| ||||||
|
dưới h́nh thức tài phán, hiến tính của các luật thường, để các luật này không làm biến chất được hiến pháp. Sự đóng góp độc đáo của Thomas Jefferson là sáng kiến t́m ra cách nâng quyền lập hiến lên thành một quyền riêng biệt tách nó ra khỏi sự thống thuộc quyền lập pháp. Muốn vậy, phải có những đại biểu lập hiến tức là những đai biểu khác với các dân biểu quốc hội. Loại đại biểu đặc cử này có những quyền đặc biệt sẽ họp thành những nghị hội với thẩm quyền quy định hệ thống chính quyền, nghĩa là soạn thảo hay tu chỉnh hiến pháp. Quyền lập hiến do đó không c̣n bị cơ quan lập pháp chi phối (6). Nó đă trở thành bộ phận khởi động bộ máy hiến trị ở Mỹ, không như ở Pháp.
Tại Pháp, quyền lập hiến đă xuất hiện cùng thời, cùng chiều hướng với quyền lập hiến ở Mỹ. Có nhiều người, trong đó có hầu tước La Fayette, dân biểu quư tộc của quốc hội lập hiến đầu tiên của Pháp, từng giữ một vai tṛ tích cực trong cả hai cuộc cách mạng Mỹ và Pháp, đă khẳng định rằng tư tưởng lập hiến của Pháp chịu ảnh hưởng của tư tưởng lập hiến Mỹ.
V́ nhiều lư do. Trước hết, trên b́nh diện từ ngữ, những người làm cuộc cách mạng 1789 của Pháp, cũng như những người làm cuộc cách mạng 1776 tại Mỹ, đều chủ trương phải phân biệt quyền lập hiến (quyền làm và sửa đổi hiến pháp) với quyền lập pháp (quyền làm luật). Nhưng trên thực tế, tại Pháp, hai quyền này không hề được phân biệt mà lẫn lộn ngay từ đầu. Quốc hội đầu tiên ở Pháp hành sử cả hai quyền. Sau khi nó tự giao cho ḿnh vai tṛ quốc hội lập hiến để soạn thảo và ban hành hiến pháp, nó tự động biến thành quốc hội lập pháp. Sự lẫn lộn này, nói chung, đă kéo dài suốt cả thời kỳ cách mạng cho đến tận ngày nay với một sửa đổi chi tiết là cả hai viện, Thượng và Hạ phải họp chung để sửa đổi hiến pháp (7). Mặt khác, sự lẫn lộn nói trên là hậu quả tự nhiên của lư thuyết chủ quyền quốc gia (théorie de la souveraineté nationale) của Pháp. Bản Tuyên Ngôn Quyền Con Người và Quyền Công Dân (TNQCNVQCD) năm 1789, nơi điều 3, định rằng chủ quyền thuộc về quốc gia (nation). Nhưng quốc gia ở đây không phải là thực thể nhân xă bằng xương bằng thịt, mà người ta thường gọi là dân tộc, nhân dân, hay dân chúng, quốc dân hay dân (peuple) (8). Quốc gia tại Pháp chỉ là một hư cấu (fiction) mà Emmanuel Sieyès đă đề xướng trong cuộc cách mạng 1789 để có một pháp nhân (personne morale) đứng ra nhận và hành sử tất cả quyền lực trong nước do vua phải trao trả v́ cách mạng đă đ̣i lại. Đă là hư cấu th́ không thể có ư chí riêng được, phải mượn ư chí của những nguời đại diện dân cử. Rốt cuộc ư chí quốc gia, như vậy, không thể là ǵ khác hơn ư chí của các dân biểu trong quốc hội. Chính v́ thế mà tư tưởng chủ quyền nhân dân (souveraineté populaire) của Jean Jacques Rousseau đă được đưa ra để đ̣i quyền cho thực thể nhân dân (9). Nhưng tư tưỏng chủ quyền quốc gia hư cấu tại Pháp trước sau vẫn được coi là chủ đạo cho đến sau cuộc đệ nhị thế chiến , năm 1946, chính giới Pháp mới t́m được một thỏa hiệp qua công thức “chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân” (la souveraineté nationale appartient au peuple) [xin xem thêm Article 3, Constitution de 1946, « La souveraineté nationale appartient au peuple français. Aucune section du peuple ni aucun individu ne peut s'en attribuer l'exercice. Le peuple l'exerce, en matière constitutionnelle, par le vote de ses représentants et par le référendum. En toutes autres matières, il l'exerce par ses députés à l'Assemblée nationale, élus au suffrage universel, égal, direct et secret »]. Đến thời đệ ngũ Cộng hoà, với Hiến pháp 1958, quyền lập hiến tại Pháp lại trở về t́nh trạng cũ, nằm dưới chủ quyền quốcgia-quốc dân này tức là thống thuộc quốc hội, tập thể là cơ quan nắm giữ chủ quyền « quốc gia-quốc dân »(tạm dịch câu tiếng Pháp trích dẫn ở trên). Đă vậy, ư thức hệ của cuộc cách mạng 1789 lại không phân biệt luật thường với luật có tính hiến pháp, coi cả hai đều là luật cả. Theo điều 6 của bản TNQCNVCD th́ “luật là sự biểu hiện của ư chí chung” [la loi est l’expression de la volonté générale, xin xem thêm Article VI - La loi est l'expression de la volonté générale, TNQCNVQCD 1789 và Article IV - La loi est l'expression libre et solennelle de la volonté générale, TNQCNVQCD 1793] tức là ư chí của tất cả những người dân biểu họp thành quốc hội, và quốc hội, bởi là đai diện tập thể của quốc gia, pháp nhân có chủ quyền cao nhất trong nước, nên quốc hội nắm tất cả mọi quyền mà pháp nhân này có, tất nhiên kể cả quyền lập hiến. Nói cách khác, nguồn gốc của quyền lập hiến ở Pháp là ở chủ quyền quốc gia mà đại diện là quốc hội và đa số công dân, nếu có trưng cầu dân ư. Tới đây, ta thấy rơ v́ sao quyền lập hiến ở Mỹ và ở Pháp, tuy cùng một nguồn góc về mặt nguyên tắc, nhưng lại thể hiện thành hai quyền khác nhau trên b́nh diện hành sử. Nước Mỹ với tinh thần thực dụng, coi quyền lập hiến là quyền của toàn thể dân chúng (bằng xương bằng thịt) nên đă bố trí để cho quyền này có một thủ tục hành sử riêng bảo đảm cho nó đích thục là quyền của dân chúng, không phải là quyền của quốc hội. Ngược lại nước Pháp, với tinh thần duy lư nhất tôn, thiên về trừu tượng, đă sáng chế ra hai hư cấu “nation” (quốc gia) và “loi, expression de la volonté générale” (luật, sự biểu hiện của ư chí chung) để điều lư quyền hành trong nước cho nên quyền lập hiến thống thuộc quốc hội. Nh́n dưới góc độ luật hiến pháp, nói một cách đại cương, quyền lập hiến ở Mỹ là một đặc quyền của dân chúng v́ Mỹ là một “Nhà nước hiến trị”, thượng tôn hiến pháp (État constitutionnel) (10), c̣n quyền lập hiến ở Pháp chỉ là một trong những quyền của quốc hội v́ nó là phó sản của hai hư cấu (xem trên) mà hệ quả là nó không thể không thống thuộc quốc hội trong một “Nhà nước pháp định” (État légal) coi “luật” là nhất tôn.
