
NGHĨ G̀ VỀ NGHỊ QUYẾT SỐ 36
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ CHÍNH PHỦ CỘNG SẢN HÀ NỘI
VỀ CÔNG TÁC ĐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI?
TS. Nguyễn Thanh Liêm
Cách đây hơn năm năm, vào khoảng cuối năm 1998, các ông Nguyễn Bá Chung và tiến sĩ Bowen của Trung tâm Nghiên Cứu William Joiner Center trường đại học Massachusetts Boston (UMass Boston) có làm đề nghị xin tiền của cơ quan Rockefeller để thực hiện một công cuộc nghiên cứu mang tên “(Re)constructing Identity and Place in the Vietnamese Diasporạ” (Tái tạo căn cước và quê hương trong nhóm người Việt Nam lưu vong). Đây là một công cuộc nghiên cứu thuộc lănh vực văn hóa và tâm lư xă hội (socio-cultural psychology) nhằm t́m hiểu identity (nhân dạng hay căn cước) của người Việt Nam hải ngoại để từ đó t́m biện pháp sửa đổi identity đó làm cho nó trở thành identity của một người Việt Nam giống như những người Việt Nam hiện đang sống trong xă hội Việt Nam dưới chề độ cộng sản. Những người đặt tên cho chương tŕnh này có thể nghĩ rằng cái identity của người Việt tị nạn cộng sản là một identity sai lạc cần phải tái tạo lại cho đúng cũng như cho họ có cái nh́n đúng hơn về quê hương của họ ở đâu để họ biết đúng nơi chốn mà phụng sự tổ quốc. Đây là một tiến tŕnh thay đổi hết sức quan trọng về phương diện tâm lư xă hội làm nền tảng cho những thay đổi khác trong thái độ chính trị của người Việt tị nạn đối với chế độ hiện tại ở Việt Nam. Trong lănh vực khoa học nhân văn, khi tôi nói identity của tôi là tôi muốn nói đến những đặc tính tâm lư xă hội nào đó của tôi, và những đặc tính tâm lư xă hội đó cho phép tôi nhận ra tôi, khác với những người khác ở chỗ nào. Tôi tạm gọi nó là “căn cước tinh thần” của tôi. Nó cũng như cái thẻ căn cước, về phương diện vật chất của tôi, cho phép người ta nhận ra h́nh dáng của người mang thẻ là tôi vâ.y. Các nhà khoa học nhân văn nhận thấy mỗi người có cái identity (tinh thần) của ḿnh, gồm một số những đặc tính văn hóa, xă hội, chính trị nào đó. Người Việt Nam cộng sản mang căn cước cộng sản, gắn liền với chủ thuyết Mác Lê, với vô sản chuyên chính, với tư tưởng Hồ Chí Minh, với chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến thắng 1975. Họ được đồng hóa (identified) với một số những đặc tính văn hóa, xă hội, chính trị nào đó mà khi nh́n họ ta thấy họ mang nhăn hiệu cộng sản với bảng hiệu cờ đỏ sao vàng chẳng ha.n. Ngược lại phần đông người Việt hải ngoại hiện nay mang những đặc tính văn hóa, xă hội, chính trị khác hơn người cộng sản. Họ mang identity (căn cước tinh thần) của người Việt Quốc Gia tị nạn cộng sản, với bảng hiệu Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Họ được đồng hóa với tự do, dân chủ, đa nguyên, đa văn hóa, tiến bộ, không chấp nhận chế độ cộng sản, và có thể triệt để chống Cộng Sản Hà Nô.i. Mục tiêu của chương tŕnh nghiên cứu của UMass Boston là giúp t́m giải pháp biến đổi căn cước tinh thần của người Quốc Gia làm cho nó trở thành căn cước của người cộng sản để người Việt hải ngoại hội nhập vào xă hội cộng sản. Cái nh́n và hướng đi của những người đẻ ra chương tŕnh này không khác cái nh́n và hướng đi của cộng sản Hà Nội trong chính sách ḥa giải ḥa hợp, đại đoàn kết quốc gia (theo đường hướng Cộng Sản) mà người cộng sản đă nghĩ tới từ lâu. (V́ vậy nên ngay khi bắt đầu, Trung Tâm WJC đă tuyển ngay hai học giả cộng sản của Hà Nội vào làm công việc nghiên cứu này, và cũng v́ thế mà một nhóm người Quốc Gia, mà đại diện là ông Nguyễn Hữu Luyện ở Boston, đă mạnh mẽ phản đối bằng cách khởi tố Trung Tâm WJC của trường đại học UMass về vụ này trong mấy năm qua). Hôm nay một lần nữa người ta nh́n thấy lại chính sách này trong bảng nghị quyết mới số 36 của chính quyền Hà Nô.i.
