Đă
đi hết biển
I would
be happy to die right here, rather than go back to
Vietnam …
Ralanpee, Montagnard refugee in Cambodia
(BBC News 2004/07/21)
K’
Tien
Này anh em. bạn bè
chúng ta đă đi hết biển
qua các đại dương và châu lục
không về lại mái đ́nh xưa
ngói lở. cột xiêu. xen tàn, muà hạ chết
Nguyễn Xuân Thiệp
Tôi sinh trưởng ở miền sơn cước. Nơi đây không có biển
rộng, sông dài, không có những cánh đồng lúa chín vàng ngút mắt, cũng không có
phố thị tấp nập và ồn ào - như ở miền xuôi. Sống đâu quen đó. Tôi quen với
những buổi sáng rừng tưng bừng, hớn hở tiếng con vượn hú và những đêm trăng
rừng tĩnh lặng, hoang vu.
Tôi đă cứ ngỡ là suốt đời ḿnh chỉ sống quanh quẩn dưới chân ngọn Lang
Biang (hay c̣n gọi gọi là núi Bà, theo tiếng của Kinh) ở cao nguyên Lâm Viên.
Có quá lắm th́ chắc cũng chỉ đi xa đến năm bẩy xà gạc, một hai ngày đường, đến
tận núi Voi, ghé thăm một cô bạn gái hay mấy người anh em nào đó - uống với họ
một hai ché ruợu cần, cho đến lúc say, lăn quay ra ngủ - rồi sáng sớm lại lững
thững trở về thôn bản của ḿnh.
Vậy mà rồi bỗng có lúc tôi hớt ha hớ hải, bỏ đất, bỏ núi, bỏ rừng, bỏ
hồ, bỏ suối, bỏ của … chạy lấy người, trôi dạt xuống tận đồng bằng, cùng cả
triệu kẻ khác, đâm xầm ra biển, lưu lạc, tứ tán khắp bốn phương trời.
Tôi đến Thái Lan, tả tơi, ủ dột, bèo nhèo và eo xèo như một cái xà rông
ngấm nước.
Lần đầu ra thủ đô Bangkok, tôi bị choáng ngợp và thấy ḿnh lạc lơng tội
nghiệp trước cảnh phồn tạp nơi xứ lạ. Lúc ấy, sao không dưng mà chợt bùi ngùi
và nhớ quê hương ḿnh quá.
Bắt chiếc dân miền xuôi, tôi cũng tập viết những câu ngăn ngắn - theo
kiểu những chữ cuối câu có vần vận với nhau mà người Kinh thường gọi là thơ,
hay là vè ǵ đó - như sau:
Chiều về trên xứ lạ
Cười nụ cười Anglais
Buồn qua hơi thuốc Thái
Thèm một phin cà phê
Chiều về trên xứ lạ
Execuse me
I’m sorry nói măi
Thèm một câu chửi thề
Chiều về trên xứ lạ
Xe ngược xuôi trăm đường
Trăm ngàn khuôn mặt lạ
Mong một người đồng hương
Chiều về trên xứ lạ
Ngỡ ngàng Chinatown.
Đây ruợu nồng thịt béo
Mà bạn bè nơi nao
Dừng chân nơi quán lạ
Thèm cơm chiều hương quê
Mẹ cha ơi đừng đợi
Chiều nay con không về
(Chị ơi thôi đừng đợi
Chiều nay em chưa về)
Chiều về trên xứ lạ
Núi xa, đèo xưa ơi
Đi không lời giă biệt
Mà nhớ thương suốt đời
…
V́ không có thân nhân ở Hoa Kỳ, từ Thái Lan tôi được đưa sang một trại
tị nạn chuyển tiếp để chờ một hội thiện nguyện bảo trợ cho vào Mỹ. Thế là tôi
bắt đầu cuộc đời ly hương của ḿnh bằng những ngày mưa đầu mùa ở Galang, một
ḥn đảo nhỏ bé, thuộc Nam Dương.
Những chiều mưa đầu mùa bao giờ cũng buồn. Và những chiều mưa đầu mùa
(đầu tiên) nơi đất lạ th́ buồn nẫu ruột! Tôi cứ ngồi bó gối trong barrack,
nh́n những giọt nước trong veo, nương nương chạy theo mái lá mà nhớ nhà muốn
khóc.