c. Nguồn gốc của quyền lập hiến ở Việt Nam. Đầu thế kỷ trước, vào những ngày chót của cuộc vận động giành độc lập cho Việt Nam ở hải ngoại, trong tư tưởng chính trị của cụ Phan Bội Châu, đă thấy manh nha chủ trương quân chủ lập hiến. Tại quốc nội, ở trong Nam cũng như ở ngoài Bắc, tư tưởng lập hiến đă xuất hiện và được phát biểu qua cá nhân hay phong trào. Năm 1925, diễn thuyết tại Hội Khuyến học Nam Kỳ, cụ Phan Chu Trinh có nêu lên ”cái chính thể quân dân cộng trị mà Tàu dịch là Quân Chủ Lập Hiến”. Nhiều tên tuổi đă được ghi chép như những người vận động cho phong trào lập hiến, đó là các ông Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Hữu Tiến, Dương Bá Trạc, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Khắc Hiếu, Đông Hồ, Thiếu Sơn, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Dương Văn Giáo, Ngô Tất Tố, Đào Trinh Nhất, Bùi Thế Mỹ, Nguyễn Văn Thinh, Nguyễn Phú Khai v.v... (11). Rất tiếc người viết bài này, trong hiện t́nh, không thu thập được đủ dữ liệu để t́m hiểu xem các nhân vật kể trên đă quan niệm như thế nào về quyền lập hiến khi họ hô hào chuyện lập hiến. Riêng ông Phạm Quỳnh có đề cập sơ lược đến quyền này, Theo Phạm tiên sinh, “tuy trên lư thuyết quyền lập hiến thuộc về vua [Phạm Quỳnh chủ trương đổi quân chủ chuyên chế ở Việt Nam thành quân chủ lập hiến] nhưng trên thực tế th́ quyền này do Bảo Hộ nắm. Vậy yêu cầu Bảo Hộ giúp quốc vương An Nam ban hành một bản Hiến Pháp” (12). Như thế có nghĩa là quyền lập hiến sẽ tùy thuộc vào hai nguồn quyền lực: Bảo Hộ và vua Bảo Đại. Nhưng có hai tiền lệ lịch sử có thể giúp cho ta thấy rơ được quyền lập hiến đă được hành sử như thế nào ở Việt Nam (ở đây chỉ bàn về mặt nguồn gốc). Tiền lệ thứ nhất là cách những người cộng sản Việt Nam hành sử quyền lập hiến, sau khi cướp được chính quyền năm 1945. Về điểm này, ta có thể tin vào lời nói của Trường Chinh: “Tháng Tám năm 1945 (...) dưới sự lănh đạo của Đảng cộng sản Đông-dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh cùng toàn thể nhân dân Việt-nam tổng khởi nghĩa (...), thiết lập chính quyền nhân dân trong toàn quốc. Ngày 2-9-1945, Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập (...) Nước Việt-nam dân chủ cộng ḥa ra đời.” (13). Ngày 20-9-1945, Chính phủ lâm thời [do cộng sản chỉ định] ra sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người, đứng đầu là Hồ Chí Minh. Gần 60 năm sau nh́n lại, người ta thấy rơ được là những người cộng sản Việt Nam đă sắp xếp để sang đoạt quyền lập hiến của toàn dân - sang đoạt là bước đầu đi tới bước sau là chiếm đoạt hẳn quyền ây - hầu có toàn quyền từng bước áp đặt độc tài toàn trị. Trong vụ cưỡng đoạt này, Hiến pháp chỉ là cái bung xung che đậy âm mưu thâm độc của cộng sản năm 1980, sau khi cưỡng chiếm được miền Nam, trở mặt thiết lập chuyên chính vô sản thay v́ dân chủ. Thật vậy, nếu không có quyền lập hiến th́ không thể thi hành được quỷ kế này. Khởi thủy, việc soạn thảo Hiến pháp là do Hồ Chí Minh đề xướng ngay trong phiên họp đầu tiên ngày 3-9-1945 của Chính phủ lâm thời, và hơn hai tuần lễ sau, ngày 20-9-1945, Hồ Chí Minh cho ra đời Ban dự thảo Hiến pháp. Cuộc Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 đă bầu ra một quốc hội lập pháp. Quốc hội này đă tự phong là quốc hội lập hiến. Chẳng ai biết Ban dự thảo Hiến pháp được bầu ngày 20-9 đă làm việc ra sao, chỉ biết măi hơn một năm sau, tháng 11-1946, nó mới hối hả đem bản dự thảo ra cho quốc hội lập pháp thảo luận chiếu lệ rồi bôi bác thông qua ngày 9-11-1946 (14). Tại sao lại có sự chậm trễ như vậy? Tại v́ thật ra những người cộng sản cầm quyền không muốn có một Hiến pháp dân chủ, nhưng lại không dám để lộ bản chất độc tài phản dân chủ. Cho nên họ đợi cho đến tháng 12, khi họ đă chuẩn bị xong việc phát động chiến tranh, họ mới công bố, trong không khí hỗn quân hỗn quan, một bản Hiến pháp bánh vẽ, ghi đủ thứ tự do nhưng chẳng bao giờ được thi hành. Chính v́ thế cho nên bản Hiến pháp 1946 đă không được ban hành và do đó, không có hiệu lực pháp lư. Chiến tranh, dưới danh nghĩa “Kháng Chiến” nổ ra, đă đ́nh hoăn vô hạn định để từ từ chôn vùi cái Hiến pháp ma này. Quốc hội được thu hẹp lại trong một Ban Thường vụ làm cây cảnh, hành pháp toàn quyền cai trị bằng sắc lệnh, trong suốt 13 năm trường. Năm 1959, vở tuồng dân chủ trá h́nh được tiếp diễn để bầu lại quốc hội và “sửa đổi Hiến pháp” (15). Chính vào dịp này những người cộng sản cầm quyền đă ra tay phù phép chiếm đoạt hẳn quyền lập hiến mà cho tới lúc đó họ chỉ mới sang đoạt. Năm 1946, thông qua quốc hội tiền chế 6-1-1946, họ đă hành sử quyền lập hiến để khai sinh ra Hiến pháp (hàng mă) 1946. Quyền lập hiến này, trong môn học Luật hiến pháp, được gọi là “quyền lập hiến nguyên thủy” (pouvoir constituant originaire) v́ nó trực tiếp làm ra hiến pháp. Quyền nguyên thủy làm hiến pháp sẽ đẻ ra “quyền lập hiến thừa mệnh” (pouvoir constituant dérivé) để sửa đổi hiến pháp trên cơ sở tinh thần của quyền nguyên thủy (xin xem thêm ở dưới, đoạn 2, liên quan tới Định nghĩa của quyền lập hiến). Người thợ cả có tay nghề của Đảng cộng sản là Hồ Chí Minh đă sử dụng quyền lập hiến nguyên thủy để làm ra bản Hiến pháp 1946, thành lập ở Việt Nam cái gọi là một nước dân chủ cộng ḥa, trong đó người dân có đủ mọi quyền tự do, như đă ghi nơi điều 1, “tất cả mọi quyền bính là của toàn thể nhân dân Việt-nam, không phân biệt ṇi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (16). Mọi sửa đổi Hiến pháp 1946 này, nếu có, như điều 70 đă định, phải hội đủ ba điều kiện, một là phải có hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu, hai là, nghị viện phải bầu ra một Ban dự thảo những điều thay đổi và ba là những điều thay đổi, khi đă được nghị viện ưng thuận, phải đưa ra toàn dân phúc quyết. Thợ cả Hồ Chí Minh vẫn giữ vai tṛ hàng đầu trong vụ năm 1959 sửa đổi Hiến pháp 1946, đă nêu lên trước quốc hội mới bầu rằng “ Dự thảo Hiến pháp sửa đổi ghi rơ những thắng lợi to lớn của nhân dân trong những năm qua và nêu rơ mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta trong giai đoạn mới”. Những mục tiêu đó đă được Đảng cộng sản tự quyền quyết định như đọc thấy nơi điều 9 của Hiến pháp 1959 như sau: ”Nước Việt-nam dân chủ cộng ḥa tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xă hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xă hội(...)” (17). Một sự thay đổi đảo lộn như vậy, cho dù có là một sáng kiến xuất chúng của Đảng cộng sản đi nữa, cũng vẫn phải đưa ra cho toàn dân phúc quyết (tức là trưng cầu dân ư), như Hiến pháp 1946 đă định, để xem dân có chịu tiến lên xă hội chủ nghĩa hay không. V́ đổi hướng như vậy là đi vào con đường giai cấp đấu tranh khốc liệt. Nhớ lại năm 1945, v́ ḷng dân, cũng như dư luận quốc tê đều không tán thành con đường khốc liệt này cho nên Đảng cộng sản đă phải tuyên bố tự giải tán, chấp nhận đoàn kết giai cấp để thực hiện dân chủ cộng ḥa. Nếu bản Hiến pháp 1959 được đưa ra hỏi ư kiến toàn dân như điều 70 của Hiến pháp 1946 đă định th́ chắc là nó đă bị bác bỏ. Biết rơ điều này nên Đảng cộng sản đă thi triển hai thủ pháp để qua mặt dân. Thứ nhất là nhập nhằng về mặt từ ngữ, đồng hoá “dân chủ cộng ḥa” với “dân chủ nhân dân”. Dân chủ cộng ḥa là dân chủ, c̣n dân chủ nhân dân là chuyên chính. Điều này chính Trường Chinh đă xác nhận khi ông viết rằng cách mạng ở Việt Nam (...) “thiết lập chuyên ch́nh dân chủ nhân dân dưới h́nh thức cộng ḥa dân chủ nhân dân (...)”(18) và Việt Nam là một nước dân chủ nhân dân “thực hiện chuyên chính dân chủ nhân dân như Trung Quốc” (19). Thứ hai là chiếm đoạt quyền lập hiến mà năm 1946 Đảng này đă sang đoạt. Với việc sửa lại Hiến pháp năm 1959 (20), không theo cách của Hiến pháp 1946 phải có trưng cầu dân ư, Hồ Chí Minh và các môn đệ đă biến quyền lập hiến thừa mệnh thành quyền lập hiến nguyên thủy để năm 1980 ngang nhiên thiết lập chuyên chính vô sản trên cả nước, không đếm xỉa ǵ tới nguyện vọng của dân. Khác hẳn với Hiến pháp 1946 mà điều 70 buộc phải có trưng cầu ư dân cả ba bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 đều bỏ hẳn nghĩa vụ này, và do đó, quyền lập hiến nguyên thủy từ 1959 trở đi cho tới bây giờ, hoàn toàn nằm trong tay những người cộng sản cầm quyền để họ, thông qua quốc hội công cụ, muốn làm bất cứ loại hiến pháp nào cũng được (21). Những sự kiện tiêu biểu trên đă cho thấy rằng quyền lập hiến ở Việt Nam, dưới quyền thống trị của cộng sản, bắt nguồn từ cái gọi là “Cách mạng” mà thực chất là tư tuởng Mác-Lênin, và quyền lập hiến chỉ là một công cụ áp đặt độc tài đảng trị, toàn trị, không phải để xây dựng dân chủ tự do, bảo vệ nhân quyền. C̣n đưới chế độ cộng ḥa bị chết yểu ở miền Nam, quyền lập hiến tuy có bị lạm dụng v́ một số lư do văn hóa, chính tri, nhưng trên đại thể, v́ bắt nguồn từ một ư chí dân chủ hoá đích thưc, nó đă được coi như một quyền tối cao và khác biệt với quyền lập pháp. Cả hai bản Hiến pháp của Đệ nhất Cộng Ḥa và Đệ nhị Cộng ḥa đều do quốc hội lập hiến soạn thảo. Trong việc sử dụng quyền lập hiến thừa mệnh để sửa đổi hiến pháp th́ sự khác biệt giữa hai quyền nguyên thủy và thừa mệnh đă được tôn trọng, dân chúng xa gần đă có vai tṛ nhất định trong việc soạn thảo và sửa đổi hiến pháp. Nhờ có sự tôn trọng này mà ở miền Nam đă đặt được những nền móng của một sinh hoạt dân chủ tự do, tuy chưa có được một nền dân chủ có mức độ phát triển cao. Nếu bào thai dân chủ này không bị độc tài toàn trị miền Bắc dùng bạo lực bóp chết từ trong trứng nước th́ chắc chắn nó đă được chào đời và lớn mạnh như ở Đại Hàn, Đài Loan v.v...
2. Định nghĩa của quyền lập hiến Sau khi đă quay về quá khứ t́m hiểu nguồn gốc của quyền lập hiến, ta hăy trở lại hiện tại và khảo sát biểu văn đương hành về quyền này để bổ túc cho phần nghiên cứu về nguồn gốc quyền lập hiến và trả lời câu hỏi Quyền lập hiến là ǵ? Nói chung có rất nhiều định nghĩa về quyền lập hiến, ở bài này người viết không làm công việc nghiên cứu chuyên đề về quyền này nên chỉ thâu tóm một vài định nghĩa được coi như đă phản ánh mẫu số chung giữa những quan điểm khác biệt nhau về quyền ấy.
a. Hiểu một cách nôm na thông thường th́ quyền lập hiến là quyền làm hiến pháp, như đă được ngụ ư trong từ hán việt “lập hiến”. Nhưng nội dung của thành ngữ làm hiến pháp bao gồm nhiều thành tố cần được lư giải th́ mới hiểu đuợc thế nào là làm hiến pháp. Về điểm này, ta phải gơ cửa môn học luật hiến pháp. Giáo sư Georges Vedel, trong giáo tŕnh về luật hiến pháp ông giảng dạy trong những năm 40 của thế kỷ trước đă nói rằng quyền lập hiến là một “thẩm quyền đặc biệt” (une compétence spéciale) để làm và sửa đổi hiến pháp. Khi nó được thi triển để làm hiến pháp, quyền này là một biểu hiện của chủ quyền quốc gia, cho nên nó là một quyền “nguyên thủy” (originaire). V́ là nguyên thủy nên về mặt pháp lư, nó không thể bị hạn chế trong hành động bởi bất cứ quyền nào khác. Tuy nhiên, không phải v́ thế mà những người lập hiến muốn làm ǵ th́ làm. V́ nước nào cũng có một vài nguyên tắc, hoặc có tính tục lệ hoặc là siêu-hiến-pháp (supra- constitutionnel) mà quyền lập hiến phải tôn trọng. Nhưng ràng buộc này không có tính quy phạm pháp lư, mà là truyền thống văn hóa thuộc di sản tinh thần của một tập thể. Hiện tượng nói trên cho thấy rằng quyền lập hiến c̣n là môt quyền chính trị nữa. Cho nên luật hiến pháp của những năm 2000 không c̣n coi quyền lập hiến là một thẩm quyền như nửa thế kỷ trước đây, mà là một “quyền lực” hay “quyền uy” (une autorité). Thuật ngữ luật học tiếng Việt, khi dich chữ “autorité” như vậy, khó phát hiện đủ sự khác biệt giữa chữ này với chữ “compétence” (thẩm quyền). Phải quy chiếu vào hai chữ la tinh auctoritas và potestas , mới rơ được những nghĩa riêng của mỗi chữ. Thẩm quyền (compétence) là tất cả những quyền và nghĩa vụ được giao phó và bắt buộc phải tuân theo - trong khuôn khổ một chức vụ - cho một cá nhân hay cơ quan, để làm một hay nhỉều công việc nhất định. Thẩm quyền như vậy là một chức quyền (potestas) nghĩa là một quyền v́ chức vụ mà có. C̣n autorité (auctoritas), dịch một cách mơ hồ là quyền lực, quyền uy, th́ cao và rộng hơn compétence (thẩm quyền) v́ ngoài thành tố “chức vụ” nó c̣n có thêm những thành tố “tín nhiệm, kính phục” nữa. Gọi quyền lập hiến là một quyền lực, quyền uy hàm ư nhấn mạnh trên mặt chính trị của nó v́ làm hiến pháp là ǵ nếu không phải là xây dựng một hệ thống chính trị và thiết lập một chính quyền để cai trị? Nói cách khác, biểu văn mới của luật hiến pháp đă bổ sung cho biểu văn cũ để định nghĩa quyền lập hiến là một quyền có bản chất vừa pháp lư vừa chính trị. Do đó, nó đích thực là một quyền nguyên thủy.