Nghị Quyết số 36 do Phan Diễn, Ủy Viên Bộ Chính Trị, kư ngày 26 tháng 3, 2004 vừa qua gồm bốn phần:
(1) phần thứ nhất là phần nhận định về công tác Việt Kiều vận trong thời gian qua,
(2) phần thứ hai đề ra phương hướng công tác trong thời gian tới, (3) phần thứ ba nêu những nhiệm vụ chủ yếu của công tác Việt Kiều vận, và
(4) phần thứ tư đề cập đến các tổ chức/cơ quan lănh nhiệm vụ thực hiện công tác này.
Mở đầu phần một, bảng nghị quyết cho thấy chính quyền Cộng Sản đă nh́n về tập thể người Việt ở hải ngoại với cái nh́n khá đặc biê.t. Trước nhất đây là một tập thể thành công lớn lao về phương diện học thức, cũng như về kinh tế, so với tập thể người Việt trong nước. Tập thể này có một tiềm năng hết sức lớn lao trong việc phát triển xứ sở. Nếu có thể thu hút được số người này về phụng sự cho quê hương đất nước th́ chính quyền Cộng Sản hiện hữu sẽ gặt hái được nhửng thắng lợi to tát. Nhưng tập thể người Việt hải ngoại này mang “căn cước tinh thần” là người Việt Quốc Gia tị nạn cộng sản chớ không mang căn cước cộng sản. Từ cái nh́n đặc biệt đó, nghị quyết viết: “Đảng và Nhà Nước luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc VN, đă đề ra nhiều chủ trương, chính sách rộng mở và biện pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho đồng bào về thăm đất nước, người thân, đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học – công nghệ, hoạt động văn hóa – nghệ thuật.” Để đạt được mục tiêu này các “công tác thông tin, văn hóa phục vụ cộng đồng từng bước được tăng cường, nhất là trong lănh vực phát thanh, truyền h́nh và qua mạng internet.”
Nhưng bảng nghị quyết cũng thú nhận rằng mặc dù các công tác Việt Kiều vận đă được tăng cường, chính sách thu hút người Việt hải ngoại chỉ mới thu lượm một số kết quả khiêm nhường chớ chưa đạt được mục tiêu mà người Cộng Sản mong muốn. Bảng nghị quyết ghi:
- “Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà Nước đối với người VN ở nước ngoài chưa được quán triệt sâu sắc, thực hiện đầy đủ.”
- “Công tác nghiên cứu, tham mưu về chính sách chưa theo kịp những chuyển biến mớị”
- “Công tác bảo hộ quyền lợi chính đáng của người VN ở nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức.”
- “Các chính sách đă ban hành chưa đồng bộ và chưa thể hiện đầy đủ tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc; chưa khuyến khích mạnh mẽ người VN ở nước ngoài hướng về quê hương, đóng góp cho công cuộc phát triển đất nước.”
- “H́nh thức vận động cộng đồng c̣n chưa thực sự đổi mới, đa dạng và linh hoạt để có thể quy tụ, động viên đồng bào bà con tham gia các hoạt động có ích lợi cho cộng đồng và quê hương.”
- “Việc phát hiện, bồi dưỡng những nhân tố tích cực, việc khen thưởng, động viên những người có thành tích ít được chú tro.ng.”
Bảng nghị quyết cũng đề cập đến những trở lực, khó khăn gặp phải trong nỗ lực vận động Việt Kiều: “Một số ít người đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức chống phá đất nước, phá hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại với VN.”