Có hôm tạnh ráo, đi lang thang quanh đảo, măi cho đến lúc gần xẫm tối
th́ tôi lạc đến một khu đất trống. Nơi đây, có chừng vài chục nấm mồ của người
tị nạn. Đứng giữa sự vắng lặng và cô quạnh của buổi chiều, trên một hải đảo
hoang vu, cách quê nhà cả một đại dương xanh ngắt, trước những nấm đất “xè xè”
- mọc đầy cỏ dại, vương văi mấy chân nhang đă bạc phếch mầu - tôi bỗng cảm
được hết sự lạnh lẽo, thê lương, và ảm đạm của chuyện “vùi thây nơi quê người
đất khách.” Tôi cũng chợt hiểu được tại sao, trên những ban thờ - thường thấy
đặt trong nhà của những người dân ở đồng bằng – lúc nào cũng có thắp một ngọn
đèn dầu hột vịt tí teo, cùng với khói hương ấm áp.
Hoàn cảnh không cho phép người dân sơn cước thờ cúng ông bà theo cách
đó. Hầu như tất cả những sắc dân thiểu số ở Việt Nam đều có lệ bỏ mả, hay c̣n
gọi là băi mả - theo như cách nói có âm hưởng Hán Việt, của nguời Kinh.
Dân Roglai (sống rải rác trên miền núi ở các tỉnh Khánh Hoà, Ninh
Thuận, B́nh Thuận, và Lâm Đồng) làm lễ bỏ mả vào mùa gặt thứ nhất, sau khi
nguời thân qua đời. Nguời Rhadé (ở vùng Darlac, Quảng Đức hay Tuyên Đức) th́
làm lễ băi mả vào mùa gặt năm sau. Gặt hái vừa xong, ai cũng rảnh rang và có
của ăn của để nên lễ lạc thường rất đ́nh đám. Thế nào cũng mời thầy cúng tế,
ngả trâu ḅ, đăi đằng làng xóm, ăn uống, chiêng trống, nhẩy nhót thâu đêm. Rồi
mọi người ra mộ khóc lóc một lần cuối trước khi (vĩnh viễn) tạ từ.
Tập tục này, tôi trộm nghĩ, có nguồn gốc từ đời sống du canh. Do sự di
chuyển không ngừng để t́m đất đai canh tác mới nên cơ hội trở lại nơi chốn cũ
thăm viếng mộ nguời đă khuất rất mỏng manh; v́ vậy, người ta cần làm lễ bỏ mả
để được yên tâm khi phải rời bỏ mồ mả ông bà trước khi di chuyển.
Tôi tiếc là ḿnh đă không có được sự yên tâm như thế. Khi hốt hoảng bỏ
chạy khỏi quê hương, tôi đă không kịp tạ mả người thân - theo như phong tục
của người miền núi. Tôi cũng không có dịp chôn cất, thờ phượng song thân với
khói hương ấm áp hàng ngày - như những kẻ ở miền xuôi. Trong suốt quăng đời
lưu lạc của ḿnh, tôi cứ ân hận măi về sự thiếu sót này.
Và có lẽ v́ thế, nên tôi đă suy nghĩ khá lâu, sau khi đọc Nếu Đi Hết
Biển của Trần Văn Thủy. Cuốn sách gồm mười chương, nội dung chính - theo
như lời tác giả - “chỉ ghi chép lại đôi điều tôi nghĩ, tôi thấy, tôi trải qua
cùng việc tṛ chuyện với một số trí thức nhà văn hải ngoại”. Chương mở đầu là
“Mấy Lời Rào Đón”. Chương kế tiếp, cũng có tiểu tựa là “Nếu Đi Hết Biển”, được
mở đầu bằng những câu ca dao:
Con c̣ lặn lội bờ sông
C̣ ơi sao nỡ quên công mẹ già
Hỏi rằng ai đẻ c̣ ra
Mà c̣ lại bỏ mẹ già không nuôi
Nhớ khi đi ngược về xuôi
Mẹ đi bắt tép mẹ nuôi được c̣
C̣ ơi c̣ bạc như vôi.
Công cha nghĩa mẹ c̣ c̣n nhớ không?
à á à ơi …
Sau đó, Trần Văn Thủy mượn lời đoạn kết của bộ phim “Có Một Làng Quê”
(do chính ông làm đạo diễn) để tiếp tục câu chuyện - như sau:
“... Thuở tôi c̣n nhỏ, gia đ́nh tôi tản cư về quê. Người chăm lo, nuôi dậy anh
em chúng tôi là một bà vú nuôi nhà quê mà chúng tôi vẫn tŕu mến gọi là thím,
thím Nhuận.”