b. Nếu thực sự là nguyên thủy th́ quyền lập hiến phải là một quyền cao nhất để làm hiến pháp. Tuy nhiên, trong thực tế, hiến pháp không thể là một bản văn không thay đổi trong ḍng thời gian. V́ thế, nhu cầu sửa đổi hiến pháp đă được đặt ra và quyền lập hiến đă phải đẻ ra một phó sản là quyền lập hiến thừa mệnh (pouvoir constituant dérivé) tức là quyền được sửa đổi hiến pháp theo mệnh lệnh của quyền nguyên thủy. Sửa đổi trong phạm vi đă được ấn định trước, từ h́nh thức đến nội dung. Muốn sửa đổi hiến pháp, phải theo thủ tục nhất định và nhất là không thể sửa đổi những điều đă cấm sửa đổi v.v...(22). Sự phân chia như trên là sự phân biệt trên b́nh diện quyền hạn (faculté). Trên b́nh diện này th́ quyền lập hiến thừa mệnh được coi như một tư cách pháp lư để hành động. Nhưng chữ “pouvoir” cũng c̣n có nghĩa như một cơ quan, cho nên lại có thêm một sự phân biệt khác nữa là “quyền lập hiến nhậm mệnh”(pouvoir constituant institué). Sau khi đă làm xong hiến pháp, những người hành sử quyền lập hiến nguyên thủy rút lui khỏi sân khấu chinh trị để nhường chỗ cho những người đă nhậm mệnh nguyên thủy thi hành, hay nếu cần, sửa đổi hiến pháp. Nói cách khác, ở đây quyền lập hiến nguyên thủy đẻ ra quyền lập hiến nhậm mệnh (pouvoir constituant institué), không hiểu theo nghĩa một quyền hạn (faculté) mà hiểu theo nghĩa một cơ quan (organe) tức là một chính quyền. Trong thực tế, chính quyền này thường dần dần sử sự như là những người có quyền lập hiến nguyên thủy, thí dụ như ở Pháp, ở Việt Nam [chỉ kể hai trường hợp tiêu biểu], trái ngược với ở Mỹ, sự biến chất này đă được ngăn ngừa v́ Mỹ đi theo con đường hiến trị tích cực. Ở Pháp, nhờ có hai hư cấu “Nation” (quốc gia, hiểu theo nghĩa của Cách mạng 1789) và “loi, expression de la volonté générale” (luật, biểu hiện của ư chí chung, hiểu theo nghĩa của bản TNQCNQCD) nên tính dân chủ của hiến pháp không bị tiêu vong. Hơn nữa kể từ 1971, nước Pháp đă chuyển hướng đi vào con đường hiến trị tích cực như Mỹ. Ở Việt Nam, không có bất cứ một sức cản nào nên quyền lập hiến nguyên thủy đă bị quyền lập hiến nhậm mệnh sang đoạt rồi cưỡng đoạt, để thiết lập và duy tŕ không thời hạn chuyên chính. Hai sự so sánh kể trên có mục đích định nghĩa quyền lập hiến căn cứ vào đặc tính của nó.
c. Sau cùng, dụng đích của quyền lập hiến ai cũng biết là làm hiến pháp. Tuy nhiên không phải bất cứ loại hiến pháp nào. Đă đành không phải loại “hiến pháp-hiến chương” thời quân chủ thởi xưa. Nhưng cũng không thể là loại hiến pháp thuần túy miêu tả (constitution descriptive) của phe xă hội chủ nghĩa trước đây và, hiện tại, của mấy nước tàn dư c̣n sót lại của phe này, như đă đọc thấy trong Lời nói đầu Hiến pháp 1980 của nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam như sau: “Là luật cơ bản của Nhà nước, Hiến pháp này quy định chế độ kinh tế, văn hóa và xă hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Nó thể hiện mối quan hệ giữa Đảng lănh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà nước quản lư trong xă hội Việt Nam”. Loại hiến pháp miêu tả này là để công bố cương lĩnh riêng của một Đảng nắm độc quyền cai trị, và nhân danh dân chúng để áp đặt trên dân chúng một nền chuyên chính giả hiệu dân chủ.Việt Nam đă bị cai trị hàng trên nửa thế kỷ bằng loại hiến pháp này mà sự sụp đổ của phe xă hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô cũ đă chứng minh tính cách phản động không chối căi được của nó. Chính v́ vậy mà đă phải có Đổi Mới ở Việt Nam. Nhưng gần 20 năm qua, loại hiến pháp phản động này vẫn c̣n được những người cầm quyền cộng sản lạm dụng quyền lập hiến để duy tŕ dưới hết biến dạng này đến biến dạng khác. Cho nên đất nước cứ phải lặn ngụp măi trong t́nh trạng bị áp bức, nghèo túng và tụt hậu không thể biện minh được dù dưới bất kỳ lư do ǵ. Bởi vậy, đă đến lúc phải đặt đúng vấn đề quyền lập hiến để bắt đầu từ chỗ bắt đầu. Quyền lập hiến phải định nghĩa dựa trên tiêu chuẩn cứu cánh của hiến pháp. Quyền lập hiến nào, Hiến pháp nấy. Loại hiến pháp người viết bài này chọn làm tiêu chuẩn, đồng thời cũng là loại Hiến pháp phổ biến của thời đại, là loại hiến pháp quy chuẩn (constitution normative) để thành lập một Nhà nước hiến trị, một đạo luật cơ bản của những người bị trị để chống lại sự đàn áp của những người cai trị, một văn bản thiết lập một trật tự chính trị-pháp lư dân chủ, đa nguyên trong đó nhân quyền được tôn trọng và bảo đảm, pháp luật phù hợp với hiến pháp, giá trị nhất tôn trong xă hội, không phải là công cụ cai trị công khai hay trá h́nh của bất cứ một cá nhân, tôn giáo, đảng hay tập đoàn cai trị nào. Trả lời được câu hỏi “Quyền lập hiến là ǵ? “rồi, c̣n phải giải đáp hai câu hỏi nữa là “Ai được quyền sử dụng quyền lập hiến?” và “Sử dụng để làm ǵ?”. Đó sẽ là nội dung của phần thứ hai dưới đây.
