Một Khía
Cạnh Mới Về Nhân Quyền Ở Việt Nam
A New Perspective On Human Rights in Vietnam
Cho đến ngày nay, nhân quyền được hiểu một cách rộng răi là quyền của con
người được sống trên hành tinh nầy. Đó là những quyền tự do căn bản đă được
hầu hết các quốc gia trên thế giới chấp thuận và đồng ư cũng như đă chọn
ngày 10/12 làm Ngày Quốc tế Nhân quyền.
Đối với Việt Nam, trong hơn 100 Luật và Nghị định thư về nhân quyền, Việt
Nam chỉ phê chuẩn thành luật một vài luật như luật về kỳ thị phụ nữ
(17/2/1982), về quyền lao động của trẻ vị thành niện (19/12/2000). Một số
quyền chỉ được Việt Nam thừa nhận (assession) như Quyền Quốc tế Công nhận
(convenant) về Dân sự và Chính trị ngày 24/9/1982, và một số quyền linh tinh
khác. Tuyệt đại đa số những quyền căn bản áp dụng thực sự cho người dân sống
trong một quốc gia không được Việt Nam thừa nhận cũng như kư kết hay phê
chuẩn thành luật. Đó là những luật lệ về quyền sống của con người, về tự do
căn bản, về quyền lập hội, nghị định thư về pḥng ngừa tra tấn trong việc xử
phạt v.v... Do đó, Việt Nam vẫn c̣n nhiều thiếu sót trong việc bảo đăm một
đời sống “công b́nh” và “công chính” cho người dân.
Hiện tại, người dân Việt không được hưởng những quyền hạn như mọi người dân
của các quốc gia trên thế giới được hưởng theo quy định của LHQ. Ngay những
điều kiện để được sống “tử tế” của người “văn minh” mà LHQ không đề cập đến
v́ đă được xem là những điều kiện căn bản đương nhiên phải có, th́ người dân
Việt vẫn chưa có, và ngày càng xa tầm tay.
Đó là những quyền mà người dân cần phải đ̣i hỏi, cần thúc hối, v́ nó là sinh
tử cho cuộc sống hằng ngày và cho tương lai. Có như vậy mới đặt giới lănh
đạo VN trong thế bị động, không thể chấp vá măi một ổn định giả tạo, một
phồn vinh bề ngoài, mà hệ quả là môi trường cạn kiệt.
Đó là những điều thật sự căn bản điển h́nh được liệt kê sau đây:
1- Quyền được cung cấp nguồn nước sạch trong sinh hoạt;
2- Quyền được thở không khí trong lành;
3- Quyền được ăn uống hợp vệ sinh và thực phẩm được kiểm soát để tránh nhiễm
độc;
4- Quyền được giáo dục và chỉ dẫn về khai thác nông nghiệp, xử dụng hóa chất
và phân bón.
Tuy những quyền hạn vừa kể trên không được ghi trong bảng Tuyên ngôn Quốc tế
nhân quyền nhưng đây là một thực tế mà người Việt Nam đang cần phải tranh
đấu để có được. Sở dĩ các quyền trên được nêu ra nơi đây v́ sau 30 năm điều
hành và quản lư toàn cơi Đất Nước để mong vực dậy nền kinh tế kiệt quệ, Việt
Nam, qua các chính sách, kế hoạch đă thực hiện, đang làm cho Đất và Nước
đứng trước nguy cơ tài nguyên cạn kiệt và môi trường xuống cấp tệ hại.
Và nguyên nhân v́ sao người dân Việt cần phải có những quyền kể trên được
đan cử ra đây:
1- Ảnh hưởng môi trường qua việc phá rừng
Trước chiến tranh thứ hai, diện tích rừng nguyên sinh của Việt Nam là 19
triệu mẫu chiếm 58% diện tích cả nước. Cho đến năm 1943 rừng chỉ c̣n lại
14,1 triệu mẫu (43%); và đến năm 1990 t́nh trạng càng tệ hại hơn nữa, diện
tích rừng chỉ c̣n 9,1 triệu mẫu (27,7%). Theo báo cáo năm 2002 của Ngân hàng
Thế giới (WB), kễ từ năm 1999 trở đi, hàng năm mức độ đốn rừng để xẻ gỗ được
ước tính là 2 triệu m3. Ngoài ra c̣n phải kể đến việc cháy rừng vào mùa khô
và việc chuyển đổi rừng trong việc nuôi tôm như vùng rừng tràm, đước ở Cà
Mau.
