ĐT. 714-541-9859, 714-423-0577                      THONG THIEN HOC

Google

Trang Chính

English

Việt Nam


Hoa Kỳ

Sinh Hoạt Cộng Đồng


Thế Giới
Diễn Đàn

Văn Học

B́nh Luận

Kinh Tế
Câu Chuyện ThờiSự

Chuyện Lạ 4Phương

Khoa Học

Sức Khỏe

Ẩm Thực

Nhân Vật

Người / Ngợm

Vui Cười


Biếm Thi

Linh Tinh

Rao Vặt

Nhạc Hoàng Vân

VNCH Foundation

Ca Dao Việt Nam

Thơ Hà Huyền Chi

Hà Phương Hoài

Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

OVERSEAS
FREE VIETNAMESE
COMMUNITIES

RADIO
SAIGON-HOUSTON

Trả Chủ Quyền

Nguyễn Đạt Thịnh 

VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC của trường Cao Đẳng Quốc Pḥng Hoa Kỳ vừa phát hành tài liệu dài 69 trang “IRAQ VÀ VIỆT NAM: NHỮNG KHÁC BIỆT, NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ SUY LUẬN. ” Tác giả là hai giáo sư Jeffrey Record và W. Andrew Terrill . Họ báo động là con đường Iraq chánh quyền Bush đang đi có thể đưa Hoa Kỳ đến cảnh tham bại cay đắng như Hoa Kỳ đă thảm bại tại Việt Nam một thế hệ trước. Theo hai học giả này th́ Hoa Kỳ đă cáng đáng tại Việt Nam, và đang cáng đáng tại Iraq một trọng trách mà không quyền lực nào có khả năng cáng đáng nổi; trọng trách đó là xây dựng quốc gia (nation building ). Đă không xây dựng nổi một quốc gia Nam Việt, Hoa Kỳ cũng sẽ không xây dựng được một quốc gia Iraq . Công tŕnh nghiên cứu thật sự chỉ dài 56 trang, 13 trang c̣n lại là để liệt kê những tài liệu và sách tham khảo. Nói một cách khác bài nghiên cứu là thành quả của công phu tra cứu, t́m ṭi trong hành chục ngàn trang sách và hàng trăm bài báo; đáng tiếc là tác phẩm rất nặng kư này lại nặng tính lư thuyết giáo khoa hơn là khuyến cáo thực dụng . Cả hai học giả đều là tiến sĩ. Tác phẩm của họ được Viện Nghiên Cứu Chiến Lược của Trường Cao Đẳ ng Quốc Pḥng trang trọng giới thiệu. Với tầm quan trọng của cơ quan phát hành và với địa vị think tank của hai tác giả qua nhiều bài biên khảo trước, chắc chắn tác phẩm của họ đang được sự chú ư của tất cả chính khách và tướng lănh, kể cả những người không trực tiếp liên quan đến Iraq . ĐIỂM QUAN TRỌNG NHẤT trong tài liệu là họ khuyến cáo chính quyền Bush đừng xây dựng quốc gia Iraq , v́ kinh nghiệm xây dựng quốc gia Nam Việt đă chứng minh là việc xây dựng quốc gia không làm được. Trong tháp ngà lư thuyết, họ không biết rằng chưa bao giờ Hoa Kỳ làm công việc xây dựng quốc gia Nam Việt. Việc họ giết Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và chỉ thị cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phá nát QLVNCH bằng chiến thuật “tái phối trí” không thể nào gọi là xây dựng quốc gia Nam Việt. Tác dụng thật sự của những việc này là Hoa Kỳ đă xóa sự hiện diện của Nam Việt, một sự thật đau đớn cho người Việt Nam, và không thể chối căi cho người Mỹ. Mục đích của hai khối óc chiến lược này là ôn cố tri tân, học kinh nghiệm những