Từ những khuyết điểm trên đây chính quyền Cộng Sản đề ra sách lược mới cho công tác, làm thế nào để cho công việc vận động Việt Kiều được hiệu quả hơn trong những ngày sắp tới. Tư tưởng chỉ đạo trong phương hướng mới này là “thể hiện đầy đủ truyền thống đại đoàn kết dân tộc,” mà, theo Cộng Sản, “cơ sở của sự đoàn kết là ư thức dân tộc và ḷng yêu nước.” Người Cộng Sản cho rằng: “Niềm tự hào dân tộc và mục tiêu chung của mọi người VN là giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương laị”
Bảng nghị quyết nói rằng Đảng và Nhà nước mong muốn “khuyến khích người VN ở nước ngoài ...giữ ǵn tiếng Việt, bản sắc văn hóa và truyền thống văn hóa VN, đoàn kết đùm bọc, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, giữ mối quan hệ gắn bó với gia đ́nh và quê hương...góp phần xây dựng quê hương đất nước, chủ động đấu tranh với các biểu hiện cố t́nh đi ngựơc lại lợi ích chung của dân tộc.”
Với phương hướng mới này, trong thời gian tới đây, chính quyền Cộng Sản sẽ đẩy mạnh công tác tuyên truyền, sửa đổi cách thức xăm nhập vào cộng đồng người Việt hải ngoại, tung ra nhiều kế hoạch mới mẻ hữu hiệu hơn trong việc vận động thu hút Việt Kiều đem tiền bạc và tài năng/trí năo về giúp đỡ/ kinh doanh/ làm việc cho Đảng và Nhà Nước. Đặc biệt và quan trọng hơn cả là phải tích cực hơn nữa trong nỗ lực ḥa giải ḥa hợp theo công thức Cộng Sản, hiểu theo nghĩa tạo dựng một bộ mặt đẹp đẽ cho Đảng và Nhà Nước trong ḷng người Việt hải ngoại đồng thời tái tạo một “identity”(nhân dạng hay căn cước) mới cho khối người này để họ dần dần đồng hóa vào số người tin tưởng và tích cực theo Đảng trong nước.
Đây là một chương tŕnh hết sức to tát, có tầm quan trọng vô cùng lớn lao cho nên tất cả các cơ quan chính phủ thuộc các cấp từ trung ương đến địa phương cùng các đoàn thể và tổ chức nhân dân của chính quyền đều được chỉ thị tham gia vào việc thực hiện đường lối và chính sách này. Tuy nhiên nhiệm vụ chính vẫn là nhiệm vụ của Bộ Ngoại Giao và Mặt Trận Tổ Quốc.
* * *
Qua nghị quyết 36 ta thấy mục tiêu chính của chính quyền Cộng Sản hiện hữu từ trước tới giờ là muốn biến tập thể người Việt hải ngoại thành một tập thể nhận ḿnh là người Việt Nam, trở về với truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam theo cái nh́n của người Cộng Sản, trung thành với tổ quốc, hết ḷng phụng sự quê hương, xây dựng xă hội, giúp quốc gia tiến mạnh trên đường hiện đại hóa. Muốn đạt mục tiêu này th́ trước hết phải thực hiện cho kỳ được sự ḥa giải/ḥa hợp (theo công thức của Cộng Sản) đối với những thành phần có tinh thần chóng Cộng ít hay nhiều, để từ đó đi đến sự thay đổi “identity” (đồng hóa hay nhận dạng hay căn cước) của người Quốc Gia tỵ nạn thành “identity” của người Việt Cộng Sản mà người CS gọi là người Việt của dân tộc Việt, của XHCN, đang sống ở nước ngoài. Nói cho dễ hiểu th́ đại khái là như thế này: Phần đông người Việt ở hải ngoại là người Quốc Gia tỵ nạn Cộng Sản, mang nhăn hiệu “Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản,” tự đồng hóa (identify) với h́nh ảnh một nạn nhân của Cộng Sản, phải trốn tránh chế độ Cộng Sản. Cái nhăn hiệu đó nói rằng mặc dù họ là người Việt Nam nhưng họ không lệ thuộc vào và cũng không chấp nhận chính quyền của Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam hiện hữu. Hăy xem như, với nhăn hiệu đó, họ là người Quốc Gia (QG) mang bảng hiệu “Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.” Chính quyền CS muốn thay cái nhăn hiệu và bảng hiệu đó. CS muốn người QG mang một nhăn hiệu khác, nhăn hiệu khác này là “Người Việt Nam Yêu Nước,” với bảng hiệu khác thích hợp hơn, đó là bảng hiệu “Cờ Đỏ Sao Vàng.” Với nhăn hiệu mới này người Việt hải ngoại sẽ chỉ biết có một điều là nước Việt Nam và văn hóa