Về ĐBSCL, trong hiện tại chỉ c̣n 5% rừng che phủ và đă mất đi khoảng 175.000
mẫu rừng ngập mặn tính đến 2003. Rừng ngập mặn ở nơi nầy thể hiện nhiều lợi
điểm sau đây: 1- chống lại sự xói ṃn của biển, 2- hạn chế được sự nhiễm mặn
vào sâu trong vùng đất liền, 3- và nhất là bảo vệ được đa dạng sinh học cho
toàn vùng. Kỹ nghệ nuôi tôm đă đánh mất đi các lợi điểm nầy và hiện đang để
lại một di hại không nhỏ cho toàn vùng hiện tại.
Về đất, hậu quả trước mắt ảnh hưởng từ việc phá rừng là sự thoái hóa của
đất. Đất mất đi độ ph́ nhiêu và sự cân bằng dinh dưởng. Lớp đất thịt trên
mặt sẽ bị cuốn trôi sau những cơn mưa lũ v́ không c̣n cây và rễ để giữ đất
lại. Điều nầy được tỏ rơ trong năm 2001, lần đầu tiên trong lịch sử nước
sông Hương (Huế) đă biến thành đục và độ pH trở thành kiềm trong mùa khô.
Ngoài sự thoái hóa của đất do nguyên nhân trên, sau gần 20 năm mở cửa và
phát triển ồ ạt trong nông nghiệp, Việt Nam mất đi 2 tỷ tấn đất/năm (nguyên
nhân chính yếu là do việc phá rừng) hay tính trung b́nh đất bị xói ṃn tùy
theo vùng và đă thất thoát từ 50 – 3200 tấn/mẫu/năm ảnh hưởng đến 23 triệu
mẫu trên toàn quốc, chiếm 70% diện tích quốc gia.
2- Ô nhiễm không khí
Dù Việt Nam đă phê chuẩn Nghị định thư Kyoto về sự hâm nóng toàn cầu vào
ngày 25/9/2002, nhưng mức độ ô nhiễm không khí và bụi bậm ngày càng phát
sinh nhiều thêm ra. Bụi là chất ô nhiễm không khí phổ biến nhất tại Việt
Nam. Từ năm 1995 đến 1999, “... hầu hết các đô thị ở Việt Nam đều bị ô nhiễm
bụi, nhiều đô thị bị ô nhiễm bụi trầm trọng tới mức báo động... Nồng độ bụi
ở các khu dân cư ở bên cạnh các nhà máy, xí nghiệp hoặc gần các đường giao
thông lớn đều vượt trị số TCCP [tiêu chuẩn cho phép] từ 1,5 đến 3 lần,
trường hợp cá biệt, gần nhà máy gạch và bia ở thị xă Lào Cai vượt TCCP tới 5
lần. Nơi bị ô nhiễm lớn nhất là khu dân cư gần các nhà máy xi măng Hải
Pḥng, nhà máy VICASA TP. Biên Ḥa, khu công nghiệp Tân B́nh (TP. Hồ Chí
Minh), nhà máy Tuyển than Ḥn Gai (TP. Hạ Long)”. “Theo một phúc tŕnh của
Ngân hàng Thế giới năm 1995, bụi từ nhà máy xi măng bao phủ hầu hết Hải
Pḥng, thành phố lớn thứ ba, vượt TCCP của chánh phủ từ 3 đến 8 lần”.