sai lầm cũ tại Việt Nam để sai lầm không tái diễn tại Iraq . Nhưng sai lầm cũ của Hoa Kỳ không phải là xây dựng quốc gia Việt Nam và hiện nay Hoa Kỳ cũng không hề có ư định xây dựng quốc gia Iraq . Tương đồng “xây dựng quốc gia” mà họ nêu lên như một bài học vô cùng quan trọng rút từ việc thất trận tại Việt Nam chỉ là giả tương, trong lúc một tương đồng có thật, đang diễn ra, lớn lao và sừng sững trước mặt, họ lại không nh́n thấy. Tương đồng đó là chiến lược “trao trả chủ quyền . ” nửa thế kỷ trước, Việt Nam đă có kinh nghiệm về chiến lược thủ đoạn này. THÁNG 10 NĂM 1953, Việt Nam nhận lănh chủ quyền từ tay Toàn Quyền Pháp kiêm Tổng Tư Lệnh chiến trường Đông Dương, Đại Tướng Henri Eugène Navarre . Navarre được chính phủ René Mayer chỉ định thay thế Đại Tướng Raoul Salan ; ông sang Việt Nam nhận lănh trách vụ ngày 8 tháng 5/1953. Mặc dù mang cấp bực đại tướng nhưng Navarre không có kinh nghiệm chỉ huy đại đơn vị. Ông là một tướng rất giỏi về mưu lược. Hai tháng sau ngày nhận lănh chức vụ, ông trở về Paris với đề nghị chính phủ Pháp trao trả chủ quyền cho cả 3 quốc gia Việt, Miên, và Lào trong Liên Bang Đông Dương. Navarre tŕnh bày việc trả chủ quyền cho 3 quốc gia này là giải pháp chiến lược giúp giải quyết gánh nặng pḥng thủ diện địa mà quân đội viễn chinh Pháp không đủ quân, và không có chính nghĩa, không được sự ủng hộ của dân chúng Việt Nam, để cáng đáng. Kế hoạch ông tŕnh bày nghe trái tai và ngược đời v́ chiến tranh Đông Dương là chiến tranh thuộc địa; người Pháp trở lại Đông Dương bằng vũ lực để tái chiếm thuộc địa đă mất trong Thế Chiến Nh́. Trao trả chủ quyền cho Việt, Miên và Lào th́ chiến tranh không c̣n lư do ǵ để tiếp tục. Tuy nhiên, vào năm 1953, sau 8 năm dài lâm chiến, tự ư rút quân cũng không c̣n là một lựa chọn cho người Pháp. Do cái thế không thể lui của Pháp nên kế hoạch trái tai và ngược đời của ông vẫn được chính phủ Pháp chấp nhận như toa thuốc cuối cùng cho con bệnh Đông Dương đang hấp hối; kế hoạch được chính phủ Mỹ tài trợ, và được các sử gia sau nay mệnh danh là “Kế Hoạch Navarre. ï ” Đó là ngơ thoát chiến lược duy nhất của Pháp vào thời điểm 1953. Trong quyển hồi kư “Đông Dương Hấp Hối, ” ông kể lại là ngày ông đến Việt Nam, quân Pháp đang nằm trong thế bị động pḥng thủ trong lúc địch quân chủ động tấn công. Chúng tự ư chọn địa điểm giao tranh, chọn thời điểm giao tranh, và chọn cả tương quan lực lượng trong giao tranh để đánh chắc thắng. Chúng muốn đánh, quân Pháp không tránh được. Chúng muốn tránh, quân Pháp không đánh được. Chúng tấn công khi hội đủ điều kiện chắc thắng. Quân đồn trú của Pháp cấp trung đội? Chúng tấn công bằng cấp tiểu đoàn. Pháp dùng không quân yểm trợ đồn binh bị tấn công? Chúng đánh đêm để làm giảm hiệu lực của không quân. Navarre kể lại là công việc của ông, vị Tổng Tư Lệnh chiến trường Đông Dương, là mỗi