường ống, và 80% dây cáp trong
thiết kế mới nầy. Với sáng chế trên, ḷ AO 1000 cho đến năm 2010 sẽ giảm chi
phí xây cất xuống c̣n $1000 đến $1200 Mỹ kim cho 1 KW điện.
Quan điểm dị biệt giữa các quốc gia
Tuy cùng chia xẻ một nhu cầu chung cho tương lai, cùng những tiện ích và tương
đối an toàn trong việc bảo vệ môi trường đối với các ḷ hạch tâm ở thế hệ mới,
các quốc gia trên thế giới vẫn cho thấy một quan niệm không đồng nhất về sự
hiện hữu của các ḷ hạch nhân.
Đối với Hoa Kỳ, các ḷ phản ứng thuộc thế hệ IV thể hiện một chu tŕnh sản
xuất năng lượng sạch, từ đó họ cổ súy việc xử dụng loại năng lượng nầy. Nhu
cầu phát triển của Hoa Kỳ trong ṿng 20 năm tới cần thêm 335 triệu KW tương
đương với việc xây thêm khoảng 50 ḷ hạch tâm.
Trong lúc đó tại các quốc gia Tây phương như Phần Lan chỉ dự định xây thêm môt
ḷ nữa mà thôi trong tương lai. Pháp cũng đồng ư xây thêm nữa cho nhu cầu của
nước nầy. Đối với các quốc gia khác như Đức, Ḥa Lan, và Thụy Điển đang có dự
án chấm dứt cácḷ phản ứng hiện đang c̣n hoạt động. Và trầm trọng hơn nữa, là
chính phủ Áo, Đan Mạch, và Ái Nhỉ Lan đă bày tỏ chống đối việc xử dụng loại
năng lượng hạch nhân nầy. Chính phủ Ư đă quyết định hủy bỏ 4 ḷ phản ứng sau
cuộc trưng cầu dân ư năm 1987. Về phần Tay Ban Nha th́ đang quản lư 9 ḷ phản
ứng và có dự định xây thêm. C̣n Anh Quốc th́ hiện tại chưa tỏ thái độ đồng ư
hay chống đối. Trong lúc đó, Nga Sô sau tai nạn Chernobyl đang xây thêm 6 ḷ
và dự trù xây thêm 8 ḷ nữa trong một tương lai gần đây.
Vế phía Á Châu, Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật BẢn, Đại Hàn, và Đài Loan đều có chương
tŕnh tích cực cho việc xây dựng ḷ phản ứng hạch nhân. Gần đây nhất, các quốc
gia nầy đă hoàn tất tất cả 17 ḷ, và đang dự định xây cất thêm 70 ḷ nữa.
Trong lúc đó Phi Luật Tân vừa sắp sữa hoàn thành 90% ḷ hạch nhân, nhưng v́ sự
phản đối của người dân trong vùng về mức bảo đăm an toàn lao động trong vận
hành đă bắt buộc chính quyền quốc gia nầy phải hủy bỏ dự án nữa chừng, tốn hao
công quỹ hàng tỷ Mỹ kim.
C̣n Việt Nam th́ sao?
Việt Nam hiện có một Viện Năng Lượng Nguyên Tử ở Đà Lạt (Việt Nam Nguyên tử
lực Cuôc cũ thời Việt Nam Cộng Ḥa) do TS Phạm Duy Hiển làm Giám đốc hơn 20
năm nay. Theo báo chí trong nước th́ Việt Nam dự định bắt đầu xây cất 2 ḷ
phản ứng hạch nhân vào năm 2012 để có thể đi vào hoạt động năm 2015. Địa điểm
dự trù là Phước Dinh, Phước Hải (Ninh Thuận), và Ḥa Tân (Tuy Ḥa, Phú Yên).
Kinh phí dự trù cho hai dự án kễ trên là 3 tỹ Mỹ kim.
Ngay sau khi quyết định nầy được phổ biến vào đầu năm 2004, nhiều nhà khoa học
trong nước và ngoại quốc đă bày tỏ mối quan ngại và lên tiếng phản đối hai dự
án trên.
Có nhiều lư do đưa ra cho việc phản đối nầy:
· Địa điểm chọn lựa của hai vùng hoang mạc khô cằn, thưa dân cư, không thuận
tiện cho việc di chuyển của nhân công và ban quản lư nhà máy trong tương lai;
· Ở cả hai vùng, không có hạ tầng cơ sở tối thiểu cho nhu cầu yểm trợ việc xây
cất, vận chuyển, cùng nhu cầu về xă hội, y tế, và sinh hoạt hàng ngày của công
nhân như điện nước v. v...;
· Và nhất là, hiện tại Việt Nam chưa có khả năng cũng như không có dự kiến đào
tạo nhân sự chuyên môn trong lănh vực nầy trong một tương lai gần.
· Vấn đề nguyên liệu nguyên tử là một vần đề cốt lỏi mà chắc chắn Việt Nam
không thể nào chủ động và kiểm soát được v́ tùy thuộc vào quốc gia cung cấp.
Chất Uranium và khả năng tinh luyện chất nầy để dùng cho ḷ phản ứng hạch nhân
cần những nhân sự thật chuyên môn và nhiều kinh nghiệm mà việc đào tạo đ̣i hỏi
ít nhất vài chục năm.
Xây cất một ḷ phản ứng hạch nhân chỉ là giai đoạn sau cùng trước khi hoàn tất
các giai đoạn kễ trên. Về nhân sự, sự yếu kém về tri thức công nghiệp, kiến
thức quản lư, cũng như khả năng chuyên môn trong lănh vực nguyên tử và hạch
nhân sẽ là những cản ngại lớn khiến cho việc thiết lập ḷ phản ứng khó có cơ
may thực hiện hay chỉ thực hiện nữa chừng...
Thêm nữa, theo ước tính của một số nhà khoa học trong và ngoài nước th́ tiềm
năng của Việt Nam về than đá, dầu mỏ, khí đốt, cùng với việc khai thác và phát
triển những loại năng lượng trong tầm tay như năng lượng gió, năng lượng mặt
trời... Việt Nam vẫn c̣n có thể dư thừa năng lượng dùng cho việc phát triển
kinh tế, xă hội đến năm 2030. Đễ rồi, vào thời điểm nầy, Việt Nam có đủ thời
gian để chuẩn bị ngay từ bây giờ để có thể tránh được những cản ngại vưà kễ
trên trong tương lai. Thêm nữa, trong giai đoạn nầy, những ḷ thuộc thế hệ IV
đă được áp dụng trong một thời gian đủ để cho các quốc gia Tây phương có khả
năng và kinh nghiệm điều chỉnh những bất ngờ trong vận hành.
Đễ rồi, sau đó Việt Nam có thể áp dụng công nghệ nầy an toàn hơn cho công cuộc
phát triển quốc gia.
Mai Thanh Truyết
West Covina 10/2004