Về các khí thải, nói chung, nồng độ trung b́nh hàng ngày của CO và NO2 th́
thấp hơn TCCP ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẳng, Hải
Pḥng. “Tuy vậy ở một số nút giao thông lớn trong đô thị nồng độ khí CO và
khí NO2 đă vượt trị số TCCP, như là ở ngă tư Đinh Tiên Hoàng – Điện Biên Phủ
(TP. Hồ Chí Minh) trị số trung b́nh ngày năm 1999 của nồng độ NO2 = 0,255
[mg/m3], gấp 2,55 lần trị số TCCP, nồng độ CO = 15,46 mg/m3, gấp hơn 3 lần
trị số TCCP; ở khu nhà máy thép Đà Nẳng trị số trung b́nh năm 1999 của nồng
độ NO2 = 0,11 mg/m3, gấp 1,1 lần trị số TCCP, nồng độ CO = 12,2 mg/m3, gấp
2,44 lần trị số TCCP; ở khu công nghiệp Thượng Đ́nh (Hà Nội), 1999 có CO =
7,2 mg/m3, gấp 1,44 lần trị số TCCP; ở khu nhà máy xi măng Hải Pḥng, 1999
có CO = 9,42 mg/m3, gấp 1,88 lần trị số TCCP”.
Ch́ là một chất ô nhiễm không khí phổ biến khác, nhất là ở các đô thị.
“Trong năm 1991, thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 750.000 xe gắn máy và
75.000 xe cộ các loại, tất cả đều dùng xăng pha ch́. Việc nầy làm cho nồng
độ ch́ trong không khí đo được trong khoảng từ 1 đến 4 micrograms/m3
(mg/m3). Để so sánh, theo kết quả nghiên cứu đăng trên tạp chí Pediatrics
năm 1994, nồng độ ch́ trong không khí ở thành phố Chicago trong năm 1988 th́
dưới mức 0.5 mg/m3”, được xem như là một thành phố ô nhiễm nhất Hoa Kỳ.
Nhiều nơi ở thành phố Hà Nội, nồng độ ch́ vượt quá mức 4 mg/m3 trong năm
1998 .
“Ô nhiễm không khí do một số nhà máy xí nghiệp (ví dụ như nhà máy gạch Cầu
Đuống, nhà máy điện Phả Lại v.v.) đă gây tác hại đối với sản xuất nông
nghiệp vùng xung quanh, làm giảm sản lượng lúa từ 20 đến 50%. Môi trường
không khí ở một số xí nghiệp nhà máy (như là nhà máy Xi măng Hải Pḥng, khu
Công nghiệp Thượng Đ́nh) đă bị ô nhiễm nặng nề về bụi và khí SO2 và tác động
trực tiếp đến sức khỏe con người, làm tăng tỷ lệ số người bị mắc bệnh về hô
hấp từ 1,5 đến 2,5 lần so với các khu vực dân cư bên cạnh không bị ô nhiễm”.
3- Ô nhiễm nguồn nước
LHQ đă khơi mào một quan niệm hết sức trong sáng là “Nước tự nó không màu và
không biên giới cho nên không thể bị ức chế được” và “Tất cả mọi người trên
thế giới đều có quyền có đủ lượng nước sạch và an toàn cần thiết cho nhu cầu
hàng ngày”. Ở Việt Nam, sự tăng trưởng một cách nhanh chóng về kinh tế và xă
hội từ năm 1986 đă gây nên t́nh trạng ô nhiễm nước ở đô thị và nông thôn
trên cả nước, và phẩm chất của các nguồn nước ở Việt Nam dường như càng ngày
càng suy thoái.
Về nước, theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Quốc gia về Cung cấp Nước sạch và Vệ
sinh môi trường năm 2003, nguồn nước ở Việt Nam ngày càng bị khan hiếm và ô
nhiễm. Sự thoái hóa nầy tăng theo tỷ lệ thuận với mức tăng trưởng kinh tế,
nhất là ở những năm gần đây. Nhu cầu nước cho nông nghiệp chiếm 88%, và cho
kỹ nghệ chiếm 7%.