“Mỗi buổi tối, sau những công việc vườn tược, xay luá, giă gạo, khi gà đă lên
chuồng, thím mắc vơng ra hiên nằm kể chuyện cho chúng tôi. Khi ấy tôi chưa hề
biết rằng bà không biết chữ, mà chỉ thấy bà thuộc ḷng những chuyện thơ dài
suốt đêm này qua đêm khác.”
“Thế rồi một đêm, dưới ṿm trời bí ẩn đầy những v́ sao lấp lánh, trong trí
tưởng tượng ấu trĩ của tôi bỗng nẩy ra một dấu hỏi to tướng về sự hữu hạn và
vô hạn. Tôi bắt đầu lục vấn thím tôi:
- Đi hết làng ta th́ đến làng nào hả thím?
- Làng ta gọi là làng An Phú. Đi hết làng ta th́ đến làng An Lễ.
- Đi hết làng An Lễ th́ đến làng nào
- Đi hết làng An Lễ th́ đến làng An Phong.
- Rồi đi đến đâu nữa?
- Hết làng An Phong th́ đến làng An Nhân, An Đạo.
- Đi hết làng An Đạo th́ đến đâu
- Đi hết làng An Đạo th́ đến biển.
“Bà tự tin giảng cho tôi, tôi vô cùng khâm phục sự hiểu biết rộng lớn của bà.
Bỗng tôi nhỏm dậy hỏi thím:
- Thế đi hết biển th́ đến đâu hả thím?
Trong đêm tối, thím tôi im lặng. Từ ngày có trí khôn chưa bao giờ tôi thấy
thím tôi buồn đến thế. Thím buồn bă trả lời:
-Đi hết biển đến đâu th́ thím không biết.
Tôi dần lớn khôn và thím tôi âm thầm qua đời khi tôi ở nước ngoài. Bà
không có con, phần mộ của bà thực là ảm đạm. Một lần thắp hương bên mộ thím,
tôi xót xa th́ thầm với thím rằng:
- Thím ơi! Cháu thương thím, v́ cho đến lúc chết thím cũng không biết
đi hết biển là đến đâu. Bây giờ cháu biết rồi thím ạ. Nếu đi hết biển, qua các
đại dương và các châu lục, đi măi, đi măi th́ cuối cùng lại trở về quê ḿnh,
làng ḿnh thím ạ. Cháu sẽ dành dụm để xây cho thím một ngôi mộ đàng hoàng….”
Giờ đây trên đất Mỹ, tiếp xúc với cộng đồng người Việt, tôi không khỏi
băn khoăn về cái điều tâm huyết tôi nói bên mộ thím tôi:’… Nếu đi hết biển,
qua các đại dương và các châu lục, đi măi, đi măi th́ cuối cùng lại trở về quê
ḿnh, làng ḿnh…’ Tôi không biết trong lịch sử thịnh suy của đất nước tôi có
thời điểm nào, hoàn cảnh nào dẫn đến sự ly tán ḷng người sâu thẳm, dẫn đến
việc hàng triệu người chạy ra biển ly hương bất cần mạng sống đến thế không.
Nhưng tôi biết rất rơ không ít người Việt xa xứ ‘qua các đại dương và các châu
lục, đi măi, đi măi’ mà cuối cùng không thể ‘trở về quê ḿnh, làng ḿnh’ được.
Ở đây, người ta đi hết biển th́ chỉ tới nước Mỹ… ” (Trần Văn Thủy. Nếu Đi Hết
Biển. Thời Văn, Hoa Kỳ 2003, 21-24).
Con số những người “người Việt xa xứ qua các đại dương và các châu lục,
đi măi, đi măi mà cuối cùng không thể trở về quê ḿnh, làng ḿnh được” quả là
không ít. Tuy thế, không nhất thiết họ đều “bạc như vôi” v́ đă “nỡ quên công
cha nghĩa mẹ” - như ông Thủy đă muợn những câu ca dao “trách c̣” để trách khéo
họ đâu. Cũng không phải những kẻ đă đi hết biển (và đi … luôn) đều là những
người “có khuynh hướng cực đoan trong cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại … chủ
trương không du lịch về Việt Nam, không gửi tiền về trợ giúp thân nhân cũng
như các công tác từ thiện” (sđd trang 72) - như ông Trần Văn Thủy đă nghĩ đâu.