sáng đọc những báo cáo tổn thất, thất thu những trận tấn công của Việt Cộng trong đêm gây ra. H́nh thức giao tranh này chỉ đưa đến t́nh trạng bại trận, từ từ nhưng chắc chắn. Ông đề nghị một thay đổi chiến lược. Kế hoạch của ông chủ trương việc trao trả chủ quyền cho các quốc gia Đông Dương hầu khuyến khích họ thành lập quân đội của từng nước với quân phí $400 triệu do Hoa Kỳ đài thọ để nhận trọng trách pḥng thủ diện địa từ tay quân Pháp. Việt Nam thành lập 54 tiểu đoàn, trấn đóng đồn bót, lănh trách nhiệm bảo vệ làng thôn, thành lập tiểu khu tại mỗi tỉnh, chi khu tại mỗi quận trong 3 Khu Chiến Thuật phân chia trên ranh giới sẵn có của 3 miền Bắc, Trung, và Nam Việt. Quân đội quốc gia Việt Nam thay chỗ cho 88 tiểu đoàn Pháp và Bắc Phi, giúp Navarre rút chận được ra khỏi thế sa lầy pḥng thủ. Ông sử dụng những tiểu đoàn này, được tăng cường thêm 20, 000 quân tươi mới từ Pháp qua, thành lập những lữ đoàn lưu động để chu động tấn công Việt Cộng, và gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề. Nh́n trên góc cạnh chiến tranh, việc trao quyền này là một nhu cầu chiến lược để có thêm 200, 000 quân có khả năng pḥng thủ diện địa. Pháp không có nhân lực để cung cấp số quân lớn lao này cho chiến trường v́ người dân Pháp khi đó chống đối chiến tranh Việt Nam cuộc chiến mà họ đă thấy rơ bản chất chiến tranh thuộc địa, và cũng thấy cái thế không thể thắng của Pháp. Hơn nữa, dù có quân tăng cường, Pháp cũng không đảm đương được việc pḥng thủ diện địa, một trọng trách mà chỉ có người địa phương, quân lực địa phương mới làm được, làm kiến hiệu hơn, mà cái giá chiến phí lại nhẹ hơn. Nửa thế kỷ sau (1953-2004) lịch sử tái diễn cảnh trao trả chủ quyền cũng do nhu cầu chiến lược, quân số, chiến phí, và t́nh h́nh chính trị tại “mẫu quốc” tạo ra. 30 THÁNG SÁU NĂM NAY, một tháng nữa, Iraq cũng sẽ được Toàn Quyền Mỹ L. Paul Bremer trao trả chu ûquyền , để rồi sẽ “độc lập, tự do, và dân chủ, ” diễn biến mà hai học giả của Viện Chiến Lược trường Cao Đẳng Quốc Pḥng gọi là “xây dựng quốc gia”. Người quan sát thời cuộc có thể ghi nhận hai điểm tương đồng giữa Pháp và Mỹ: (1) t́nh trạng đuối sức chính trị và quân sự của cả hai cường quốc xâm lược, và (2) nhu cầu dùng quân lực địa phương thay thế quân lực “mẫu quốc. ”Nếu sau ngày trao quyền 30/6, Mỹ vẫn không thật t́nh trao trả Iraq toàn bộ quyền lợi dầu hỏa, như Iraq đang đ̣i theo lời khuyến cáo của Đại Sứ Liên Hiệp Quốc bên cạnh chính phủ lâm thời Iraq , th́ tương đồng thứ ba sẽ là bản chất chiếm thuộc địa của cả hai cuộc chiến Việt Nam và Iraq ; 51 năm trước Pháp vẫn chủ trương tái chiếm thuộc địa; năm nay Mỹ không buông trả giếng dầu cho Iraq . Việc Iraq đ̣i chủ quyền về dầu hỏa đă tạo ra một phản ứng của chính quyền Mỹ: Toàn Quyền Bremer cho lính Mỹ cùng đi với cảnh sát Iraq (do Mỹ lập ra) nửa đêm đến lục xét, đập phá