Các nguồn nước thải từ khu gia cư, từ các trung tâm kỹ nghệ, khu chế xuất,
đất nông nghiệp v.v...đă xâm nhập vào nguồn nước mặt, nước ngầm, thậm chí
ảnh hưởng đến phẩm chất nước ở vùng duyên hải nữa. Nước sinh hoạt gia cư,
nước thải kỹ nghệ, và nước rỉ từ các băi rác là nguyên nhân chính yếu cho
việc ô nhiễm hữu cơ trong nguồn nước mặt đặc biệt ở các thành phố lớn như
TpHCM, Hà Nội, Hải Pḥng, Đà Nẵng, Cần Thơ v.v... căn cứ theo báo cáo trên.
“Trên toàn quốc, số lượng nước thải gia dụng và kỹ nghệ không được gạn lọc
và xả trực tiếp vào sông ng̣i được ước tính vào khoảng từ 240 đến 300 triệu
m3 một năm. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, số lượng nầy sẽ tăng lên
gấp 10 lần trong ṿng 15 năm tới [vào năm 2010].”
Việc xả nước thải không được gạn lọc chất độc đă gây nên t́nh trạng ô nhiễm
nước nghiêm trọng ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh (Sài G̣n), Hải
Pḥng, Việt Tŕ, và Biên Ḥa. Theo Báo cáo Hiện Trạng Môi trường Việt Nam
2001, “hầu hết các sông được theo dơi đều bị ô nhiễm các chất như N và P, từ
4 đến gần 200 cao hơn tiêu chuẩn cho nước loại A [nước uống] và từ 2 đến 20
lần cao hơn tiêu chuẩn cho nước loại B [nước không uống được]. T́nh trạng ô
nhiễm chất hữu cơ trong sông Sài G̣n, Vàm Cỏ Đông và các kinh rạch rất
nghiêm trọng, riêng sông Đồng Nai th́ cực kỳ nghiêm trọng”. “Sông ở các
thành phố lớn có độ BOD [biochemical oxygen demand] cao gấp 2,5 đến 7,5 lần
tiêu chuẩn nước uống của Việt Nam và của Cộng đồng Châu Âu, chứng tỏ nước có
chứa nhiều chất hữu cơ. Cá không thể sống trong các con sông nầy, v́ nồng độ
oxy thấp hơn 4 mg/l..
Ngoài các chất hữu cơ và chất đạm, hóa chất độc hại cũng hiện diện trong
nước thải. Một số nghiên cứu về Nhà máy giấy Băi Bằng trong tỉnh Vĩnh Phú đă
phát hiện các chất thuộc họ dioxin trong cây cỏ và bùn ở hồ lắng và nguồn
nước nhận nước thải của nhà máy, và PCBs [polychlorinated biphenyls] được
t́m thấy trong nước thải gia dụng của thành phố Hồ Chí Minh. Thuốc trừ sâu
có chứa chlorine và PCBs cũng được phát hiện trong trầm tích ở cửa sông Hậu.
Nguồn nước mặt đă bị ô nhiễm chất đạm và vi khuẩn từ phân bón và chất thải
của con người và súc vật. “Theo một phúc tŕnh của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn, trị số trung b́nh của vi khuẩn, vào khoảng 1.500 đến 3.500
MNP/100 ml [MPN/100 ml] dọc theo sông Tiền và sông Hậu, tăng lên đến 3.800
đến 12.500 MNP/100 ml [MPN/100 ml] trong các kinh thủy lợi ở nội đồng”. Tiêu
chuẩn quốc tế hiện nay không cho phép có vi khuẩn trong nước uống. Thạch tín
(arsenic) cũng được phát hiện với nồng độ cao trong nước ngầm ở nhiều nơi
trong vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH). Ở vùng ĐBSCL, nồng độ thạch tín trong
nước ngầm đang tiến dần đến mức cho phép (10 phần ty hay ppb).û Vấn đề ô
nhiễm thạch tín, tương tự như trường hợp của Ấn Độ và Bangladesh, dường như
bắt nguồn từ hơn 300.000 giếng khoan ở ĐBSH và ĐBSCL từ năm 1980.