Ông Thủy “có mặt trên đất Mỹ dài dài… đi nhiều nơi, gặp nhiều người,
tới trên hai chục trường đại học và thành phố thuyết tŕnh hội thảo … bay trên
ba chục chuyến bay trên nội địa nước Mỹ” (sđd, trang 19) nhưng tiếc là ông
Thủy đă không ghé tiểu bang North Carolina, ở miền Đông - Hoa Kỳ.
Nơi đây, chỉ trong ṿng hai tháng (từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2002) đă
có hàng ngàn người tị nạn - bỏ chạy khỏi Việt Nam, sang lánh nạn ở Cao Miên,
sau biến động xẩy ra tại Tây Nguyên hồi tháng 02 năm 2001 - đă được chính phủ
Mỹ chấp thuận cho định cư.
Trong thời gian ông Trần Văn Thủy ở Mỹ và đi Đông, đi Tây để “tṛ
chuyện với một số trí thức nhà văn hải ngoại” th́ ở thành phố Durham - thuộc
tiểu bang North Carolia - cũng có một một buổi tṛ chuyện thân mật giữa mấy cư
dân nơi đây này với bốn người dân miền núi Việt Nam, nhân dịp kỷ niệm tṛn một
năm, sau ngày họ đến Hoa Kỳ.
Nhóm người này ở chung với nhau trong một apartment: Ông Y’Bloi 36
tuổi, ông Y’Dronh 34 tuổi, ông Y’Juuh 31 tuổi và ông Y’Mut Adrong 48 tuổi.
Bằng cái thứ tiếng Anh của người mới học, và học ở tuổi 50, Y’Mut Adrong lấy
ra một tấm h́nh chụp vợ và hai con, và nói:” Buồn lắm. Đói lắm. Ở Việt Nam,
đàn ông làm việc, đàn bà ở nhà. Không có đàn ông - trẻ con không có cái ăn -
Các con tôi, phải chịu đói.” (Y’Mut Adrong takes out a snapshot of his wife
and two children in Vietnam… “very sad,” he says.”Very hungry. In Vietnam, man
work, woman stay home. So no man – children no eat. My children hungry” (A
year later, Montagnards adapting to new lives
http://www.herald-sun.com/durham/4-377604.html).
Ông Y’Bloi có bốn đứa con, ông Y’Dronh có sáu đứa, và ông Y’Juuh th́ có
hai đứa. Tổng cộng, ba nguời đàn ông tị nạn độc thân (tại chỗ) đă để lại 3 bà
vợ và 12 đứa bé - bơ vơ và đói rét giữa núi rừng Tây Nguyên - để đến Hoa Kỳ …
ngồi học tiếng Anh, cho nó đỡ buồn!
Nỗi buồn ly hương của họ (e ) khó … đỡ.
Cả bốn nhân vật này đều đă (hoàn toàn) đi hết biển và tôi tin rằng họ
đều rất thiết tha mong muốn trở về rừng núi cũ, bản làng xưa. Đói no ǵ cũng
chịu, miễn là mỗi chiều họ lại được ngồi bên bếp lửa - cạnh vợ con, anh em,
cḥm xóm - ph́ phà khói thuốc, bùi ngùi kể chuyện đường xa.
Nhưng về th́ chắc chết, chết chắc!
Theo nguồn tin của AP đánh đi ngày 27 tháng 9 năm 2001 th́ trước đó một
hôm, nhà đương cuộc Việt Nam đă lập hai phiên toà xử kín (closed trial) tại
Đắc Lắc và Gia Lai để “xử lén” 14 người dân sơn cước từ 6 đến 15 năm tù - về
những tội danh như sau: “xúi dục nổi loạn”, “làm mất an ninh công cộng” và
“chống chính phủ”….
Tôi viết những ḍng chữ này cũng vào một ngày cuối tháng 9 năm 2004. Từ
đó đến nay, đă bốn năm qua, có thêm bao nhiêu phiên toà khác, có thêm bao
nhiêu người dân miền núi khác đă bị bắt giam, với những bản án vô cùng khắc
nghiệt, chỉ v́ những “tội danh” (hàm hồ) tương tự?
