ĐT. 714-541-9859, 714-423-0577                      THONG THIEN HOC

Google

Trang Chính

English

Việt Nam


Hoa Kỳ

Sinh Hoạt Cộng Đồng


Thế Giới
Diễn Đàn

Văn Học

B́nh Luận

Kinh Tế
Câu Chuyện ThờiSự

Chuyện Lạ 4Phương

Khoa Học

Sức Khỏe

Ẩm Thực

Nhân Vật

Người / Ngợm

Vui Cười


Biếm Thi

Linh Tinh

Rao Vặt

Nhạc Hoàng Vân

VNCH Foundation

Ca Dao Việt Nam

Thơ Hà Huyền Chi

Hà Phương Hoài

Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

OVERSEAS
FREE VIETNAMESE
COMMUNITIES

RADIO
SAIGON-HOUSTON

 CON ĐƯỜNG QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG


NHỮNG KHÓ KHĂN PHẢI KHẮC PHỤC
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống



Dầu sao chúng ta ư thức rằng con đường quang phục quê hương c̣n lắm chông gai và giải thể CS là một việc thiên nan vạn nan. Hơn nữa chúng ta sẽ gïặp nhiều khó khăn hơn các dân tộc Đông Âu.
V́ người dân Âu Châu thường có tinh thần thể thao phục thiện, trong khi phe lănh đạo CS Việt Nam lại bất phục ngoan cố.
Người dân Âu Châu thường ngay thẳng bộc trực, trong khi phe lănh đạo CS Việt Nam lại ngụy trang dối trá.
Người dân Âu Châu thường có tinh thần công bằng trọng pháp, trong khi phe lănh đạo CS Việt Nam lại bao che tham nhũng.
Đó là chỗ khó khăn của chúng ta.
Trong cuộc chiến đấu này chúng ta phải t́m hiểu những nhược điểm của đối phương để khai thác, và những vơ khí của đối phương để hóa giải.
Những nhược điểm của CS là: độc tài, tham nhũng, bất công, bất lực, thường xuyên vi phạm nhân quyền và trắng trợn vi phạm nhân quyền.
Hai vơ khí chiến lược của CS là: tuyên truyền dối trá và đàn áp khủng bố.
Tuyên truyền dối trá và đàn áp khủng bố là hai vơ khí chiến lược của
Đảng CS để cướp chính quyền và củng cố chính quyền. Đây là một cặp song cổ kiếm phải sử dụng đồng thời, mất một là mất tất cả. Nếu chỉ có tuyên truyền đối trá, mà không có đàn áp khủng bố, th́ CS sẽ tiêu vong. Trái lại nếu chỉ có đàn áp khủng bố, mà không thể tuyên truyền dối trá được nữa, th́ CS cũng sẽ bị giải thể.