4- Việc xử dụng hóa chất bảo vệ thực vật
Dựa theo kết quả phân tích của các nhà khoa học và y tế Việt Nam, các vụ ngộ
độc thực phẩm như rau muống, cà pháo, ngó sen, bắp cải v. v.. là do thuốc
bảo vệ thực vật thuộc gốc organo-phosphate. Danh từ thuốc bảo vệ thực vật
Việt Nam dùng để chỉ các loại hóa chất dùng làm thuốc sát trùng, thuốc trừ
sâu rầy, thuốc diệt cỏ dại, và thuốc trừ nấm. Việc truy t́m nguyên nhân cho
các vụ ngộ độc trên cũng tương đối giăn dị. Xin đan cử ra đây ba lư do chính
khiến cho t́nh trạng ngộ độc ngày càng có tính cách phổ quát hơn là:
· Người sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không có đủ thông tin trong khi dùng
đến các loại thuốc trên. Ở Việt Nam hiện có trên 200 loại thuốc và có trên
700 nhản hiệu khác nhau, chưa kễ các thuốc nhập lậu không có nhản hiệu, và
rất nhiều tên thuốc nằm trong danh sách bị cấm sử dụng;
· Nông dân không được hướng dẫn đầy đủ trước khi sử dụng;
· Tệ hại hơn nữa, một số cán bộ nhắm mắt làm ngơ v́ quyền lợi cá nhân khi
đem bán các thuốc bảo vệ thực vật trái phép đă bị tịch thu và bị cấm sử
dụng.
Theo báo cáo của Bộ Thương Mại đọc được trên báo Người Lao Động ngày
20/4/2002 th́ hàng năm, mức tiêu thụ thuốc bảo vệ thực vật trong nước vào
khoảng 1,5 triệu tấn, không kể một số lượng không nhỏ được nhập cảng lậu qua
đường biên giới mà chính quyền không thể kiểm soát được. Khi đem con số nầy
áp dụng vào tổng diện tích trồng trọt ở Việt Nam vào khoảng 12 triệu hecta,
dĩ nhiên giới làm khoa học có thể thấy ngay rằng người nông dân Việt Nam đă
xử dụng một số lượng thuốc cao gấp nhiều lần hơn so với nông dân ở các quốc
gia Tây phương.
Cơ quan Lương Nông quốc tế (FAO) đă từng khuyến cáo là chỉ số xử dụng thuốc
bảo vệ thực vật ở Việt Nam rất cao, đạt mức trung b́nh cho một mùa là 5,3,
trong lúc đó chỉ số trên ở Trung Quốc là 3,5, Phi luật Tân, 2,0, và Ấn đo,ä
2,4. Thêm nữa, tiến sĩ Ngô Kiều Oanh, thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên đă
nhận định rằng so với diện tích đất nông nghiệp ở Việt Nam th́ chỉ cần độ 50
ngàn tấn thuốc bảo vệ thực vật là quá dư thừa rồi. Như vậy, nông dân Việt
Nam đă tiêu dùng gấp 30 lần lượng hóa chất nhiều hơn mức trung b́nh! Từ đó
suy ra mức ô nhiễm hóa chất độc hại lên thực phẩm tiêu dùng ở Việt Nam là
kết quả đương nhiên mà người tiêu thụ trong nước phải hứng chịu.
Ở Việt Nam, thuốc bảo vệ thực vật được xử dụng riêng rẽ hoặc dưới dạng hỗn
hợp (cocktail) để tăng cường độ độc chất của thuốc trước sức đề kháng của
sâu rầy.. . DDT được coi như là tác nhân chính trong nhiều hỗn hợp trên. Thí
dụ: hỗn hợp DDT, Thiodan (hay Endosulfan) và Folidol (Methyl Parathion)
thường hay được pha chế để trừ sâu cuốn lá và các côn trùng khác. Ngoài việc
dùng hóa chất cho nông nghiệp, nông dân c̣n xử dụng các thuốc bảo vệ thực
vật trong việc săn bắt tôm cá nữa(!)