II. Quyền lập hiến, khởi điểm của một Hiến pháp tương lai cho Việt Nam
Nước Pháp có tiếng là một nước “tiêu thụ” rất nhiều hiến pháp. Từ khi có cuộc cách mạng 1789 đến nay, Pháp đả xài tới 16 bản hiến pháp, tính trung b́nh trên 13 năm một bản. Ít ai để ư rằng Việt Nam c̣n tiêu thụ hiến pháp mạnh hơn nước Pháp. Trong ṿng 60 năm, kể từ tháng Tám 1945 Đảng cộng sản nổi lên cướp chính quyền, băi bỏ quân chủ, Việt Nam (cả hai miền Nam, Bắc) đă ngốn hết 6 bản, đúng ra là 7, nếu kể cả lần đại tu cuối cùng năm 2001 Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam tập tễnh đi vào “dân chủ”. Tức là tốc độ trung b́nh tiêu thụ hiến pháp của Việt Nam chưa đến 10 năm một bản. Vậy mà mức độ nhân quyền, dân quyền ở Việt Nam vẫn không khác ǵ mức độ vào những năm đầu của cuộc cách mạng 1789 đă xảy ra ở Pháp cách đây hơn 200 năm. Nguyên nhân xa của t́nh trạng lạc hậu này là Đảng cộng sản Việt Nam đă và vẫn c̣n “theo chủ nghĩa Mác-Lê-nin”, như nó ghi rơ nơi điều 4 của Hiến pháp 1992. Và nguyên nhân trực tiếp là đảng này đă ngang nhiên cướp đoạt quyền lập hiến của dân chúng để áp đặt và kéo dài chuyên chính dưới nhiều h́nh thức. Sự thật này, tất nhiên là Đảng cộng sản cố t́nh che dấu, nhưng dân chúng cũng chẳng biết rơ để t́m cách cho đúng đ̣i lại quyền của ḿnh. Người ở trong bộ máy ḱm kẹp, khủng bố của chế độ, để phản kháng sự đàn áp, không có cách nào khác hơn là viện dẫn cái Hiến pháp bánh vẽ, b́nh phong - nhưng bắt buộc phải tôn lên làm đạo luật cơ bản và cao nhất của cả nước. Kẻ ở ngoài ṿng kiềm tỏa th́ đ̣i hoặc xoá bỏ một vài điều hoặc là vứt cả bản Hiến pháp đó vào thùng rác của lịch sử. Ai cũng chỉ nói tới Hiến pháp, trong khi thật ra phải đặt vấn đề ở nơi khâu quyền lập hiến. Nói Hiến pháp ở Việt Nam lúc này là nói quyền lập hiến sẽ do ai hành sử và hành sử để làm gi?
1. Ai có quyền hành sử quyền lập hiến ở Việt Nam? Quyền lập hiến quan trọng như thế nào, phần đầu của bài viết này đă đưa ra một số nhận định. Để ngắn gọn nhắc lại th́ có thể nói quyền lập hiến như người dẫn tàu đưa tàu vào hải cảng, người hoa tiêu lái máy bay đáp xuống phi cảng. Nói theo ngôn ngữ Hà Sĩ Phu, nó là “bảng chỉ đường”. Năm 1945, với tay bánh của người dẫn tàu Hố Chí Minh, con tàu Việt Nam đă đứng đợi 35 năm để ghé cảng chuyên chính toàn tri. Ở miền Nam, hai đồng hoa tiêu Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu đă cho chiếc phi cơ Cộng ḥa hạ cánh xuống phi trường dân chủ “tạm đ́nh hoăn và hạn chế” (điều 98, Hiến pháp VNCH 1956) và tiếp theo sau, cặp hoa tiêu Thiệu Kỳ lại cho chiếc phi cơ này bay lượn tŕnh diễn, dưới quyền đạo diễn của người Mỹ, theo kịch bản Hiến pháp dằng co 1967, khi không chẳng giống ai trao quyền cho ông Dương Văn Minh, người buông màn kết thúc vở bi hài kịch chuyển giao quyền hành cho miền Bắc, mà nhân dân miền Nam, quân đội miền Nam đă giá rất cao để coi. Giả thử ngay từ đầu, năm 1945 khi vua Bảo Đại tự ư thoái vị, dân chúng được hành sử quyền lập hiến th́ chắc chắn lịch sử Việt Nam đă đổi khác. Cho nên câu hỏi Ai có quyền hành sử quyền lập hiến ở Việt Nam đă được trả lời từ lâu rồi. Đó là dân Việt Nam. Chữ “dân” này không có hào quang của chữ “nhân dân”(23), nhưng từ khi bị những người cộng sản đổi « dân » thành « nhân dân » với một nội dung tuỳ tiện thu hẹp, Việt Nam đă phải mang họa suốt hơn nửa thế kỷ. Song không phải chỉ cần nay đem đổi trở lại “nhân dân” thành “dân” là xong mọi chuyện. Muốn viết những trang sử dân chủ thực sự, phải làm ngay công việc - cho đến nay ngựi ta chưa làm hoặc đă làm nhưng làm sai – th́ không thể không định rơ lại “dân” là những ai và phải làm sao để cho “dân” đích thực được hành sử quyền lập hiến. Chữ dân tuy có gốc Hán nhưng nó đă được việt hóa từ lâu nên không c̣n mang nguyên nghĩa Hán nữa. Từ thời xưa, nó đă là tiếng dùng để chỉ tất cả những người trong một nước, một toàn bộ nhân xă rất cụ thể, không phải là một khái niệm trừu tượng về nhân xă. Đúng ra, dân thường được hiểu chỉ là những người không phải vua hay quan, mà thuật ngữ luật học, chính trị học ngày nay gọi là những người bị trị. Khi có giao lưu văn hóa với phương Tây dưới thời Pháp thuộc, ngôn ngữ bác học ưa dùng chữ “nhân dân”, thay vào chữ dân (24). Đồng thời chữ dân tộc, tuy xuất hiện để dịch những tiếng Pháp nation, peuple, cũng có những hàm nghĩa như dân, như nhân dân, nói tóm lại, mấy chữ này đều là đồng nghĩa của nhau, xưa nay vốn như vậy. Những người cộng sản Việt Nam, đầu thế kỷ trước, bị choáng ngộp trước sử quan đầy giai cấp tính của Mác, tôn sùng lư thuyết đảng trị của Lê-nin, trong cơn say mê quyền lực, đă cấp khích tiến hành kịch liệt đấu tranh giai cấp, nhào nặn ra một hư cấu « nhân dân », bề ngoài cụ thể nhưng nội dung rất trừu tượng, như hư cấu « nation » của cuộc cách mạng Pháp 1789. Thế là chữ « dân » bị truất phế, với tất cả những hậu quả bi thảm của cơn ác mộng mồ hôi, xương máu của dân đổi lấy thành công cho Đảng. Những người cộng sản này, sau trên nửa thế kỷ hành sử quyền đảng trị, năm 2001, đă chịu chính thức nêu lên chủ trương dân chủ hoá, nhưng xem ra, vẫn chưa muốn ĺa bỏ hư cấu « nhân dân » để trả lại cho « dân » quyền đích thực làm chủ đất nước. Nếu Đảng không chịu trả th́ « dân » sẽ phải đ̣i lại, bài học thời sự c̣n nóng hổi - và cũng là bài học của thời đại - đă minh chứng điều này. Vấn đề Hiến pháp đă và đang được đặt ra, nay cần đặt đúng, trên cơ sở « dân » - chứ không phải « nhân dân », nghĩa là Đảng - là chủ thể hành sử chủ quyền quốc gia. Như vậy, « dân » sẽ là « quốc dân » bằng xương bằng thịt, tức là toàn bộ nhân xă, không bị phân chia thành giai cấp để có phân biệt đối xử v́ giai cấp, bao gồm đủ tất cả những con người cụ thể - từng cá nhân, với đủ các nhân quyền cơ bản - không phải là con người tập thể hư cấu, chỉ « làm chủ tập thể » một cách hư cấu. Dĩ nhiên, trong một nước có trên 80 triệu dân th́ không thể tính chuyện dân chủ trực tiếp được. Nhưng kỹ thuật quản trị xă hội đầu thiên niên kỷ thứ ba này đă đủ tối tân để hoàn mỹ cơ chế đại nghị bảo đảm cho từng cá nhân có thể để mỗi người đều có thể tham dự việc quản trị đất nước một cách đáng kể tuy gián tiếp nhưng chủ động làm chủ đất nước tức khắc, ở đây và bây giờ - hic et nunc - không cần phải nhờ Đảng lănh thầu kiểu dân chủ xă hội chủ nghĩa đảng trị, toàn trị lê-nin-nít. Vậy, nếu thử một lần, muốn cho nước Việt Nam có được một Hiến pháp đích thực dân chủ, th́ trước hết và trên hết, những người cộng sản hiện đang cầm quyền phải chấp nhận nguyên tắc trả lại quyền lập hiến cho « dân » nghĩa là cho « quốc dân ». Trả như thế nào, theo tiến tŕnh nào, đó là chuyện có thể bàn luận, nhưng phải một cách nghiêm chỉnh và công khai, trong sáng, không « đi đêm » với ẩn ư mánh mung tư túi.