I. TUYÊN TRUYỀN DỐI TRÁ.
1) Về mục tiêu độc lập thống nhất
Trong cuộc đấu tranh giành độc lập, Đảng CS đă lồng cách mạng CS trong chiêu bài giải phóng dân tộc chống chế độ thuộc địa. Họ đă dùng ngụy chủ nghĩa dân tộc để khai thác ḷng yêu nước của hàng triệu thanh niên nam nữ Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương.
Về mặt chủ thuyết, trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản, Đảng CS phủ nhận chủ nghĩa dân tộc. Họ không quan niệm độc lập quốc gia là một mục tiêu chiến lược, một cứu cánh tối hậu phải tranh thủ với bất cứ giá nào, với bất cứ hy sinh nào, kể cả việc hy sinh những quyền lợi riêng tư của đảng phái. Đảng CS chỉ quan niệm độc lập quốc gia như một chiêu bài, một phương tiện, hay một sách lược để đạt được mục tiêu chiến lược là cướp chính quyền. Họ phủ nhận bất cứ nền độc lập nào không cho họ độc quyền lănh đạo quốc gia. Do đó, họ đă phủ nhận nền độc lập và thống nhất quốc gia do Hiệp Định Élysée trao trả cho Việt Nam năm 1949. Và họ tiếp tục phát động chiến tranh vơ trang trong 40 năm – từ 1949 đến 1989 – để cướp chính quyền và bành trướng chủ nghĩa bá quyền.
Từ 1949 Chiến tranh Việt Nam không c̣n là chiến tranh giải phóng dân tộc, mà là chiến tranh ư thức hệ giữa Quốc Tế CS và Thế Giới Dân Chủ (như Chiến Tranh Triều Tiên).
Sau khi thôn tính lục địa Trung Hoa năm 1949, mục tiêu chiến lược của Quốc Tế CS là nhuộm đỏ 2 bán đảo Đông Dương và Triều Tiên. Tháng 6, 1950 với sự yểm trợ của Liên Xô và Trung Quốc, Bắc Hàn đem quân xâm lăng Nam Hàn. Từ đó chiến tranh ư thức hệ bộc phát giữa Quốc Tế CS và Thế Giới Dân Chủ.
Kinh nghiệm dân gian cho biết nơi nào trâu ḅ húc nhau th́ ruồi muỗi chết: 3 triệu người đă hy sinh thân sống tại Triều Tiên, 3 triệu thanh niên nam nữ đă hy sinh thân sống tại Việt Nam, và 2 triệu người Cao Miên đă bị tàn sát, không phải để giành độc lập cho quốc gia mà để cho Đảng CS có cơ hội cướp chính quyền.
V́ Đảng CS Đông Dương phủ nhận nền độc lập do Pháp trao trả cho 3 quốc gia Đông Dương năm 1949, nên 3 cuộc chiến tranh Đông Dương đă xẩy ra, và Đảng CS Đông Dương phải chịu trách nhiệm về cái chết của 5 triệu người tại Đông Dương.
Bằng giả nhân giả nghĩa, ngụy trang và dối trá, Đảng CS đă dùng ngụy chủ nghĩa dân tộc để giành chính nghĩa và cướp chính quyền.
Ngụy trang đi liền với dối trá.
Đảng CS tuyên truyền rằng Pháp đem quân sang Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa. Đây chỉ là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. V́ từ sau Thế Chiến II, Pháp không chủ trương tái lập các thuộc địa tại Á Châu. Và năm 1946 Pháp đă kư hai hiệp ước với Syrie và Liban để trả độc lập cho 2 quốc gia này. (Cũng nên ghi nhận rằng Hồ Chí Minh đă kư Hiệp Ước Sainteny tháng 3-1946 cho 15 ngàn quân Pháp sang đồn trú tại Việt Nam).
Tuy nhiên Pháp và phe Dân Chủ Tây Phương không chịu trao Đông Dương cho Đảng CS Đông Dương, v́ họ không muốn Stalin mở rộng Bức Màn Sắt từ Đông Âu qua Đông Á. Do đó từ 1947, Pháp đă thương nghị với phe Quốc Gia Việt Nam để trả độc lập cho Việt Nam. Năm 1947, sau khi kư Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp đă chính thức đăng kư 3 nước Đông Dương là những quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc (xin coi Everyone’s United Nations 1986, trang 332).
Và tháng 3, 1949 tại Paris, Tổng Thống Vincent Auriol đă kư HIỆP ĐỊNH ÉLYSÉE với Quốc Trưởng Bảo Đại để trả độc lập cho Việt Nam. 4 tháng sau, tháng 7, 1949, Tổng Thống Auriol lại kư Hiệp Ước với Quốc Vương Sisavangvong để trả độc lập cho Ai Lao. Và 4 tháng sau nữa, tháng 11,1949 Tổng Thống Auriol lại kư Hiệp Ước với Quốc Vương Sihanouk để trả độc lập cho Cao Miên “theo tinh thần Hiệp Định Élysée”.
Như vậy, sự thật lịch sử đă chứng minh rằng, từ sau Thế Chiến II, tại Á Châu, chế độ thuộc địa đă cáo chung để nhường chỗ cho chế độ liên hiệp.
Chiếu Hiệp Định Élysée 1949, Việt Nam và Pháp có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Từ 1949, quân đội Pháp chiến đấu tại Việt Nam với tư cách quân đội Liên Hiệp Pháp, để bảo vệ biên thùy của Việt Nam đồng thời là biên thùy của Liên Hiệp Pháp và của Thế Giới Dân Chủ. Trong bài diễn văn nhậm chức tại Quốc Hội Hoa Kỳ tháng giêng 1953, Tổng Thống Eisenhower có nói: “Người Pháp chiến đấu tại Việt Nam và người Mỹ chiến đấu tại Triều Tiên cùng theo một mục đích như nhau.” (bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ).
Từ 1955, trong kế hoạch thôn tính miền Nam, Đảng CS lại tuyên truyền rằng Hoa Kỳ đem quân sang để thống trị Miền Nam.