Sau đây là danh sách một số hóa chất độc hại được áp dụng rộng răi ở Việt
Nam: DDT, Folodol, Mevinphos, Dichlovos, Carbofuran, Methamidophos,
Endosulfan (hay Thiodan), Diazinon, Glycosate (hay 2,4-D), Diazonin,
Chlopyrifos, Zinc Phosphide, Paraquat, Aluminum Phosphide. Và đây là những
hóa chất hoàn toàn đă bị cấm sản xuất và xử dụng. Sở dĩ các hóa chất nầy
hiện diện được ở Việt Nam là qua ngă đường biên giới Trung Quốc.
Do đó, nguy cơ ô nhiễm môi trường sống ờ Việt Nam cho đến ngày nay không c̣n
là một sự kiện cần phải bàn căi. Đây là một nguy cơ thực sự mà Việt Nam cần
phải đối mặt và giải quyết tức thời. Trước việc các sản phẩm thực phẩm của
Việt Nam xuất cảng ra ngoại quốc tiếp tục bị trả hàng loạt v́ có dung lượng
hoá chất cao hơn quy định, và sản phẩm tiêu dùng trong nội địa bị nhiễm độc
thường xuyên, viễn ảnh một nền kinh tế què quặc trong tương lai chắc chắn sẽ
phải xảy ra mà thôi.
Việc áp dụng hóa chất bảo vệ thực vật không đúng cách (đúng liều lượng thích
hợp), không đúng đối tượng (sâu rầy ...), và không đúng thời gian là ba yếu
tố làm cho:
· Môi trường thoái hóa nhanh;
· Hiệu quả kinh tế trong sản xuất thấp;
· Và sức khoẻ của nông dân bị ảnh hưởng v́ không có biện pháp pḥng bị an
ṭan khi tiếp cận với hoá chất.
Một thí dụ trong việc trồng lúa. Nông dân thường có thói quen phun xịt đồng
ruộng trong tháng đầu tiên sau khi gieo mạ. Điều nầy chẳng những không cần
thiết mà ngược lại việc làm nầy tiêu diệt các loại côn trùng “bạn” có khả
năng diệt trừ sâu rầy. Thêm nữa, việc phun xịt sớm chỉ tiêu diệt được sâu
rầy trưởng thành nhưng không diệt được các trứng của chúng. Theo ước tính
Việt Nam đă xử dụng 42% trên tổng số thuốc bảo vệ thực vật để tiêu diệt sâu
cuốn lá, nhưng nghiên cứu đă cho thấy rằng cây lúa dù mất đi 50% lá vẫn giữ
nguyên năng suất lúc ban đầu. Viện Đại học Cần thơ và IRRI (Philippines) đă
chứng minh từ năm 1995 rằng việc xịt thuốc trừ sâu cuốn lá là điều không cần
thiết nữa. Thêm nữa, nếu kể chi phí y tế của nông dân vào việc sản xuất th́
việc xử dụng hoá chất bảo vệ thực vật là một việc làm không hiệu quả kinh
tế.
V́ các lư do trên, những quốc gia sản xuất nông nghiệp trên thế giới đều có
khuynh hướng giảm thiểu tối đa việc dùng hóa chất.
5- Quyền được giáo dục và hướng dẫn
Tỷ lệ nông dân ở Việt Nam là 65% theo thống kê 2004 tức là trên 53 triệu.
Tuyệt đại đa số không được giáo dục và hướng dẫn cách xử dụng hóa chất trong
nông nghiệp ngoại trừ trường hợp Nam Dương là một điển h́nh để phát triển
nông nghiệp đúng cách và có sách lược trong mục đích phát triển quốc gia và
bảo vệ môi trường.
Nam Dương là một quốc gia nông nghiệp lấy việc trồng lúa làm nền tảng cho
phát triển quốc gia để hy vọng tiến đến việc tự túc lương thực. Từ năm 1986,
Tổng thống Suharto đă lấy quyết định nghiêm cấm xử dụng 28 loại hoá chất bảo
vệ thực vật đặc biệt cho kỹ nghệ trồng lúa. Thành quả thâu dạt được đầu tiên
là, từ 1986 đến 1989, Nam Dương đă khỏi phải tiêu tốn hàng năm 100 triệu Mỹ
kim qua Quỷ bảo trợ nông nghiệp cho nông dân trong việc dùng các hoá chất
trên.