Phiên toà cuối cùng, được công luận biết đến, vào ngày 11 và 12 tháng 8
năm 2004, tại Đắc Lắc, đă kết án 9 nguời dân Tây Nguyên khác từ 5 đến 12 năm
tù v́ can tội “gây mất trật tự an ninh và phá hoại chính sách đoàn kết dân
tộc” - như VOA đă như tường thuật, vào ngày hôm sau. Và theo ghi nhận của AFP
th́ số người này đều bị bắt hôm 10 tháng 4 năm 2004 “trong lúc tham gia cuộc
biểu t́nh để phản đối t́nh trạng đàn áp tôn giáo và tịch thu đất đai bừa băi.”
Ông Trần Văn Thủy có lẽ không biết [và lỡ có biết (chắc) cũng không
quan tâm ǵ lắm] đến những chuyện lặt vặt (rất) không tử tế như thế, ở cao
nguyên. C̣n qúi ông Y’Bloi, ông Y’Dronh, ông Y’Juuh và ông Y’Mut Adrong … th́
rất quan tâm và vô cùng sợ hăi cách hành xử ác độc và man rợ (đến thế) của
những người đang cầm quyền ở VN. V́ thế, sau khi đă đi hết biển, nếu những
người dân miền núi đều không (dám) trở về th́ tôi mong có sự thông cảm của ông
Trần Văn Thủy cho hoàn cảnh đặc biệt (khó khăn) của họ.
Tôi cũng mong ước có được sự bao dung của ông Trần Văn Thủy cho một số
những tị nạn khác nũa - những kẻ mà ông Trần Văn Thủy không có dịp, hoặc không
tiện tiếp xúc, trong thời gian công du ở hải ngoại. Họ vốn có gốc gác ở đồng
bằng, cũng đang sống lưu lạc ở một góc trời nào đó, và cũng đang ở trong những
hoàn cảnh khó khăn như thế - hay hơn thế.
Xin đơn cử một vài trường hợp …
Theo báo cáo của chính quyền địa phương xă B́nh Thạnh Đông - huyện Phú
Tân, tỉnh An Giang, giáp giới Cao Miên - tính đến ngày 27 tháng 3 năm 2003, đă
có hai trăm mười (210) phụ nữ và trẻ em bỗng dưng “biến mất”!
Họ “biến” đi đâu?
Đến đêm 23 tháng 1 năm 2004, sau khi xem phóng sự điều tra Dateline
(của đài NBC) th́ mọi người lờ mờ đoán rằng - rất có thể - một số những đứa bé
thơ ở xă B́nh Thạnh Đông đă “biến” sang nước láng giềng. Khán giả của chương
tŕnh này thấy cảnh sát Cambodia đă đột phá vào những ổ mại dâm trá h́nh ở
Phnom Penh và giải thoát được những bé gái - khoảng từ năm đến mười tuổi -
đang bị ép buộc phải bán dâm. Nhiều h́nh ảnh và tên họ (Liên, Tuyết, Xuân,
Yến) được ghi nhận, chứng tỏ có một số trẻ con Việt Nam đă sinh sống và làm
việc ở đây.
Đến tháng 4 năm 2004, sau khi hội “Taipei Women’s Rescue Foundation” đệ
đơn kiện Web site e-Bay v́ đă đăng quảng cáo bán đấu giá phụ nữ Việt Nam ở Đài
Bắc (khiến cả thế giới bàng hoàng) th́ người ta lại lờ mờ đoán thêm rằng trong
số phụ nữ bất hạn này (chắc) có lẫn vài cô gái nhẹ dạ , ở tỉnh An Giang, đă …
đi hết biển!
Những chuyện thảm thương tủi nhục cỡ đó, thực ra, hoàn toàn không có ǵ
mới mẻ. Từ khoảng đầu thập niên 1990 - ở miền Nam California, Hoa Kỳ, nơi ông
Trần Văn Thủy lui tới nhiều lần và ở lại nhiều ngày – đă có một nhóm người
Việt thực hiện một “project” nhỏ, lấy tên là “Xin Đừng Quên Tôi (Forget - Me -
Not)”.