Đó cũng là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. V́ từ hai thập niên 1950 và 1960, Hoa Kỳ đem quân tham chiến tại Đại Hàn và Việt Nam, không phải để thống trị hai nước này, mà để bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ.
Về việc giải thể đế quốc, Hoa Kỳ đă đi tiền phong trong việc giải phóng thuộc địa và đă trả độc lập cho Phi Luật Tân từ 1946. (Phi Luật Tân đă được tự trị từ 1935).
Nói tóm lại, trong cuộc đấu tranh giành độc lập, Đảng CS đă dùng ngụy chủ nghĩa dân tộc để giành chính nghĩa và cướp chính quyền. Họ đă phủ nhận nền độc lập và phá hoại nền thống nhất do những người Quốc Gia yêu nước đă tranh thủ được từ 1949. Và hai cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài từ 1949 đến 1975 là những cuộc chiến tranh vô ích, vô lư và vô nghĩa.
Đại hạnh của Ấn Độ là có một Gandhi theo chủ nghĩa dân tộc.
Đại bất hạnh của Việt Nam là có một Nguyễn Ái Quốc theo chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Sau vụ Sô Viết Nghệ Tĩnh, đầu thập niên 1930, Quốc Tế Cộng Sản đă phê b́nh gay gắt Đảng Cộng Sản Đông Dương là ‘’chưa nhận thức rơ tính chất nguy hiểm của chủ nghiă dân tộc cải lương, không đấu tranh chống chủ nghiă dân tộc cải lương. V́ chủ nghĩa dân tộc cải lương là một lực lượng hết sức nguy hiểm nhằm phá hoại phong trào cách mạng vô sản. Và độc quyền lănh đạo của giai cấp vô sản sẽ không đượïc thực hiện nếu không xoá bỏ hoàn toàn chủ nghĩa dân tộc cải lương. Bản thân Đảng phải giáo dục và kiểm tra hàng ngũ bằng cuộc đấu tranh thường xuyên với chủ nghiă dân tộc cải lương, coi đó là h́nh thức phản cách mạng của giai cấp tư sản. Không làm mất uy tín của chủ nghiă dân tộc cải lương th́ cách mạng ruộng đất và cách mạng phản đế không thể thắng được.”
Cũng trong thời gian này, Đảng Cộng Sản đă cảnh giác các cán bộ đảng viên ‘’chớ hiểu lầm rằng ta kỷ niệm Yên Báy là ta tán đồng chủ nghĩa dân tộc. Ta nên nhân dịp kỷ niệm này để giăi tỏ trước mặt đại quần chúng công nông trong toàn xứ biết rằng chủ nghĩa Cộng Sản và chủ nghĩa Dân Tộc là một trời một vực và không bao giờ hai chủ nghĩa ấy có thể dung hợp được’’ơ.
Trong khi Quốc Tế Cộng Sản lên án Gandhi là tay sai của Đế Quốc Anh theo chủ nghiă dân tộc cải lương, th́ Hồ Chí Minh cũng phê phán Phan Chu Trinh là “chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Điều đó là sai lầm, chẳng khác ǵ đến xin giặc rủ ḷng thương.’’ơ(Trần Dân Tiên)
Đó là quan niệm của Đảng Cộng Sản về chủ nghĩa dân tộc. Tuy nhiên sau này Hồ Chí Minh đă giảo hoạt và ngụy trang dưới chiêu bài giải phóng dân tộc và dùng chủ nghĩa dân tộc như một sách lược để giành chính nghĩa và cướp chính quyền.
Trong lời tựa cuốn Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, một kẻ ngụy trang chủ nghĩa dân tộc của Tưởng Vĩnh Kính, Hoàng Lư Lục nhận định rằng Hồ Chí Minh đă phỏng theo sách lược ngụy chủ nghĩa dân tộc của Mao Trạch Đông:
‘’Chủ nghiă CS mà hưng khởi lên được, một mặt nương nhờ vào làn sóng chủ nghiă dân tộc, nhưng mặt khác lại âm mưu tiêu diệt thế lực chủ nghiă dân tộc. Trong khi Trung Cộng khoác áo chủ nghiă dân tộc để giành chính nghiă, rồi lợi dụng chiến tranh Trung-Nhật để tăng cường lực luợng, thiết lập khu giải phóng th́ Hồ Chí Minh cũng đề ra những mặt trận dân tộc (Việt Minh), mặt trận liên hiệp (Liên Việt), mặt trận giải phóng (Miền Nam), để đẩy tới chiến tranh vơ trang và phá hoại các đảng phái quốc gia theo chủ nghiă dân tộc. Ông theo nguyên tắc cơ bản là bất cứ điều ǵ phù hợp với quyền lợi của ông, ông sẽ không ngần ngại lợi dụng, bất cứ cái ǵ làm trở ngại cho sự phát triển lực lượng của ông, ông sẽ dùng mọi cách để bài trừ hay tiêu diệt. Ông lớn mạnh không phải do sự quảng bá chủ nghĩa CS. Ông dùng rất nhiều tên giả, tổ chức giả, lấy chủ nghĩa dân tộc để ngụy trang nhằm mục tiêu cướp chính quyền. Tất cả hành động của ông chỉ để tổ chức và phát triển đảng. Đến như Việt Nam có đạt được độc lập hay không th́ chỉ là vấn đề thứ yếu mà thôi”.
Hồ Chí Minh đă suốt đời vận dụng chủ nghĩa dân tộc. Tuy nhiên trong những ngày cuối đời khi sắp về chầu tổ Cộng Sản, trong chúc ngôn ông không lư vấn đến cội nguồn dân tộc và nguồn gốc tổ tiên, ông mong ước được về với Các Mác và Lê Nin bên kia thế giới.
Vậy mà ngày nay trong chiến địch Đổi Mới, Đảng Cộng Sản một lần nữa lại vận dụng chủ nghĩa dân tộc, truyền thống dân tộc, văn hóa dân tộc, bản sắc dân tộc và nếp sống ân nghĩa của dân tộc:
“Đền Hùng và Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh biểu tượng cho sự quí mến cội nguồn và nếp sống ân nghĩa của dân tộc.” Đó là khẩu hiệu tuyên truyền chiến lược mới nhất của Đảng CS.
Đối với họ, Hồ Chí Minh, người có công lập Đảng, có thể sánh ngang với Hùng Vương, người có công lập Quốc. Trong giai đoạn thoái trào, Đảng CS đă dùng huyền thoại Hồ Chí Minh làm cái phao cấp cứu.