Thêm nữa, chính quyền Nam Dương nâng chính sách “Quản lư ṭan diện sâu rầy”
(Integrated Pest Management) làm quốc sách, như thiết lập các trường huấn
luyện nông dân với mục đích nâng cao kiến thức cho nông dân trong việc xử
dụng hóa chất. Kết quả hiện tại Nam Dương có hơn một triệu nông dân “chuyên
nghiệp” tốt nghiệp ở các trường đào tạo nầy, và hầu như làng nào cũng có một
hay nhiều nông dân chuyên nghiệp. Từ đó, tŕnh độ hiểu biết về canh nông của
nông dân được tăng thêm qua sự hướng dẫn của “nông dân chuyên nghiệp” trên.
Mục tiêu của các trường huấn luyện là: 1- khuyến cáo nông dân xử dụng càng
ít hóa chất càng tốt, 2- nếu cần xử dụng th́ phải xử dụng có hiệu quả. Do
đó, năng xuất trồng trọt tăng cao và việc cải thiện đời sống kinh tế của
nông dân cũng tăng theo sau đó.
Sau mười năm áp dụng, Nam Dương thu thập được những thành quả sau đây:
· Việc xử dụng thuốc bảo vệ thực vật hầu như chấm dứt trong việc trồng lúa;
· Năng suất lúa gạo tăng 10%;
· Chi phí y tế công cộng do bị nhiễm độc giăm từ khi áp dụng chính sách Quản
lư ṭan diện sâu rầy.
Kết luận
Từ những vấn nạn môi trường kể trên, một lần nữa, nhân ngày Nhân quyền Việt
Nam 11/5, thiết nghĩ Việt Nam cần phải giải quyết các vấn đề xă hội để mang
lại những quyền hạn căn bản tối thiểu cho đời sống con người ở thế kỷ 21
nầy. Đó là: Quyền được cung cấp nguồn nước sạch, quyền được thở không khí
trong lành, quyền được ăn uống hợp vệ sinh, và quyền được giáo dục và chỉ
dẫn về khai thác nông nghiệp. Việt Nam cần phải đặt trọng tâm vào những
quyền hạn vừa nêu trên và phải xem đó là một bổn phận và làm phương án thiết
lập một chính sách quốc gia để giải quyết vần đề. Không thể nào xem đây là
một biện pháp chửa cháy để xoa diụ và giải quyết ngắn hạn được. Nếu không,
mọi cố gắng về cải cách kinh tế để nâng cao mức phát triển của Việt Nam sẽ
bị thiêu rụi tất cả v́ những vấn nạn trên.
Một trong những trách nhiệm nặng nề nhất của lănh đạo Việt Nam là để cho
UNICEF bảo trợ và cổ súy cho việc đào giếng để có nguồn nước sạch. Gương
Bangla Desh c̣n trước mắt với trên 4 triệu giếng khoan trên toàn quốc. Cho
đến nay, t́nh trạng nầy đă biến thành một tai ương cho quốc gia với trên 50
triệu người bị nhiễm độc arsenic có trong nước giếng và hàng trăm ngàn người
thiệt mạng v́ ung thư. Việt Nam cho đến nay, vẫn tiếp tục cổ súy việc đào
giếng mặc dù đă nhận thức rằng thảm họa ô nhiễm arsenic đă là một hiện thực,
đặc biệt là tại đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL. Thiết nghĩ đây cũng là một
h́nh thức vi phạm nhân quyền trầm trọng đối với người dân Việt. Nếu biết
quản lư và xử dụng nguồn nước mưa đúng cách với vũ lượng hàng năm khoảng
2.000 mm nước mưa, Việt Nam có thể giải quyết nguồn nước sinh hoạt cho người
dân dễ dàng trong những vùng trên.
Việt Nam cần có tầm nh́n toàn cầu, ứng hợp với chiều hướng phát triển chung
của thế giới, chấp nhận luật chơi chung, và quan trọng hơn cả là cần phải
xóa bỏ năo trạng “độc tôn và duy ngă” trong tư thế lănh đạo đất nước.