Nhóm chủ trương tin là "...có nhiều bằng chứng cho thấy rằng một số
thiếu nữ Việt nam bị bắt cóc trước đây hiện đang sinh sống đâu đó tại Thái
lan, Singapore và tại các vùng biên giới Mă Lai." Do đó, họ đưa lên internet
một lời nhắn giản dị (nguyên văn) như sau: "... nếu có tin tức liên quan đến
các cô gái bị hải tặc bắt cóc xin liên lạc với Vietnam & The World Foundation,
P.O.box 4108, Hungtington Beach, CA 92605 - 4018, USA.
Những cô gái kém may mắn như thế, và những nàng Kiều modern của nước
nhà thời mở cửa (đang được rao bán và chuyền tay khắp Năm Châu) cũng như những
đứa bé thơ Việt Nam hiện sống trong những nhà thổ ở Nam Vang, sau khi “xa xứ
qua các đại dương và các châu lục, đi măi, đi măi mà cuối cùng không thể trở
về quê ḿnh, làng ḿnh được” chỉ v́ họ không t́m được lối về. Họ bị “kẹt”, thế
thôi, chứ có phải v́ chủ trương chống cộng cực đoan hay quá khích ǵ đâu.
Nếu ông ông Trần Văn Thủy cũng đi hết biển (bằng đường biển), cũng sống
lê lết hết từ trại tị nạn này sang trại tị nạn khác (và sống từ năm này sang
năm khác), cũng phải “tiếp xúc” với dùi cui hay ma trắc của cảnh sát (Thái
Lan, Mă Lai, Hồng Kông) thay v́ tiếp xúc với những “Việt Kiều yêu nước” như
qúi ông Hoàng Xuân Hăn, Lê Bá Đảng, Trần Văn Khê … - những người vốn thuờng bị
“những mắc mớ hiểu lầm” (sđd, trang 50) là “cơ hội”,” phù thịnh” và “khuynh
tả” - th́ cách nh́n của ông ấy về chuyến Exodus (hăi hùng) của dân tộc Việt,
không chừng, cũng khác.
Thay v́ quanh co, dàn dựng để đặt “những câu hỏi sắp xếp cạnh nhau, đầy
kịch tính” (sđd, trang 46) - rất có thể - ông Thủy sẽ có những câu giản dị,
chân thành và rốt ráo hơn - đại lược như:
- Tại sao liên tiếp trong ba thập niên qua, hàng triệu triệu người dân
Việt (bất kể tuổi tác, giới tính, sắc tộc, tôn giáo, địa phương) đều đă phải
t́m mọi cách để … đi ra biển?
- Ngoài bờ biển phía Đông ra, phần biên giới c̣n lại của Việt Nam đều
là nơi cư ngụ của những dân tộc thiểu số tự ngàn xưa. Họ chính là chủ nhân
đích thực của đất nước này. Chính họ tạo thành tuyến đầu và ṿng đai an ninh
cho toàn lănh thổ. Cũng chính họ, với cuộc sống đơn giản hài hoà với thiên
nhiên, đă giữ cho môi trường sinh thái được quân bằng và tạo một “ṿng đai
xanh” cho tổ quốc. Tại sao lại t́m mọi cách đẩy họ đến mức diệt vong, dồn họ
vào tử lộ đến nỗi phải bỏ núi để… đi hết biển như thế?
- Ai đă khiến cho những phụ nữ miền xuôi bị rao bán như những món hàng?
- Ai đă giam đời những đứa bé thơ ở chốn lầu xanh, nơi quê người đất
khách?
Th́ cũng phải nói cho ra lẽ như thế, chứ tôi không dám đ̣i hỏi ông Trần
Văn Thủy nêu ra những câu hỏi “phiền phức“ và “nguy hiểm” (chết người) cỡ đó -
trong cuốn Nếu Đi Hết Biển. [Đây lẽ ra là công việc của những người soạn thảo
N.Q. 36 nhưng (tiếc thay) họ cũng đă không đủ can đảm và thành thật để nh́n
thẳng vào vấn đề như vậy]. Tôi chỉ mong ông Trần Văn Thủy “vào những khoảnh
khắc tĩnh lặng, những đêm trắng thâu canh” sẽ tự hỏi thầm như thế để “giải toả
cho chính ḿnh” thôi (sđd, trang 20). Được thế, hy vọng, ông Thủy sẽ cảm thông
hơn (hoặc đỡ khó chịu hơn) khi nhắc đến ‘‘những người ham chống cộng một cách
cực đoan” (sđd, trang 47) ở hải ngoại.