2. Hành sử quyền lập hiến để làm gi ? Câu hỏi này có thể có hai câu trả lời, một đơn giản và một phức tạp. Đơn giản tại v́ quyền lập hiến là một quyền để hoàn tất một công việc nhất định : làm hiến pháp (cũng có thể hiếu là sửa đổi hiến pháp). Nhưng hiến pháp là một vấn đề không đơn giản, do đó câu trả lời không thể không phức tạp.
a. Làm hiến pháp. Người ta tự hỏi, nếu quyền lập hiến là quyền của toàn dân - quốc dân - th́ làm thế nào để cho tất cả mọi người dân - Việt Nam hiện nay có trên 80 triệu dân - có thể trực tiếp cùng hành sử quyền ấy ? Tất nhiên là không có cách nào toàn hảo cả. Nhưng đâu có thể v́ dân chủ trực tiếp không có điều kiện khả thi mà không trao quyền lập hiến cho dân được ? Phải t́m cách này hay cách khác để ngày càng đưa thêm quyền cho dân. Trong phạm vi làm hiến pháp, người ta đă sáng chế ra nhiều công thức để toàn dân từ tối thiểu đến tối đa, hành sử quyền lập hiến. Sau đây là ba trong số những công thức ấy. Tối thiểu là dân không trực tiếp hay gián tiếp soạn thảo hiến pháp nhưng bản dự thảo hiến pháp được đưa ra trưng cầu dân ư. Nếu đa số tán thành th́ ban hành, nếu bị bác bỏ th́ soạn thảo lại. Lên cao một mức nữa về mặt dân quyền, dân bầu ra một quốc hội lập hiến để soạn thảo hiến pháp. Bản dự thảo được quốc hội này thông qua sẽ trở thành Hiến pháp (trường hợp hai bản Hiến pháp 1956 và 1967 của miền Nam Việt Nam). Nhưng cũng c̣n thêm một cách nữa là bản dự thảo Hiến pháp tuy đă được quốc hội lập hiến thông qua rồi nhưng vẫn phải đưa ra trưng cầu dân ư. Nếu dân bác bỏ th́ bầu lại một quốc hội lập hiến khác để làm lại và lại cho dân phúc quyết (trường hợp Hiến pháp 1946 của nước Pháp). Dành cho dân quyền quyết định tối hậu về Hiến pháp là giải quyết tốt mặt chính trị của quyền lập hiến, tránh được tệ nạn chủ quyền quốc gia bị một cá nhân hay một đảng dùng Hiến pháp mà sang đoạt. Người dân dĩ nhiên không đủ kiến thức chuyên môn làm hiến pháp nhưng rất sáng suốt trong nguyện vọng dân chủ, muốn thoát khỏi cái cảnh thường xuyên bị áp bức, đă có tự ngàn xưa - thiên cao hoàng đế viễn ( trời th́ cao, vua th́ xa)- đến nay vẫn c̣n tiếp diễn dưới những chế độ được coi là dân chủ giả hiệu. Nguyện vọng dân chủ này, những nhà chính trị chuyên nghiệp phải tôn trọng và lấy làm cơ sở mà thể hiện thành một bản Hiến pháp đáp ứng được nguyện vọng chính đáng ấy. b. Chung quyết dự thảo Hiến pháp Từ sau cuộc đệ nhị thế chiến cho tới những năm đầu của thế kỷ 21, nhân loại đă chứng kiến sự ra đời của một một loạt hiến pháp loại mới được khai sinh để làm nền tảng cho một trật tự chinh trị-pháp lư mới, thực hiện dân chủ, tự do đích thực, tôn trọng và bảo vệ nhân quyền. Nhưng trong khoảng thời gian này, Việt Nam đă chỉ làm vật thí nghiệm cho một loại Hiến pháp làm công cụ đàn áp cho bạo quyền, dẫm đạp lên pháp luật, chà đạp lên nhân quyền. Một luật gia « cung văn » (nghĩa bóng của chế độ đă đem hết nghề ngón để nguỵ biện một cách trắng trợn qua một định nghĩa « bài ba lá » cho thứ Hiến pháp này như sau : « Là luật cơ bản của Nhà nước, Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá và xă hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Nó thể hiện mối quan hệ giữa Đảng lănh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà nước quản lư trong xă hội Việt Nam » (25). Sự thực trong cơ thể xă hội Việt Nam, loại Hiến pháp này đă hết sinh khí từ lâu nhưng vẫn được duy tŕ bằng gian dối và khủng bố, những thao tác hô hấp nhân tạo. Trước t́nh h́nh mới, đặt vấn đề Hiến pháp không phải là để thêm một lần nữa lừa bịp dân chúng, huyễn hoặc dư luận quốc tế, tô vẽ, sơn phết lại cho loại Hiến pháp lạc hậu, phản động này, mà phải bắt kịp đà tiến hoá của nhân loại văn minh, sáng chế ra loại Hiến pháp mới hầu thiết lập được một trật tự hiến trị (ordre constitutionnel) mới, xứng đáng với hai chữ Đổi Mới. Có như vậy th́ mới đem lại được cho việc hành sử quyền lập hiến ư nghĩa nó cần có v́ đáng có. Xin tạm nêu lên hai điểm dưới đây để làm trục suy nghĩ về một hiến pháp tương lai cho Việt Nam. Thứ nhất, Hiến pháp này phải thoả măn đ̣i hỏi của tiến bộ nghĩa là phải thanh toán mau lẹ và không đắt giá những trở ngại trên con đường diễn tiến của lịch sử Việt Nam. Không ai có thể biện minh được cho sự kiện một bản Hiến pháp thể chế hoá một chế độ độc tài toàn trị vẫn tồn tại, thậm chí lại c̣n được tôn sùng như một đạo luật cơ bản cho cả nước và bắt trên 80 triệu dân phải ngu dốt mà cúi đầu tuân thủ. Ở Việt Nam, nói chuyện dân chủ hoá không thể không đặt vấn đề băi bỏ độc tài đảng trị. Dân chủ ở đó, trước hết và trên hết là thanh toán, bằng cách này hay cách khác, nạn độc tài đảng trị này. Vậy một trong những nhiệm vụ của quyền lập hiến sẽ phải là tuyên bố vô hiệu hóa Hiến pháp độc tài đảng trị đương hành. Thứ hai, tuy không nên đi quá xa tới mức can thiệp vào việc soạn thảo Hiến pháp nhưng quyền lập hiến phải xác định rơ nguyên tắc tiên quyết là dự thảo Hiến pháp sẽ phải đưa ra trưng cầu ư kiến toàn dân, nghĩa là quốc dân. Về điểm này, tưởng phải nêu lên một sự kiện mới của lịch sử Việt Nam, đó là sự h́nh thành của cộng đồng người Việt trên 3 triệu người ở hải ngoại. Cộng đồng này, đă đóng góp công sức, xương máu cho việc chống độc tài đảng trị để xây dựng dân chủ, phải có một chỗ đứng xứng đáng trong một nước Việt Nam mới, sẽ ra đời bằng một bản Hiến pháp mới. Nó