ĐT. 714-541-9859, 714-423-0577                      THONG THIEN HOC

Google

Trang Chính

English

Việt Nam


Hoa Kỳ

Sinh Hoạt Cộng Đồng


Thế Giới
Diễn Đàn

Văn Học

B́nh Luận

Kinh Tế
Câu Chuyện ThờiSự

Chuyện Lạ 4Phương

Khoa Học

Sức Khỏe

Ẩm Thực

Nhân Vật

Người / Ngợm

Vui Cười


Biếm Thi

Linh Tinh

Rao Vặt

Nhạc Hoàng Vân

VNCH Foundation

Ca Dao Việt Nam

Thơ Hà Huyền Chi

Hà Phương Hoài

Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

OVERSEAS
FREE VIETNAMESE
COMMUNITIES

RADIO
SAIGON-HOUSTON

Những anh hùng bị lăng quên

 

30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu một thảm cảnh của dân tộc Việt Nam, ngày mà cán binh cộng sản xâm chiếm nước Việt Nam Cộng Hoà thân yêu của chúng ta. Chúng đă áp đặt lên dân tộc Việt một thể chế ngoại lai, man di mọi rợ : vô gia đ́nh, vô tôn giáo, vô tổ quốc.

 

Sở dĩ CS xâm lăng VNCH một cách mau chóng là nhờ :

 

-         Sự hỗ trợ tối đa của các quan thầy Nga Tầu và chư hầu, trên mọi phương diện : súng đạn, cố vấn, ngoại giao, t́nh báo, truyền thông, nhân lực, tiền bạc, v.v.

 

-         Hoa Kỳ đă quyết định hy sinh tính mạng của hàng chục triệu dân Việt Nam trong chiến lược toàn cầu hoá của họ. Do đó đă áp dụng chính sách không viện trợ đạn dược, không cho quân đội Hoa Kỳ tham chiến từ những năm 1970, mà chỉ đóng vai tṛ cố vấn, nguỵ tạo t́nh báo sai lạc v.v. để quân lực VNCH không c̣n điều kiện  chiến đấu.

 

-         Một trong các nhân vật c̣n mang nặng ảnh hưởng thời Pháp thuộc đă được chức tổng thống vào những ngày giờ chót, nhưng v́ những lư do khó hiểu nên đă tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, dâng đất nước VNCH cho cộng sản. Cũng chính v́ lời tuyên bố này khiến quân lực VNCH bị bó tay, và giờ đây hậu quả là người Việt tại hải ngoại đă mất đi tính cách pháp lư trong công cuộc đấu tranh chính trị quốc tế. Có người cho rằng nhờ lệnh buông súng đầu hàng của nhân vật này mà tránh được cuộc tắm máu. Nhưng cho dù quân dân miền Nam lúc bấy giờ đă tôn trọng kỷ luật ngưng chiến, mà sau đó vẫn bị cộng sản tàn sát. Biết bao Quân Cán Chính VNCH đă bỏ thây trong các trại Tập Trung Cải Tạo, các vùng Kinh Tế Mới, cũng như hàng trăm ngàn dân Việt Nam vô tội, vẫn phải chạy trốn nạn cộng sản và đă bỏ thây dưới ḷng biển Đông. Vậy cái lệnh đầu hàng đó, có thật sự tránh được cuộc trả thù đẫm máu và nước mắt của quân dân miền Nam hay không ?

 

Nấm mồ vĩ đại của người dân vô tội Việt Nam tại ḷng biển Đông, cho đến nay, không ai biết được con số chính xác những nạn nhân của cộng sản. Ông Vaudour Faguet, một kư giả Pháp đă phải thốt lên :

 