Tôi không tin cực đoan là một phương cách ứng xử khôn ngoan, trong bất
cứ hoàn cảnh nào - nhất là chuyện “chống cộng một cách cực đoan”. Giận (quá)
mất khôn thôi. Mà làm sao không giận được cơ chứ?
Sau những biến động biến động ở Tây Nguyên - vào tháng 2 năm 2001 và
tháng 4 năm 2004 - th́ mọi giới chức có thẩm quyền ở Việt Nam (và tất cả những
cơ quan truyền thông của nhà nước) đều đă không tường tŕnh đúng chính xác
những sự kiện xẩy ra và đă không tiếc lời rủa xả … nạn nhân, thay v́ lên tiếng
bênh vực họ (v́ đă bị các quan chức địa phương hà hiếp và dồn đến chân tường).
Sau đó, những người dân miền núi chất phác và khốn khổ này bị lùng bắt phải
chạy trốn qua biên giới, rồi bị săn đuổi đến cùng.
Theo như tường tŕnh của đặc phái viên Lư Định Phát của RFA - từ Nam
Vang, nghe được hôm 19 thang 4 năm 2004 - th́ “cảnh sát và bộ đội Việt Nam tự
do đi lại trên lănh thổ Kampuchea, tại vùng ráp gianh với Việt Nam, nhằm săn
t́m những kẻ chạy qua đất chùa Tháp t́m tự do”. Qua tuần lễ sau, VOA, phát
thanh vào ngày 22 tháng 4 năm 2004, cũng đă trích dẫn lời của một binh sĩ Cao
Miên ở tỉnh Ratanakkiri cho biết: “Việt Nam đă đề nghị thưởng cho họ 500.000
tiền riels (khoảng 125 Mỹ Kim) nếu bắt và giao nộp được một người tị nạn”.
Vậy mà trước thảm cảnh của những đứa bé thơ Việt Nam bị ép buộc bán
thân trong những nhà chứa, cũng ở Phnompenh, th́ cả nước đều câm như hến.
Không những chỉ làm thinh, sứ quán VN tại Nam Vang và nhà đương cuộc Hà Nội
c̣n làm lơ và làm ngơ (cứ y như thể là không có ǵ đáng tiếc xẩy ra vậy) dù
cảnh sát và bộ đội của họ có thể tự do đi lại trên lănh thổ Kampuchea như chỗ
không người.
Đó là thái độ, rơ ràng, rất - không - tử - tế của những kẻ đang cầm
quyền ở Việt Nam. C̣n ông Trần Văn Thủy - người được nhiều khán giả qúi mến
(trong số đó có kẻ đang viết những ḍng chữ này) qua phim “Chuyện Tử Tế” - ở
trang cuối cùng của cuốn Nếu Đi Hết Biển, đă mượn lời ”một ông bạn chuyên làm
công việc nghiên cứu về văn hoá xă hội ở tiểu bang Massachussetts”, để đi đến
cái kết luận (có vẻ) rất tử tế như sau:
“Chị Tuyết cùng Chris là mẫu người thuộc lực lượng thứ ba. Nghĩa là mẫu người
trung dung, không tả, không hữu, không hô ủng hộ hay đả đảo. Họ sống lẳng lặng
có khi âm thầm.”
“Từ câu chuyện của Chris và Tuyết tôi bỗng nhớ lại trong nhiều cuộc gặp gỡ
tiếp xúc tôi đă bắt gặp những con người như thế, nhiều lắm kể ra đây không
xuể. Có thể nói trong các cộng đồng người Việt ở hải ngoại, họ là số đông, rất
đông, không phe phái, không ồn ĩ, không nhăn hiệu âm thầm yêu thương, xót xa,
chia sẻ với đất nước ḿnh, đồng bào ḿnh”.
Cũng như người bạn (không nêu tên) của ông Trần Văn Thủy - mà tôi đoán
chừng có lẽ là người ngoại quốc, hoặc giả (cũng) là người Việt nhưng chỉ quen
sống ở nước ngoài - tôi đặc biệt qúi mến những người “thuộc lực lượng thứ ba”
như vậy. Họ “trung dung”, “không tả”, “không hữu”, “không hô ủng hộ hay đả
đảo” ai. Họ sống “lẳng lặng” và “âm thầm”.
Tuy vậy, trong lúc mà đất nước đang mấp mé ở bờ vực thẳm - như hiện
cảnh - mà cổ vơ một thái độ sống như thế th́ tôi sợ rằng ông Thủy (rất) có thể
bị ngộ nhận là không được tử tế ǵ cho lắm, hay nói quá ra một tí là một kẻ ….