tư gia của lănh tụ đảng Hội Nghị Dân Tộc Iraq , ông Ahmed Chalabi . Họ dựng đầu ông dạy, liệng h́nh ông treo trên tường xuống đất, tịch thâu computers , giấy tờ, tài liệu, vũ khí, và tất cả những ǵ có thể được sử dụng như tang chứng “gián điệp” của Chalabi . Chalabi là một chính khách có thành tích chống Sađam Hussein và đă sống lưu vong từ nhiều năm nay tại Hoa Kỳ. Đảng Hội Nghị Dân Tộc Iraq của ông ta được bộ quốc pḥng Hoa Kỳ tài trợ mỗi tháng $340, 000; sự tài trợ này mới chấm dứt vào tuần lễ thứ 3 của tháng 5. Trọng tội của Chalabi là đă lên tiếng tố giác những nhũng lạm trong việc khai thác tài nguyên dầu hỏa, và đ̣i Hoa Kỳ trả nguồn lợi này lại cho Iraq . Sau cuộc bố ráp, Chalabi xuất hiện trước truyền thông, tay cầm bức chân dung của ông nội ông, khung và kiếng bị đập nát rồi tuyên bố “Tôi là người bạn tốt nhất của Hoa Kỳ đây” Ư ông muốn cho dư luận nh́n cung cách Bush đối xử với “người bạn tốt nhất của Hoa Kỳ”. Nếu thức thời hơn, ông phải biết là trước ông cũng có nhiều “người bạn tốt nhất của Hoa Kỳ” đă chịu chung với ông cách Hoa Kỳ đối xử với bạn tốt. Manuel Noriega Tổng Thống Panama , Ferdinand Marcos Tổng Thống Phi Luật Tân, và Ngô Đ́nh Diệm, Tổng Thống VNCH , chẳng hạn. Nếu biết được những tiền lệ này, Chalabi đă phải biết ơn chính quyền Bush , v́ ông là người được đối xử nhẹ tay nhất. Số phận “bạn tốt” của Chalabi và Ngô Đ́nh Diệm cũng là một tương đồng nữa giữa Việt Nam và Iraq mà hai học giả chiến lược Terrill và Record không nh́n thấy. Chắc họ cũng không thể nhận ra cung cách chánh quyền Hoa Kỳ đối xử với những lănh tụ quốc gia “đồng minh” tạo hậu quả vô cùng quan trọng và tai hại trên công cuộc “xây dựng quốc gia” mà Hoa Kỳ đang làm tại Iraq . Ngay Cả thành viên của Hội Đồng Nhiếp Chính sắp nhận “chủ quyền” từ tay người Mỹ cũng phải lên tiếng về thái độ của Mỹ đối với Chalabi . ĐẠI TƯỚNG JOHN ABIZAID , tư lệnh quân lực Mỹ tại Trung Đông, nh́n thấy những hậu quả sắp đến. Ông nói ông sẽ cần thêm quân v́ “t́nh h́nh có thể sẽ nặng nề hơn những ǵ hiện đang diễn ra hiện nay” Số quân Mỹ hiện diện tại Iraq là 135, 000, nhưng vẫn thiếu trong ước lượng của Abizaid , người đang đứng trên chiến địa Tổng Thống Bush cũng thực tế; sau cuộc họp với Thủ Tướng Ư Silvio Berlusconi , ông tuyên bố, “T́nh h́nh sẽ gay go hơn sau ngày trả chủ quyền v́ vẫn c̣n nhiều người muốn phá hoại cuộc bầu cử đầu năm tới. ” Bush thực tế trong nhận định về chiến trường, nhưng ông lại đánh lận khi giải thích nguyên nhân khiến t́nh h́nh trở thành gay go hơn sau ngày 30 tháng 6. Ông đánh lận khi ông nói là người Iraq chống phá bầu cử, chống phá nền tự do và dân chủ của quốc gia Iraq mà ông nhất định xây dựng . Điều đáng trách là Bush cứ làm, mặc dù ông biết việc “xây dựng quốc gia” Iraq là gian trá và không miễn phí; ông đă tiêu $88 tỉ vào việc xây dựng quốc gia mơ hồ đó, ngoài $66 tỉ chiến phí. Berlusconi nói ông và Bush thảo luận về nhu cầu tổ chức một buổi họp tại Nữu Ước để tân Tổng Thống Iraq được gặp những thành viên của Hội Đồng An Ninh Hoa Kỳ. ”Chúng tôi hoàn toàn đồng ư với nhau về chiến lược cần được thực hiện, ” Berlusconi nói. “Nếu chúng ta buông tay trước khi Iraq được dân chủ hóa, t́nh h́nh tại đây sẽ trở thành loạn. ”Tất cả những ǵ Berlusconi nói đều là hoa ḥe, hoa sói, trừ hai chữ “chiến lược, ” được dùng để chính danh gọi việc trả chủ quyền sắp được Hoa Kỳ thực hiện. Trao quyền chỉ là chiến lược, một mưu thuật để tiến hành chiến tranh, không hơn, không kém. Trao quyền không phải là xây dựng quốc gia. TRỞ LẠI VỚI tài liệu “IRAQ VÀ VIỆT NAM. NHỮNG KHÁC BIỆT, NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG, VÀ SUY LUẬN, ” để mổ xẻ góc nh́n Hoa Kỳ chủ quan, và tư thế không trực tiếp đứng trong cuộc của hai học giả Record và Terrill . Record đă phục vụ tại Việt Nam với vai tṛ phụ tá cố vấn tại một tỉnh miền Tây Nam Việt. Thời gian ông ở Việt Nam không đủ dài để những kinh nghiệm và hiểu biết của ông về cuộc chiến Việt Nam đủ sâu, đủ rộng để trở thành chính xác. Những điều ông nh́n thấy hàng ngày trong một năm ông sống tại Đồng Bằng Cửu Long c̣n có thể tạo cho ông nhiều ư tưởng sai lầm về cuộc chiến tranh mang tính chất chiến tranh toàn diện vô cùng phức tạp. Góc nh́n “tự cao Hoa Kỳ, ” và những va chạm rất giới hạn với thực tế chiến tranh của ông không giúp tác phẩm ông viết chung với Tiến Sĩ Terrill bớt đi hai tính lư thuyết và bất cập. Hai chữ "bất cập" dùng ở đây hàm ư hiểu không tới, nhưng không hề hàm ư trách cứ hay chê bai. Chiến tranh Việt Nam là một phức tạp đă được chứng minh là không bao nhiêu người, không phải là người Việt Nam, hiểu thấu đáo. Dưới đây là câu hai nhà chiến lược viết về việc “xây dựng quốc gia” mà bài báo này đang phân tách hai đặc tính dẫn chứng thiếu chính xác và suy diễn bất cập. ”Hoa Kỳ đang làm tại Iraq điều họ đă không làm được tại Việt Nam: dựng lên và yểm trợ một chính phủ bản xứ và một trật tự chính trị mà dân Iraq sẽ chấp nhận là chính đáng, và sẽ chiến đấu để bảo vệ. Chính phủ VNCH là sản phẩm của Hoa Kỳ trong chiến tranh lạnh, chỉ có thể đứng vững trên sức mạnh quân sự và những viện trợ kinh tế và kỹ thuật của Hoa Kỳ. Trong tư thế đó, chính phủ VNCH trở thành một mục tiêu chính trị ngon ăn cho cộng sản; chúng chỉ trích chính phủ này là không chính đáng. Rốt cuộc cũng không có bao nhiêu người Nam Việt sẵn sàng chiến đấu và sẵn sàng chết cho sự sống c̣n của chính thể không cộng sản như người Mỹ h́nh dung. "Lập luận này "Hoa Kỳ chủ quan" trên những điều ngó lơ về nguyên nhân bại trận của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ không bại trận v́ những yếu nhược chính trị của Nam Việt như hai học gia chiến lược gia Record và Terrill đổ thừa. Họ bại trận v́ thua sút chiến lược, không biết mục tiêu tấn công của Việt Cộng trong trận Mậu Thân, trận đánh đă bứng gốc quân Mỹ trên chiến trường Việt Nam. Việt Cộng tấn công Hoa Thịnh Đốn, tấn công Tổng Thống Lyndon B. Johnson đang yếu nhược trong thế “cua lột” năm bầu cử 1968, nhưng từ vị Tổng Thống Tổng Tư Lệnh quân đội xuống đến Đại Tướng William Westmoreland , tư lệnh quân sự tại Việt Nam, đều ngỡ là địch tấn công Khe Sanh. Sau Khe Sanh họ lại tin mục tiêu tấn công là Saigon . Đến lúc nhận ra là Bạch Cung nằm trong tầm súng cối của địch, Tổng Thống Johnson chỉ c̣n nước buông tay, không ứng cử nữa. MỘT KHÁC BIỆT giữa Việt Nam và Iraq là lần này, trái ngược với t́nh trạng mù tịt của các cấp lănh đạo chiến tranh năm 1968, nhiều người Mỹ không liên quan mật thiết đến việc điều hành chiến tranh Iraq tỏ ra hiểu biết rất rơ về cuộc chiến tranh này. Trong buổi điều trần trước Tiểu Ban Quân Sự Hạ Viện, dân biểu dân chủ Ike Skelton đă chất vấn Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trương Richard B. Meyers , “Có phải chúng ta đang trên đà thất trận không?” “Tôi không nghĩ vậy, ” Meyers trả lời. "T́nh h́nh có gay go hơn, nhưng chúng ta sẽ thắng. " Nữ dân biểu dân chủ Ellen Tauscher h3i ông liệu quân Mỹ có thể an toàn rút khỏi Iraq không, “nếu có lời yêu cầu chúng ta rút quân. ” “Chúng ta có quyền ở lại Iraq , theo tinh thần nghị quyết của Liên Hiệp Quốc, ” Meyers khẳng định . "Chúng ta sẽ không bị yêu cầu rút lui. "Tổng Thống Bush, trong bài diễn văn đọc vào dịp tốt nghiệp của sinh viên trường đại học Louisiana State nói, "Chúng ta đang có cơ may lịch sử để xây dựng một quốc gia Iraq thanh b́nh và dân chủ ngay giữa ḷng Trung Đông. Quốc gia Iraq này sẽ làm tan biến t́nh trạng hiểm nghèo của chúng ta, sẽ giúp tấn công quân khủng bố, và sẽ làm cho Hoa Kỳ và thế giới trở thành an toàn hơn. ”Một Iraq thanh b́nh và dân chu? Để Hoa Kỳ sử dụng như bàn đạp quân sự tấn công các “quốc gia khủng bố” tại Trung Đông c̣n thiếu may mắn chưa được Hoa Kỳ chiếu cố giúp đỡ để thanh b́nh hóa và dân chủ hóa? Đang đắm ch́m trong biển lửa, rừng bom, và đại bác, chừng nào Iraq thanh b́nh và dân chủ? Và liệu Iraq có ngày thanh b́nh được không khi Bush đă dự trù cho mảnh đất khốn khổ này vai tṛ “căn cứ xuất phát” của cuộc chiến tranh sắp tới, để chinh phạt các quốc gia khác? Tất cả những dấu hỏi đau thương này cộng thêm nghi vấn “liệu có nên vinh danh George W. Bush , người đang chinh phục toàn thể thế giới, như một Thành Cát Tư Hăn tân thời không; xét kỹ ông cũng không thua kém ǵ tay hiệp sĩ Mông Cổ ngày xưa ” Hai chiến lược gia Record và Terrill có thể dùng đề tài này viết thêm một sưu khảo chiến lược nữa. 
Nguyễn Đạt Thịnh
 

Xin vui ḷng liên lạc với  butvang@yahoo.com  về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương
Copyright © 2004 Anh Duong Online
Last modified: 08/10/06