Thế kỷ hai mươi đă từng phát hiện nhiều h́nh thức tàn sát đàn áp tập thể. Có thể chúng ta đang ở bước đầu của một chu kỳ tội ác lâu dài và tính cách tàn sát được xem như « riêng rẽ » v́ nó khác hẳn với tất cả những thảm họa đă xăy ra. Những hồ sơ khủng khiếp trước đây trở thành cũ rích. Sự điên loạn chém giết của thời đại chúng ta vừa phát minh một kỹ thuật giết người mới mà những thủ đoạn chính trị gian hùng không có giới hạn.  Đây là một sự tàn sát không bằng cớ. Đây là một cuộc diệt chủng không đổ máu và cũng không có hành hạ thể xác v́ :

1.      Ghe thuyền ch́m đắm không nhân chứng, không phóng sự, không có ǵ chính xác.

2.      Vùng tàn sát không để lại bằng chứng « khảo cổ » : không ḷ thiêu, không kẻm gai, không nhà tù, không nghĩa địa, không tháp canh…. Không có ǵ cả.

3.      Không có và cũng không bao giờ có « kế tóan » số người chết.  Địa điểm vượt biên bị dấu kín. Bao nhiêu ghe tàu ch́m đắm, không ai biết. Các thủ phạm đă tính toán kỹ lưỡng : không hồ sơ sổ sách, không trước tịch, không số quân, không bằng cớ pháp lư…. Buộc tội tố cáo họ chỉ là điều tưởng tượng.

4.      Đó là một cuộc tàn sát dứt điểm không phim ảnh, không tường thuật, không chuyện kể.

 

Tội ác của cộng sản, thật không một bút nào, không một h́nh ảnh nào có thể kể xiết được. Khi thế giới đưa ra bản thống kê, chứng minh các quan thầy của bọn họ đă tàn sát hơn 100 triêu sinh linh ; con số gần 10 triệu người chết dưới tay cộng sản Việt Nam, đối với họ th́ có là bao !!! (Ngày 2-2-1950, Quốc Hội Pháp phê chuẩn toàn bộ Hiệp Định Elysée ; chiếu theo công pháp quốc tế, Việt Nam được hoàn toàn độc lập. Đảng CS đă phủ nhận nền độc lập này, v́ Hiệp Định Elysée không cho họ độc quyền lănh đạo quốc gia. Và họ đă tiếp tục dùng bạo lực gây chiến tranh, với sự yểm trợ của Quốc Tế CS, để cướp chính quyền tại Miền Bắc năm 1954, và cướp chính quyền tại Miền Nam năm 1975) .

 

Đất nước lâm nguy, thất phu hữu trách. Sau tháng tư đen năm 1975, các Quân Cán Chính VNCH đă bị hành hạ tra tấn, và bị tàn sát trong các trại tù trá h́nh mang mỹ danh « cải tạo ». Nhiều anh hùng Việt Nam (dân và quân) đă gia nhập các tổ chức đấu tranh vũ trang : Mặt Trận Dân Tộc Phục Quốc, Mặt Trận Dân Tộc Tự Quyết, Mặt trận Liên Tôn, Liên Bang Đông Dương, Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc, Dân Quân Phục Quốc, Đảng Rồng Đen, Thanh Long v.v. để trực diện đấu tranh chống cộng sản. Những tổ chức này v́ thiếu những điều kiện tối thiểu như : vũ trang, tiền bạc, hậu cần, tổ chức v.v. nên đă bị việt cộng truy kích và tàn sát. Những người c̣n sống sót nếu không bị xử bắn th́ cũng bị hành hạ một cách tàn nhẫn trong các nhà tù của cộng sản. Những anh hùng này đă hy sinh trong bóng tối, trong bức màn sắt dầy đặc của cộng sản.