truyền thống Viêt Nam, để tận tụy phụng sự quốc gia dân tộc, và không chen vào hay chống đối việc làm của Đảng và Nhà Nước Cộng Sản. Đó cũng là chủ trương ḥa giải ḥa hợp theo định hướng của Cộng Sản. Lẽ dĩ nhiên là về phía người QG ai cũng thấy những cụm từ “ḥa giải/ḥa hợp,” “đại đoàn kết,” “xóa bỏ hận thù,” mà người Cộng Sản đă thường dùng chỉ là những chiêu bài. Ḥa giải/ḥa hợp như vậy thật sự đối với người Việt Quốc Gia chỉ có nghĩa là chấp nhận, là chạy theo, là đầu hàng Cộng Sản vô điều kiê.n. Hậu ư ở sau chiêu bài rất khó che dấu. Làm sao có ḥa giải/ ḥa hợp được khi người CS vẫn giữ nhăn hiệu và bảng hiệu của CS trong khi người QG phải thay đi, bỏ đi nhăn hiệu và bảng hiệu của người QG. Có phải người CS vẫn c̣n nghĩ rằng chỉ có CS là có chính nghĩa c̣n người QG chỉ là kẻ Ngụy mà thôi chăng? Nếu c̣n mang nặng quá khứ, c̣n đề cao và hănh diện với cái đă qua, c̣n mang mặc cảm tự tôn như vậy th́ khó mà xóa đi sự cách biệt để nh́n đến tương lai của đất nước. Ngày nào người CS c̣n mang nặng nhăn hiệu và bảng hiệu của CS th́ ngày đó người QG vẫn c̣n phải giữ vững nhăn hiệu và bảng hiệu của người QG, và như thế CS vẫn là CS mà QG vẫn là QG, và không có cách ǵ hai người đó có thể ngồi lại với nhau để bàn chuyện tương lai xứ sở đươ.c. Người CS nói: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương laị” Nhưng trên thực tế khi nói như vậy người CS có thật t́nh làm đúng như vậy không hay là chỉ nêu lên đường lối để chỉ một ḿnh người QG phải theo đó mà làm. Khi nhận ḿnh là Đảng và Nhà Nứơc th́ đă mặc nhiên đồng hóa ḿnh với Mác Lê, với Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, với chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến thắng Mỹ Ngụy, chiến thắng 30/4/75, với toàn bộ chính quyền Cộng Sản độc tài chuyên chính rồi, và như vậy th́ c̣n chỗ nào để xóa bỏ phân biệt đối xử nữa? Cơ hội đồng đều đă có được chính quyền Cộng Sản áp dụng không trong việc tuyển chọn sinh viên vào đại học cũng như tuyển chọn người vào các chức vụ điều hành quan tro.ng? Ai cũng có quyền ứng cử hay chỉ có đảng viên Cộng Sản mới được cái đặc quyền đó? Ai cũng có quyền yêu nước, phát biểu/đóng góp ư kiến của ḿnh vào công việc chung của quốc gia hay chỉ có Nhà Nước/chính quyền Cộng Sản mới được làm những chuyện đó?
Khi việc làm không đi đôi với lời nói th́ những khẩu hiệu tốt đẹp nêu ra chỉ là những chiêu bài tuyên truyền khó gây được ḷng tin ở người dân, nhất là những người dân vốn đă không phục, không tin ở chính quyền Cộng Sản. Đó là lư do khiến công tác ḥa gỉai/ḥa hợp và thay đổi nhăn hiệu người QG của CS đă thất ba.i. Từ lúc nhờ tay Trần Trường tung nhăn hiệu CS và bảng hiệu Cờ Đỏ Sao Vàng ở Nam Cali đến nay người ta thấy ư thức nêu cao tinh thần QG với bảng hiệu Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ chống CS càng ngày càng vững vàng mạnh mẽ hơn ở tập thể người Việt Quốc Gia tỵ na.n. Cùng lúc đó nhiều đoàn thể, tổ chức chính trị tiến hành mạnh mẽ các công cuộc tranh đấu đ̣i nhân quyền, đ̣i tự do dân chủ, gây nhiều ảnh hưởng bất lợi cho CS. Ngày nay Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ đă được công nhận ở một số tiểu bang và nhiều thành phố trên nước Mỹ, nơi có người Việt cư ngụ. Các hội đoàn sinh viên và tổng hội sinh viên Việt Nam ở các nơi trên nước Mỹ đă nêu cao nhăn hiệu QG. Các phái đoàn CS xuất ngọai đi tới đâu bị biểu t́nh chống đối tới đó. Các ṭa đại sứ và tổng lănh sự Cộng Sản ở các nơi thường xuyên chứng kiến cảnh xa lánh, chống đối của Việt kiều. Từ Hoa Kỳ đến Gia Nă Đại, Âu Châu, Úc Châu, đến Liên Hiệp Quốc, chỗ nào cũng có tiếng nói của người Quốc Gia, chống chế độ độc tài, độc đảng, áp bức của Đảng và Nhà Nước Cộng Sản, đ̣i tự do, dân quyền và dân chủ đa nguyên cho người dân Viê.t.