không là một đoàn người vô tổ quốc, lại càng không thể là những kiều dân của Tổ quốc xă hội chủ nghĩa. Nó hội đủ các diều kiện văn hoá, chính trị, kinh tế để sử sự như một bộ phận tiền phong của dân tộc Việt Nam, nhất là thế giới đang nh́n nhận nó như một sắc tộc thiểu số có lịch sử, có văn hoá, có biểu tượng, bản sắc, đă và đang đóng góp với nhân loại một sự nghiệp tranh đấu cho dân chủ. Nó không ngừng đ̣i hỏi có tiếng nói trong việc hành sử quyền lập hiến ở Việt Nam. Mọi âm mưu của những người cầm quyền cộng sản hiện nay ḥng chia rẽ, hủ hoá, đánh chiếm cộng đồng này, bằng nghị quyết 36, sẽ không thể ngăn chặn được cuộc vận động liên tục từ giữa thế kỷ trước đến nay trong ư chí không dời đổi dân chủ hoá Việt Nam bằng mọi giá. Tưởng cũng nên cảnh báo những người có trách nhiệm cầm quyền ở Hà Nội rằng nều tham vọng độc chiếm quyền hành ở nơi họ vẫn c̣n được ấp ủ, chính sách đàn áp nhân quyền, dân quyền không được ngưng ngay tức khắc không điều kiện, nếu độc tài đảng trị trong cuồng vọng toàn trị không được từ bỏ th́ dân tộc vẫn là một nhưng chế độ chính trị không thể là một. Chính nghĩa, sức mạnh của cuộc vận động dân chủ cho Việt Nam không ngừng sáng tỏ và gia tăng kể từ khi độc tài dảng trị, toàn trị tự lột mặt nạ. Ánh sáng buổi rạng đông dân chủ ở Việt Nam đă chiếu rọi. Ngày mai dân chủ của Việt Nam sẽ bắt đầu với quyền lập hiến./.
(Trích trong Tập san Viễn Tượng Việt Nam, số 4, sẽ phát hành vào đầu tháng 5-2005) ________ Ghi chú [1] Tại hải ngoại, vấn đề làm Hiến pháp cho một nước Việt Nam dân chủ đă được thảo luận từ hai thập niên qua. Tạm ghi lại một số công tŕnh nghiên cứu tiêu biểu. Một mặt là những tài liệu có tầm tổng quát như Hiến Chương 2000 , tác phẩm của một số luật gia, nhân sĩ chính trị, văn hoá thuộc nhiều xu hướng, ở ba châu Úc, Mỹ, Âu, tập hợp chung quanh hai cựu Khoa trưởng Trường Đại học Luật khoa Sài g̣n là Giáo sư Vũ Quốc Thúc và giáo sư Nguyễn Cao Hách : Dự thảo Hiến pháp Việt Nam. Trên quan điểm Hiến định, pháp trị và đa nguyên, do Luật sư Đào Tăng Dực ở Cabramatta, NSW Úc châu soạn, Tổ chức Phục Hưng Việt Nam ở Pasadena, Hoa Kỳ xuất bản ; Nguyễn Văn Huy, Bỏ điều 4 Hiến pháp ?, Thông Luận số 142, tháng 11-2000; Tiến sĩ Nguyễn Học Tập, giáo sư chính trị học ở Ư đă viết một loạt bài về Hiến pháp, lư thuyết và thực hành, của nhiều nước trong đó có Liên Bang Đức. Loạt bài này đă đăng trên mạng Internet. Giáo sư Lê Mộng Nguyên, nguyên giáo sư luật khoa Đai học Paris VIII cũng đào sâu vấn đề Hiến pháp nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Sau hết, không thể bỏ sót Luật sư Nguyễn Hữu Thống mà các bài viết, tác phẩm đă ấn hành về nhân quyền trên b́nh diện quốc tế cũng như ở Việt Nam, đă cung cấp không ít dữ liệu cho một Hiến pháp dân chủ ở Việt Nam trong tương lai. Mặt khác, c̣n có những nghiên cứu sâu một điểm như Tổ chức Phục Hưng Việt Nam đă phổ biến, dưới nhiều h́nh thức truyền thông, yêu sách đ̣i nhà cầm quyền Hà Nội bỏ điều 4 của Hiến pháp 1992 đương hành.
[2] Xem thêm Trần Thanh Hiệp, Hiến tri: chặng đường bắt buộc phải qua để dân chủ hoá Việt Nam, tr. 48, Cơ sở xuất bản Đông Á, Vancouver, 2002, Canada
[3] Từ tiếng Việt dịch chữ Charte của Pháp. Xem Hiến chương (Charte) 4-6-1814 của vua Louis XVIII, Hiến chương (Charte) 14-8-1830 của vua Louis Philippe.
[4] Sđd, xem ghi chú [2]
[5] Đại Hiến chương, Great Charter, Magna Carta 15-6-1215, Thỉnh nguyện thư quyền lợi, Petition of Rights 1628, Luật Bảo thân Habeas Corpus Act 1679, Tuyên ngôn nhân quyền, Bill of Rights 1689 v.v…
[6] Xem điều V, Hiến pháp Liên bang Mỹ 1787 Article VThe Congress, whenever two thirds of both houses shall deem it necessary, shall propose amendments to this Constitution, or, on the application of the legislatures of two thirds of the several states, shall call a convention for proposing amendments, which, in either case, shall be valid to all intents and purposes, as part of this Constitution, when ratified by the legislatures of three fourths of the several states, or by conventions in three fourths thereof, as the one or the other mode of ratification may be proposed by the Congress; provided that no amendment which may be made prior to the year one thousand eight hundred and eight shall in any manner affect the first and fourth clauses in the ninth section of the first article; and that no state, without its consent, shall be deprived of its equal suffrage in the Senate. Article VLe Congrès, quand les deux tiers des deux Chambres l'estimeront nécessaire, proposera des amendements à la présente Constitution ou, sur la demande des législatures des deux tiers des États, convoquera une convention pour en proposer ; dans l'un et l'autre cas, ces amendements seront valides à tous égards comme faisant partie intégrante de la présente Constitution, lorsqu'ils auront été ratifiés par les législatures des trois quarts des États, ou par des conventions dans les trois quarts d'entre eux, selon que l'un ou l'autre mode de ratification aura été proposé par le Congrès, sous réserve que nul amendement qui serait adopté avant l'année mil huit cent huit ne puisse en aucune façon affecter la première et la quatrième clause de la neuvième section de l'article premier, et qu'aucun État ne soit, sans son consentement, privé de l'égalité de suffrage au Sénat.