 

Tháng 3 năm 1993, ư thức được t́nh trạng càng ngày càng đen tối của dân tộc dưới sự đô hộ của cộng sản. Một số anh em chúng tôi đă quyết định về nước đấu tranh trực diện với CS bằng vơ khí Nhân Quyền. Nhưng việc không thành, chúng tôi bị cộng quân bắt giữ. Tôi bị tuyên án 20 năm tù với tội danh : « âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân », sau đó bị đưa đến trại kỷ luật của miền nam A20, có tên là thung lũng tử thần, gần Tuy Hoà. Nơi đây, chúng tôi đă rất xúc động gặp được các chiến sĩ  không tên đó. Có những anh đă bị tù từ năm 1975, vẫn hiên ngang tiếp tục tranh đấu ngay trong ḷng địch : làm thơ, viết những tài liệu chống chính sách và tư tưởng cộng sản, họ bị chồng án. Có những anh bị tra tấn đánh đập trở thành mất trí điên khùng, nhưng vẫn phải ở tù. Có những anh bị tàn tật vĩnh viễn v́ công an CS cắt đứt gân chân trong khi tra tấn, lấy cung v..v.. Các anh đa số là  « mồ côi », v́ không c̣n gia đ́nh tiếp tế cơm gạo, phải sống theo tiêu chuẩn của trại tù là mỗi ngày hai chén cơm với nước muối. Các anh phải hái những lá cây hoặc hoa để ăn cho bớt sót ruột và không bị bệnh thủng. Những ai đă từng sống trong nhà tù cộng sản như chúng tôi, mới biết được sự tàn ác tận cùng của con người ; báo chí tây phương luôn nhấn mạnh về cái ác của Đức Quốc Xă, khi tàn sát dân Ba Lan, Do Thái, trong các ḷ thiêu. Nhưng thà chết ngay không c̣n biết đến sự đau đớn khổ nhục có lẽ tốt hơn, v́ trước sau ǵ cũng phải chết. C̣n cộng sản, họ không muốn giết ngay, họ chiêm ngưỡng và kéo dài sự sống của con người trong đau khổ. Họ liên tục tra tấn con người dựa trên lo âu, sợ sệt, cô đơn, đói khát, điên loạn… Nhưng dù trong hoàn cảnh đói khổ cùng cực của điạ ngục trần gian, các anh vẫn chịu đựng, không một lời than, không một giọt nước mắt. Trước mặt kẻ thù, các anh vẫn ngửng đầu hiên ngang, không khép nép, không sợ sệt.

 

Ngày 28 tháng 10 năm 1994, phái đoàn Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc đến quan sát nhà tù A20, Bộ Nội Vụ CS đă ra chỉ thị cho trại, đưa các tù chính trị đi dấu trong rừng, cho tù h́nh sự giả tù chính trị để gặp phái đoàn. Khi biết được sự kiện này, toàn thể tù nhân chính trị rất bất măn và quyết định không đi lao động. Cuộc nổi dậy và tuyệt thực kéo dài đến ngày thứ tư th́ bộ nội vụ cho công an đến đàn áp. Rất nhiều anh đă bị nhốt, bị đánh đập và bị kiên giam, cùm xiềng cả tay lẫn chân. Một tuần sau,  bộ nội vụ giải chúng tôi ra trại Đầm Đùn, c̣n gọi là trai Lư Bá Sơ hay trại giam số 5, cách Thanh Hoá khoảng 30 cây số. Đây là trại kỷ luật của miền Bắc, rất nổi tiếng với bài thơ « ông lái đ̣ » v́ ai đă tới đây chỉ có chết, chứ không có cơ hội trở về !!! Khoảng ba tháng sau, các tù nhân chính trị khác từ trại A20, cũng được chuyển đến trại này.

 