“ngụy” tử tế!
Dân Việt, hiện nay, dù ở bất cứ nơi đâu, sợ không “afford” nổi lối sống
“qúi phái” cỡ đó. Tất cả những nông dân chân lấm tay bùn ở Nghệ An, Thái B́nh,
Đồng Nai, Trà Cổ … - cũng như những người dân miền núi chân chất chúng tôi ở
Gia Lai, Đặc Lắc, Đắc Nông … - đều mong muốn có được một cuộc sống “lẳng lặng”
và “âm thầm” đấy chứ? Đâu có ai muốn bỏ rừng, bỏ núi, bỏ ruộng, bỏ vườn lũ
luợt kéo nhau đến công đường để đ̣i lại đất đai bị cướp đoạt hay xin xỏ những
quyền sống căn bản và tối thiểu – đă được đại gia đ́nh nhân loại nh́n nhận từ
lâu.
Làm như thế rất mất thời giờ, rất tốn công, tốn của, và rất cực nhọc -
nhất là đối với những nông dân ở tận trong Nam, phải lặn lội về đến Hà Nội,
trong những kỳ họp quốc hội, để biểu t́nh hay đưa đơn khiếu kiện - mà cũng chả
đi đến đâu. Đă thế, không ít người khi trở lại địa phương c̣n bị theo dơi, trù
dập; hay tệ hơn nữa là bị đánh đập, săn bắt, tù tội …
Tương tự, những chiến dịch xin chữ kư, những vụ dàn chào, những cuộc
biểu t́nh hô hào (“đả đảo”, “ồn ĩ”) chống hết chuyện này đến chuyện khác ở New
York, ở California, Sydney, Paris, Warsaw … (thường) cũng không tạo ra được
những hiệu quả mong muốn. Không những vậy, đôi lúc, nó c̣n có vẻ khôi hài và
lố bịch - theo như cách nh́n của ông Trần Văn Thủy.
Tuy nhiên, người dân - ở trong cũng như ở ngoài nước Việt - vẫn tiếp
tục biểu t́nh, vẫn tiếp tục hô hào (“đả đảo”, “ồn ĩ”) v́ họ không biết phải
làm ǵ khác? Chứ chả lẽ cứ để cho sông núi bị tàn phá, lănh thổ bị dâng hiến,
đất đai vườn tược bị tước đoạt, con cái bị mang bán đấu giá, cháu chắt - mới
năm bẩy tuổi đầu - bị mang giam vào nhà thổ … với sự “xót xa” và “âm thầm” măi
hay sao?
Và chả lẽ cứ tiếp tục “yêu thương, xót xa, chia sẻ với đất nước ḿnh,
đồng bào ḿnh” măi - bằng cách cặm cụi đi làm, dành dụm những đồng tiền mồ hôi
nước mắt, để hàng năm đều đặn gửi về quê hương vài tỉ MK - mà không dám kêu
than, dù biết rằng ngay cả đồng tiền cứu trợ (thiên tai) cũng chưa chắc đă đến
được tay người thân hay những đồng bào ruột thịt của ḿnh?
Lịch sử tính bằng thế kỷ, đời người tính bằng năm. Dân tộc này c̣n phải
cắn răng “âm thầm” chịu đựng thêm bao nhiêu năm nữa th́ mới “đúng đường lối
chính sách”, mới khỏi bị coi là “phản động”, và khỏi bị gán tội “gián điệp”
hay “phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc”?
“Cái bi kịch lớn nhất, khốn nạn nhất cho giới cầm bút nói riêng và đa
số trí thức, người dân Việt Nam là
bệnh liệt kháng trước bất
công”. Tôi lại vừa nghe nhà văn Dương Thu Hương than phiền như thế.
Và nếu đúng thế, lằn ranh giữa “liệt kháng” và “âm thầm yêu thương” - xem
chừng - có vẻ mong manh quá nhỉ. Tôi xin trở lại vấn đề này, cũng như vài vấn
đề nho nhỏ khác nữa (trong cuốn Nếu Đi Hết Biển) vào một dịp khác (*).
K’ Tien
(*) Xin đọc bài “PTSD, HIV Và Tiếp Chuyện Đă Đi Hết Biển“ ,
cùng một người viết.