[7] Nhân các dịp phê chuẩn Hiệp ước Maastricht hay rút ngắn nhiệm kỳ của Tổng thống từ 7 năm xuống 5 năm, những cuộc khoáng đại lưỡng viện qui tụ các dân biểu và thượng nghị sĩ của Pháp đă được triệu tập tại Versailles để sửa đổi Hiến pháp. Tuy vậy, dù sao cũng vẫn là Lập pháp hành sử quyền lập hiến thừa mệnh để sửa đổi Hiến pháp.
[8] Những chữ État, Nation, Peuple, State, Nation, People, Quốc gia, Nhà nước, Dân tộc, Nhân dân v.v.. thường hay được dùng như có nghĩa tương đương Nhưng thật ra không hẳn giống nhau, dù không phải là hoàn toàn khác biệt. Thí dụ như chữ Nation của Pháp, người Việt từ thế kỷ trước đă dịch là dân tộc, gần đây có người đổi lại và dich là quốc gia. Nhưng Nation của Pháp không phải là quốc gia theo như người Pháp hiểu cũng không phải là dân tộc giống như ở Việt Nam v́ nation là một hư cấu do cuộc cách mạng 1789 sáng chế ra c̣n dân tộc ở Việt Nam th́ là một nhân xă có thật, đă trải qua một quá tŕnh sống chung hàng mấy ngàn năm. V́ vậy, mỗi khi dùng những chữ này, phải tuỳ văn cảnh mà t́m nghĩa chính xác.
[9] Hiến pháp 1793 của Pháp đă thay chủ quyền quốc gia (souveraineté nationale) bằng chủ quyền nhân dân (souveraineté du peuple) De la souveraineté du peuple.
Article 7.
Article 8.
Article 9.
Article 10. …………..
Article 23.
Article 25.
[10] Nhà nước hiến trị (État constitutionnel là Nhà nước trong đó mọi sinh hoạt chính trị phải nằm trong khuôn khổ của Hiến pháp, khác với Nhà nước pháp định (État légal) là Nhà nước coi Luật là cao nhất v́ Luật là sự biểu hiện của ư chí chung. Như ở Pháp, cho đến năm 1971 mới chính thức có kiểm sát hiến tính. Ngày nay, Pháp đă bước vào con đường hiến trị. Người ta có thể nêu lên câu hỏi Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) vừa có Hiến pháp là luật cơ bản lại chủ trương “pháp quyền”, nghĩa là coi Luật là cao nhất, vậy nó là Nhà nước hiến trị hay là Nhà nước pháp định. Câu trả lời đúng đắn, nghiêm chỉnh sẽ không thể khác hơn là CHXHCNVN không hiến trị mà cũng không pháp định, nó chỉ là Nhà nước độc tài đảng trị. V́ Hiến pháp cũng như Luật của CHXHCNVN chỉ là công cụ của Đảng cộng sản, thực thể nắm tất cả mọi quyền lực và đứng trên cả Hiến pháp lẫn Luật. Các danh xưng “hiến trị” và “pháp định” không thể áp dụng vào trường hợp có hai hệ thống chính quyền, thật ở trong bóng tối giật dây giả ở mặt ngoài, như ở Việt Nam hiện nay. Đảng cộng sản vừa là Đảng lănh đạo về đường lối đồng thời cũng là đảng trực tiếp cầm quyên. Nhưng đặc biệt là nó lại không chịu trách nhiệm chính trị cũng như pháp lư trước nhân dân về những hoạt động của nó. [11] Nguyễn Hữu Thống, Tưởng niệm Phạm Quỳnh. Tư tưởng chính trị và sách lược vận động, xem Giải oan lập một đàn tràng, tr.100, Cơ sở xuất bản Tâm Nguyện, 2001, Silver Spring, USA [12] Xem thêm Trần Thanh Hiệp, T́m hiểu tư tưởng chính trị của Phạm Quỳnh qua thông điệp Nam Phong, xem Giải oan lập một đàn tràng, sđd, tr.51 [13] Trường Chinh, Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Tập I, tr.61, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1976 [14] Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng ḥa, Hiến pháp nước cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam (B́nh luận) (tập Ì), tr.393, Nhà xuất bảnKhoa Họxc Xă Hội, Hà Nội 1985. (15] Nguyễn ngọc Minh, Một bước phát triển mới của luật hiến pháp và khoa học pháp lư Việt Nam, sđd, tr. 344 [16] Hiến pháp năm 1946, điều thứ 1, sđd, tr.397 [17] Trường Chinh, sđd nơi ghi chú [13], tr.84 [18] Trường Chinh, sđd, tr.84 [19] Trường Chinh, sđd, tr.34
[20] Điều 70 của bản Hiến pháp 1946 định rằng :”Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây: (…) c) Những điều thay đổi khi đă được Nghị viện ưng thuận th́ phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Nhưng Hiến pháp 1946 sửa đổi thành Hiến pháp 1959 đă không được đưa ra cho toàn dân phúc quyết
[21] Điều 112 của Hiến pháp 1959, điều 147 của Hiến pháp 1980 và điều cũng 147 của Hiến pháp 1992, được sửa đổi và bổ sung năm 2001 đều có một nội dung như nhau:”Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”, sđd nơi ghi chú [14], tr.427, 462 và Hiến pháp nước Cộng hoà xă hội chủ nghĩa năm 1992, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr.79
[22] Thí dụ Hiến pháp Việt Nam Cộng Hoà năm 1956 cấm tuyệt đối không được sửa đổi các điều 1, 2, 3, 4 và 89. Các Hiến pháp năm 1958 của Đệ ngũ Cộng hoà Pháp, năm 1949 của Cộng hoà Liên bang Đức v.v…đều có những điều khoản cấm có giới hạn việc sửa đổi Hiến pháp
[23] Ở Việt Nam, cách mạng vô sản năm 1945 mang danh xưng “cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”, các Hiến pháp cộng sản đều đầy rẫy chữ “nhân dân”, đặc biệt điều 3 của Hiến pháp năm 1980 đă ghi rằng “Ở nước Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam, người chủ tập thể là nhân dân lao động (…)”, điều 2 của Hiến pháp năm 1992 c̣n đề cao nhân dân hơn nữa khi định rằng “Nhà nước Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xă hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, v́ nhân dân”.
[24] Tự Điển Việt Nam do Hội Khai Trí Tiến Đức ở Hà Nội soạn thảo và xuất bản năm 1931 định nghĩa nhân dân như sau: “nói chung về người dân: Có đất-cát, có nhân-dân mới thành nước”
[25] Nguyễn Ngọc Minh, sđd nơi ghi chú [15], tr.345.
|
|
Xin vui ḷng liên lạc với butvang@yahoo.com về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương Copyright © 2004 Anh Duong Online Last modified: 08/10/06 |