Nhờ sự can thiệp của gia đ́nh, các bạn Pháp, Cộng Đồng người Việt hải ngoại và chính quyền Pháp. Trung tuần tháng Ba năm 1998, bộ nội vụ CS chuyển tôi đến trại giam Nam Hà, gần xă « Ba Sao » quận Phủ Lư, thuộc Hà Nam Ninh cách Hà Nội khoảng 50 cây số. Tôi bị biệt giam và cách ly ở đây trong thời gian trên 6 tháng. Ngày 1 tháng 9 năm 1998, tôi được trả tự do, cùng  với thầy Tuệ Sĩ và cha Hiếu (ḍng Đồng Công). Chính quyền Pháp đến đón tôi tại trại giam Nam Hà và đưa ngay ra phi trường Nội Bài để về Pháp. Ông cố vấn số một của Đại Sứ Pháp, cho tôi biết là cùng ngày có 7 người mang quốc tịch Trung Hoa và Úc (án h́nh sự : gián điệp và buôn lậu) cũng được thả, và chính phủ của họ phải chi cho nhà  cầm quyền XHCNVN 250.000 Mỹ kim cho mỗi người. Tôi có hỏi về trường hợp của tôi, th́ ông ta chỉ cười và không trả lời. Chuyện này đối với tôi, không lấy ǵ làm ngạc nhiên ; v́ trong suốt thời gian bị tù đầy, hàng năm các trại « cải tạo » tổ chức giảm án trong dịp 02/09, với tiêu chuẩn là gia đ́nh của họ phải đút lót tiền bạc cho các quan của « Toà Án Nhân Dân » và các ông « giám thị trại giam ». Tôi mường tượng đến cảnh bọn cướp bắt cóc con tin để đ̣i tiền chuộc !!!

 

Về đến Paris, tôi đă liên tục xin gặp các giới chức Pháp, cũng như các tổ chức nhân đạo : Amnesty International, Human Right Watch, v.v. để tŕnh bầy hoàn cảnh của các anh c̣n bị giam cùm trong các nhà tù cộng sản, sống trong những điều kiện thiếu dinh dưỡng, bệnh tật, không có thuốc men … Tôi xin họ can thiệp để cộng sản thả các anh ra. Nhưng câu trả lời của họ làm tôi bàng hoàng và xửng sốt : «  chúng tôi sẽ không can thiệp và yểm trợ cho các tù nhân chính trị khi đă đấu tranh bằng vũ trang, chúng tôi chỉ can thiệp cho các tù nhân lương tâm hoặc các nhân vật tiêu biểu đấu tranh cho Nhân Quyền ». Nhưng phũ phàng thay, họ lại can thiệp cho các thành phần phản tỉnh, đă từng là những đảng viên cộng sản, bàn tay họ đă đẫm máu của nhân dân Việt ; họ là những tên sát nhân (gián tiếp hoặc trực tiếp), là tội đồ của dân tộc. Sở dĩ sự kiện này xẩy ra là do một số hội đoàn, tổ chức chính trị của người Việt hải ngoại, v́ lư do thủ đoạn chính trị, thổi phồng lên, nên bọn này được thế giới biết tới, yểm trợ, can thiệp và coi những tên sát nhân này như những người hùng của thời cuộc !!! Ghê tởm thay.

 

Những người tù chính trị không phải là bồi bút, nên không viết ra được những ḍng chữ mỹ miều ru ngủ đồng bào, và các anh không biết lường gạt nói dối, không biết lẻo mép để viết lên những cái không bao giờ có. V́ vậy ngoài đời, không ai biết đến các anh. Không ai lo cho t́nh trạng sức khoẻ của các anh, ngày càng suy nhược và cực kỳ nguy hiểm.

 

Đến ngày Quốc Hận, 30 năm qua rồi, quê hương vẫn c̣n chịu bao cảnh đau buồn ! Ḷng tôi thấy xốn xang ! Biết bao nhiêu kỷ niệm buồn vui, chia sẻ cùng các anh trong trại Tập Trung Cải tạo, từ từ hiện ra trong kư ức. Giờ đây, tôi đă được đoàn tụ cùng gia đ́nh. C̣n các anh, số phận vẫn trớ trêu, vẫn chịu bao cay đắng ngọt bùi, chỉ v́ đă mang nợ với núi sông. Có ai biết đến sự hy sinh của các anh đâu ? Có ai biết đến những nỗi đau và sự mất mát của các anh đâu ? Các anh mới chính là những anh hùng không tên tuổi, và các anh cũng là những anh hùng bị lăng quên. Các anh đích thực là những sĩ phu của Việt Nam, là các con yêu của Tổ Quốc.