2. Về mục tiêu tự do dân chủ.
Đảng CS hứa hẹn rằng, sau khi ḥa b́nh văn hồi, họ sẽ thiết lập một chế độ dân chủ gấp triệu lần chế độ dân chủ Tây Phương. Đây cũng là một luận điệu tuyên truyền dối trá.
Về chủ thuyết, Đảng CS không chủ trương thực thi tự do dân chủ cho người dân. Mục tiêu chiến lược của họ là thiết lập một chế độ độc tài vô sản, hay đúng hơn, một chế độ độc tài của Đảng để thống trị vô sản và nhân dân. Họ không tôn trọng bất cứ một quyền nào trong số 26 dân quyền căn bản như tự do thân thể, tự do cư trú và đi lại, tự do tôn giáo, tự do tư tưởng, tự do văn hóa, tựï do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do lập đảng, tự do tuyển cử v...v...
Kết quả là sau 60 năm cướp chính quyền, Đảng CS đă biến Việt Nam thành một trong những nước phản dân chủ nhất thế giới, kém cả Cao Miên. V́ tại quốc gia này tương đối có tự do tôn giáo, tự do báo chí và có chế độ đa đảng: Đảng Nhân Dân của Hunsen, Đảng Bảo Hoàng của Ranarridh và Đảng Quốc Gia của Rainsy. Ngày nay Mông Cổ cũng theo chế độ lưỡng đảng trong khi Việt Nam vẫn giữ chế độ độc đảng và độc quyền lănh đạo của Đảng CS.
3. Về mục tiêu mưu cầu hạnh phúc.
Đảng CS hứa hẹn sẽ thực thi cải cách ruộng đất để chia ruộng
cho người cày, và đem lại công bằng xă hội cho người dân. Thật ra đây chỉ là một cuộc đấu tranh giai cấp để tiêu diệt trí thức và nông dân tiểu tư sản.
Đầu thập niên 1950, trong 5 đợt đấu tố cải cách ruộng đất, Đảng CS đă sát hại hơn hai trăm ngàn trí thức và nông dân tiểu tư sản được đôn lên hàng địa chủ. Chỉ cần có 2 hecta ruộng mà không tự tay canh tác, cũng bị đấu tố, tịch thâu ruộng đất, tài sản và nhà cửa. Năm 1956, họ chia cho bần cố nông mỗi người chừng 2 sào ruộng (mỗi sào là 360m2). Để rồi 2 năm sau, năm 1958, họ lại trở mặt thâu hồi lại tất cả ruộng đất đă phát cho bần cố nông trong chính sách tập sản hóa ruộng đất hay hợp tác hóa nông nghiệp. Theo chủ thuyết, Đảng CS không công nhận quyền tư hữu và không chủ trương chia ruộng cho tư nhân. Do đó “người cày có ruộng” là một khẩu hiệu tuyên truyền dối trá trắng trợn nhất của Đảng CS.
Tới Thế Chiến II, Việt Nam là một trong những quốc gia giàu thịnh nhất Đông Nam Á được mệnh danh là “bao lơn Thái B́nh Dương”, Saigon là “Ḥn Ngọc Viễn Đông”. Vậy mà ngày nay sau 60 năm CS cướp chính quyền, Việt Nam trở thành một trong 10 nước nghèo đói nhất thế giới, lợi tức b́nh quân mỗi đầu người tại Việt Nam chỉ được một mỹ kim một ngày. Trong khi đó tại Phi Luật Tân là 3 mỹ kim, tại Thái Lan là 6 mỹ kim, tại Mă Lai là 10 mỹ kim, tại Đại Hàn là 25 mỹ kim, tại Đài Loan là 40 mỹ kim, và tại Tân Gia Ba là 85 mỹ kim. Đặc biệt là tại Congo, một cựu thuộc địa của Pháp tại Phi Châu, lợi tức b́nh quân mỗi đầu người cũng gấp đôi Việt Nam. (xin coi Britannica Book of the Year từ năm 2001)
Nói tóm lại, từ 60 năm nay, Đảng CS đă dùng chiêu bài giải phóng dân tộc và giải phóng lao động để giành chính nghĩa và cướp chính quyền. Vơ khí chiến lược số 1 của họ là tuyên truyền dối trá.
Về mục tiêu độc lập thống nhất, họ dùng ngụy chủ nghĩa dân tộc.
Về mục tiêu tự do dân chủ, họ dùng ngụy chủ nghĩa dân chủ xă hội. Và ngày nay Việt Nam c̣n kém xa Căm Bốt về mặt dân chủ.
Về mục tiêu mưu cầu hạnh phúc, họ dùng chính sách ngụy cải cách ruộng đất và ngụy công bằng xă hội. Và ngày nay người dân Việt Nam c̣n nghèo đói hơn cả người dân Congo.
Để chống lại sự tuyên truyền dối trá, chúng ta phát động phong trào truyền bá sự thật lịch sử và sự thật xă hội để chứng minh rằng Đảng CS không có công giành độc lập, và không có công thống nhất đất nước. Ngoài ra họ c̣n phản bội đồng bào trong các mục tiêu tự do hạnh phúc và công bằng xă hội.
Trong cuốn Nhật Kư Rồng Rắn, Trần Độ đă vạch trần chính sách tuyên truyền dối trá cố hữu của Đảng CS:
“Đặc điểm bao trùm của chế độ chính trị xă hội này là nói một đàng làm một nẻo. Nói th́ dân chủ v́ dân, mà làm th́ chuyên chính phát xít, nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, nói vậy mà không phải vậy. Đặc điểm này tạo ra một xă hội dối lừa, lănh đạo dối lừa, Đảng dối lừa, cán bộ dối lừa, làm ăn giả dối, bằng cấp giả dối, giáo dục giả dối, đến gia đ́nh cũng lừa dối... Các vị lănh đạo nói nhiều điều tốt đẹp là nói theo dân mà thôi. Dân căm ghét tham nhũng th́ lănh đạo ḥ hét “kiên quyết chống tham nhũng”. Dân yêu cầu dân chủ, [đổi mới] th́ lănh đạo thêm chữ dân chủ, [đổi mới] vào khẩu hiệu [tuyên truyền] chiến lược. Nhưng nói thêm chữ th́ chưa có ư nghĩa ǵ. V́ ta vốn nói một đàng làm một nẻo. Người trí thức và người dân chỉ thấy những lời nói tốt đẹp kia là vô nghĩa...”