Việt Nam đă chiến thắng quân sự trong quá khứ. Từ đó, sau 30 năm, có thể nói
ngày hôm nay, lănh đạo Việt Nam đă bị nhiễm độc v́ “chất da cam” cho nên nảy
sinh ra bịnh tham nhũng trầm trọng và hội chứng cường quyền trong việc quản
lư xă hội. Phải chăng chiến thắng trong chiến tranh, tuy đă đi vào dỉ văng
30 năm, nhưng vẫn c̣n mang lại cho lănh đạo Việt Nam hào quang và cảm giác
ngất ngây của ngày chiến thắng năm xưa?
Với những cách nghĩ như trên cộng thêm tâm khảm của một năo trạng nghi ngờ,
mặc cảm phải tỏ ra chủ động trong mọi quyết định có tính cách “quốc tế”, và
hội chứng chuếch choáng với hơi khói chiến tranh vẫn c̣n đâu đây... làm sao
Việt Nam có thể hội nhập vào cộng đồng thế giới và tạo được sự thông cảm
toàn diện và đồng thuận ở cả hai mặt chính quyền và người dân.
Thống nhất lănh thổ chưa đủ. Việt Nam cần phải thực tâm nhận lỗi và chủ động
trong việc hàn gắn lại toàn khối dân tộc đă rạn nứt v́ đa số đă bị bỏ rơi,
bạc đăi và bị xua đẩy. Chỉ có việc làm sáng suốt nầy mới có thể tạo ra cơ
hội cứu văn Việt Nam trong tiến tŕnh mới của nhân loại.
Trong những năm gần đây, tiến tŕnh toàn cầu hóa của các quốc gia trên thế
giới đă chứng minh rằng quốc gia nào không thích ứng với những đổi thay
nhanh và mới sẽ bị tan ră không sớm th́ muộn. Bởi v́ những cấu trúc thượng
tầng sẽ không c̣n ứng hợp với sức ép của người dân, và khả năng kiểm soát
các vấn đề xung đột từ hạ tầng tức là từ phía nhân dân của lănh đạo, sẽ
không c̣n hiệu nghiệm nữa. Và điều sau nầy chắc chắn sẽ là một cảnh báo
nghiêm trọng và rốt ráo trong những ngày sắp tới cho Việt Nam.
Truyet T. Mai, Ph.D.
Vietnamese American Science and Technology Society
May, 2005
Human rights are generally understood as the rights of people to live on
this planet. These are primary liberties that have been recognized and
adopted by a majority of the world nations through the United Nations (UN)
rules and standards. In Vietnam, most of the primary liberties such as the
rights to life, free speech, and fair trial have not been recognized;
therefore, the Vietnamese government has not adequately provided its people
with an equitable and just life.
In addition to the rights to life specified by the UN rules and standards,
peoples need appropriate environmental conditions to live in a good and
civilized society. The UN does not discuss them because they are natural
necessities. These environmental rights include the rights to clean water,
clean air, nutritional and safe foods, and agricultural education including
the use of fertilizers, pesticides, and herbicides. Since these rights are
not included in the UN Declaration of Human Rights, the Vietnamese people
must take actions to have them addressed appropriately and adequately.
Current policies and development plans of the Vietnamese government have
been degrading the environment and depleting natural resources. These
consequences are caused by uncontrolled deforestation, untreated wastes from
industrial facilities and municipalities, uncontrolled use of toxic
chemicals in agricultural and industrial production, and lack of education.
These environmental problems should be resolved, rather than exacerbated, to
provide the Vietnamese people with the very basic rights for their life in
this 21st century. This may be considered as violation of the human rights
of the Vietnamese people.
In recent years, the globalization has proved that a nation cannot survive
without adopting the world’s rapid changes. Therefore, the Vietnamese
government should have a global vision consistent with the world’s
development trend, follow the rules adopted by the world community, and more
importantly, eliminate its totalitarianism, egoism, and arrogance in
developing and governing the nation and people of Vietnam.
* *