Trước những thất bại này lẽ dĩ nhiên là Cộng Sản phải thay đổi hay đổi mới đường lối, sách lược, kế hoa.ch. Nghị Quyết 36 cho thấy những thay đổi hay đổi mới đó. Mục tiêu chính th́ không thay đổi nhưng phương hướng, sách lược, chiến thuật và kế hoạch th́ được sửa đổi để đáp ứng với t́nh thế mới. Phần thứ ba của nghị quyết cho thấy trong những ngày tới đây, Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam sẽ:
- Hoàn chỉnh những luật lệ, thủ tục liên hệ tới việc về nước, đầu tư kinh doanh của Việt Kiều. Đổi mới và đa dạng hóa các phương thức vận đô.ng. Mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người Việt hải ngoa.i.
- Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền giúp người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng t́nh h́nh đất nước và chính sách của Đảng và Nhà Nước. Tích cực hỗ trợ và đầu tư cho các chương tŕnh truyền thanh, truyền h́nh, báo chí của người Việt hải ngoa.i.
- Tích cực đầu tư cho chương tŕnh dạy và học tiếng Việt, nhất là cho thế hệ trẻ. Xây dựng và hoàn chỉnh sách giáo khoa tiếng Việt cho kiều bào. Cải tiến chương tŕnh dạy tiếng Việt trên vô tuyến truyền h́nh, đài phát thanh và qua mạng internet. Cử giáo viên dạy tiếng Việt tới những nơi có thể để giúp bà con học tiếng Viê.t. Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh thiếu niên người VN ở nước ngoài.
- Tổ chức cho các đoàn nghệ thuật dân tộc ra nước ngoài biểu diễn. Thường xuyên tổ chức các chương tŕnh giao lưu văn hóa, văn học, nghệ thuật, triển lăm, hội thảo, du lịch về cội nguồn.
- Sách lược và chiến thuật mới của CS thật sự cũng không phải hoàn toàn mới lạ. Từ trước tới giờ người CS cũng đă sử dụng hầu hết những chiến thuật vừa kể. Nhưng không đạt được kết quả mong muốn v́ một lư do rất quan trọng này: tuyên truyền lộ liễu, biểu lộ áp lực chính trị một cách quá rơ rệt trong khi bản chất của ḥa hơ.p/ḥa giải không thay đổi. Muốn thay đổi quan điểm của một người, hay quan trọng hơn nữa, muốn thay đổi identity của một người, người ta phải dùng văn hóa, giáo dục, tâm lư, t́nh cảm nhiều hơn là dùng những quyền lực nào khác. Nếu người CS đến với người QG trong tư thế của một cán bộ của Đảng và Nhà Nước, mang bảng hiệu Cờ Đỏ Sao Vàng rơ rệt, để tuyên truyền cho chế độ th́ chắc chắn người QG sẽ phản ứng mạnh mẽ, chẳng những không thèm nghe mà c̣n chống đối nữa. Nhưng nếu người CS, che dấu nhăn hiệu CS của ḿnh đi, rồi vui vẻ đến với người QG như người đồng hương lịch sự, hay người bạn, thăm hỏi, giúp đỡ...th́ lần lần sẽ lấy được cảm t́nh của người QG, và từ đó có thể làm người ta ít nhiều thay đổi. Hoặc giả người CS mang lên ḿnh nhăn hiệu của một người nghệ sĩ đi tŕnh diễn văn nghệ gây sự thương mến trong ḷng khán thính giả mộ điệu để từ từ thay đổi cái nh́n của những người này. Bỏ tiền ra làm báo, truyền thanh, truyền h́nh với những chương tŕnh nhẹ nhàng, khéo léo... người CS có thể từ từ đi sâu vào ḷng người dân đươ.c. Hay hơn nữa là làm giáo chức dạy tiếng Việt, dạy văn hóa Việt cho học sinh, sinh viên Việt Nam và người ngoại quốc. Học tṛ, nhất là học tṛ Việt Nam, bao giờ cũng có cảm t́nh, thương mến, kính nể thầy cô. Đem đến cho học sinh những kiến thức về tiếng Việt, về văn hóa Việt, và một cái nh́n đặc biệt về lịch sử Việt Nam, rồi từ đó tạo cho học sinh một cái identity theo ư muốn của thầy cô, đó không phải là một việc khó làm. Chỉ cần có nhiều tiền, có cán bộ tận tụy, biết chút tâm lư giáo dục, có những tài liệu giáo khoa khéo léo, tổ chức thật nhiều các lớp tiếng Việt và văn hóa Việt, các nhà giữ trẻ Việt, các trung tâm sinh hoạt Việt Nam, vv...người ta có thể đào tạo được những thế hệ mai sau với cái identity người ta mong muốn. Đối với những người trẻ, không biết ǵ về chiến tranh ở Việt Nam trong thời gian 1945-1975, không hiểu rơ chính sách độc tài lừa đảo của Cộng Sản dưới sự lănh đạo của HCM-Lê Duẫn ..., không có hận thù ǵ đối với CS, không mang rơ ràng “identity” của người Việt tỵ nạn Cộng Sản, th́ việc tạo ra một “identity” VN theo kiểu CS muốn cho họ không phải là một điều gay go khó thực hiê.n. Nếu chính quyền Cộng Sản áp dụng phương sách, đường lối, và chiến thuật như vừa nói trên th́ người Quốc Gia sẽ phải phản ứng, đối phó như thế nào? Đề cao cảnh giác, ngồi lại với nhau, chung sức với nhau nghiên cứu t́m cách đối phó, đó là bước đầu, và cũng là bước quan trọng cần nên làm. Bước đầu cần thiết đó sẽ đẻ ra những bước kế tiếp. V́ đây là công việc chung của cả một tập thể nên cần có sự làm việc của tập thể, của nhiều người hơn là những phản ứng cá nhân riêng rẽ thiếu quy mô, thiếu tổ chức.
Và sau hết, trước khi kết thúc, nếu như, có thể đây là một chữ NẾU thật to... Nếu như người Cộng Sản đừng v́ quyền lợi riêng tư của cá nhân, đừng v́ quyền lợi riêng của Đảng ḿnh, thật t́nh nghĩ đến đất nước và dân tộc Việt Nam, đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết, thật t́nh muốn làm cho xă hội tiến bộ, người dân ấm no, nước nhà giàu mạnh lên như Đài Loan, Đại Hàn, Nhật Bản...th́ người Cộng Sản nên tin thật và làm đúng ư nghĩa của sự ḥa giải/ḥa hợp (thay đổi bản chất), đại đoàn kết quốc gia, nh́n về tương lai như đă nêu ra trong nghị quyết 36. Điều kiện tiên quyết là nên bỏ đi nhăn hiệu Cộng Sản, bỏ đi bảng hiệu Cờ Đỏ Sao Vàng, quên đi những chiến thắng đă qua, xóa đi những hận thù và mặc cảm tự tôn, mở rộng ṿng tay đón nhận, để cho người QG cũng có cơ hội nghĩ đến việc bỏ nhăn hiệu và bảng hiệu cũ của ḿnh, để cùng ngồi lại với nhau xây dựng một nhăn hiệu mới (VIỆT NAM MỚI chẳng hạn) và bảng hiệu mới chung cho tất cả mọi người Việt Nam trên khắp thế giới. Từ đó đại đoàn kết quốc gia được thành h́nh, và từ đó mọi người sẽ bắt tay nhau mà xây đắp tương lai. Được như thế th́ thật là một sự may mắn và cũng là một vinh hạnh lớn lao cho dân tộc ḿnh.
TS. Nguyễn Thanh Liêm