II. ĐÀN ÁP KHỦNG BỐ.
Vơ khí chiến lược số 2 của CS là đàn áp khủng bố. Đây là một trong
hai song cổ kiếm phải sử dụng đồng thời, mất một là mất tất cả.
Nếu CS không thể tuyên truyền dối trá, nếu mọi người biết rơ mặt thật của CS th́ không c̣n ai tha thiết bảo vệ chế độ nữa và CS sẽ tiêu vong. Trong trường hợp này, đàn áp khủng bố sẽ mất hiệu lực.
Lịch sử đă chứng minh điều đó. Tại Đông Đức và Lỗ Ma Ni năm 1989, bộ máy công an ḱm kẹp cũng rất hung dữ. Nó có sự dă man của mật vụ Gestapo thời Hitler, và sự tàn ác của mật vụ KGB thời Stalin. Vậy mà khi người dân đă biết rơ mặt thật của CS và đứng lên đ̣i Dân Tộc Tự Quyết th́ vơ khí đàn áp không c̣n hiệu nghiệm nữa.
Tại Liên Xô cũng vậy. Để chống lại mưu toan đảo chánh ngày 19-8-1991 của phe CS cực đoan, nhân dân đă đứng lên đ̣i giải thể CS. Quân đội xuất phát từ nhân dân đă đứng về phía dân. Và công an mật vụ phải bó tay không dám bắn vào đoàn người biểu t́nh.