 

Sau ngày Quốc Hận 1975, các anh đă quyết không vượt biên đi t́m Tự Do nơi xứ người. Từ giă gia đ́nh, theo tiếng gọi của non sông, cầm súng đuổi giặc cộng sản, thề hy sinh xương máu cho tổ quốc. Các anh đă nằm xuống ; hay c̣n sống nhưng không bằng một con thú, trong các nhà tù cộng sản ; hoặc đă măn án trở về quê, không có tiền bạc, không c̣n gia đ́nh, không có quyền đi làm việc và bị theo dơi ngày đêm bởi bọn chó săn cộng sản.

 

Dù trong bất cứ trường hợp nào, cuộc sống của các anh đă quá nhiều đau thương. Các anh đang nghĩ ǵ, các anh đang mơ những ǵ ? Nhưng tôi biết chắc một điều, v́ tôi đă được vinh dự sống chung với các anh trong khoảng thời gian gần 6 năm trong nhà tù cộng sản. Các anh không bao giờ màng đến danh lợi, bạc tiền. Các anh chỉ mong có một ngày, dân tộc Việt nh́n thấy ánh sáng của Tự Do, có cơm ăn áo mặc, không c̣n là nô lệ của bè lũ cộng sản nữa.

 

Paris, một ngày thật buồn

Phạm Anh Dũng

Cựu tù nhân chính trị CS (Từ 05/03/93  tới  01/09/98)

 

 

 

DANH SÁCH CÁC TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ C̉N BỊ GIAM GIỮ TẠI TRẠI NAM HÀ

 

Danh sách được thực hiện ngày 28 tháng 4 năm 2005.

 

Những tù nhân chính trị này đă bị cộng sản cô lập, đối xử tàn nhẫn và bị các tổ chức Nhân Quyền thế giới và cộng đồng người Việt đấu tranh hải ngoại không đoái hoài tới.

 

 

 Tên

Tuổi

     Án phạt

Bị tù từ năm

       Thành phần xă hội

 1

Bùi Thúc Nhu

 57

Chung thân

    1985

VNQDD

 2

Đào Bá Kế

 52

Chung thân

    1990

Việt kiều tỵ nạn Thái Lan

 3

DINH Van Be

 45

    20 năm

    1987

Nông dân

 4

DOAN Van Nay

 57

Chung thân

    1986

Cư sĩ Cao-Đài

 5

LE Quy Hoa

 48

    20 năm

    1982

Vơ sư

 6

LE Thien Quang

 57

    12 năm

    1993

Cựu sĩ quan QL/VNCH

 7

LE Van Hieu

 64

    20 năm

    1985

Tu Sĩ Công Giáo

 8

LE Van Son

 74

Chung thân

    1985

Cư Sĩ Ḥa-Hảo

 9

NGUYEN Van Huy

 41

 

    1990

Việt kiều tỵ nạn Thái Lan

10

NGUYEN Van Ki

 41

 

    1990

Việt kiều tỵ nạn Thái Lan

11

PHAN Van Ban

 

 67

Chung thân

2 lần bị tù CS

1975 – 1983

    1985

Cựu sĩ quan QL/VNCH

12

PHAN Van My

 41

 

    1990

Việt kiều tỵ nạn Thái Lan

13

SUNAYMAL

 47

    20 năm

    1982

Nông dân

14

TAI SAnh

 42

 

    1990

Việt kiều tỵ nạn Thái Lan

15

TRAN Van Luong

 65

Chung thân

    1985

Dân Biểu VNCH

16

TRAN Van Nhi

 67

Chung thân

    1980

Cư Sĩ Phật Giáo

17

TRAN Van Suong

 

 65

Chung thân

2 lần bị tù CS

1975 – 1982

    1985

Cựu sĩ quan QL/VNCH,

Việt kiều tỵ nạn Thái Lan

18

VU Dinh Thuy

 

 57

Chung thân

2 lần bị tù CS

1975 – 1978

    1979

Cựu sĩ quan QL/VNCH,

 

 =============================

 

 

Xin vui ḷng liên lạc với  butvang@yahoo.com  về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương
Copyright © 2004 Anh Duong Online
Last modified: 08/10/06