5 bậc thang đàn áp khủng bố là: thủ tiêu cá nhân, tàn sát tập thể, học tập cải tạo, ṭa án luật pháp, và quản chế hành chánh.
1) Thủ tiêu cá nhân:
Mặc dầu không ngừng kêu gọi đoàn kết quốc gia, Đảng CS đă thủ tiêu những người quốc gia yêu nước có uy tín và hậu thuẫn v́ họ là những đối thủ nguy hiểm của CS trên đường cướp chính quyền. Sau khi cướp được chính quyền năm 1945, họ đă thủ tiêu Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần văn Thạch, v...v... (trong nhóm Tân Tả Phái); Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà v...v... (trong các nhóm Lập Hiến); Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ (Ḥa Hảo); Trương Tử Anh(Đại Việt), Lư Đông Á (Duy Dân); Khái Hưng, Nhượng Tống (Quốc Dân Đảng) v...v...
2) Tàn sát tập thể:
Đồng thời với thủ tiêu cá nhân, Đảng CS c̣n tàn sát tập thể.
Tàn sát tập thể v́ lư do tôn giáo, như việc sát hại các tín đồ Cao Đài và Ḥa Hảo trong Chiến Tranh Đông Dương; tàn sát tập thể v́ lư do đảng phái như việc sát hại các cán bộ đảng viên Quốc Dân Đảng, Đồng Minh Hội, Đại Việt, Duy Dân v...v... từ thập niên 1940; tàn sát tập thể v́ lư do giai cấp như việc sát hại 200.000 trí thức và nông dân tiểu tư sản trong 5 đợt đấu tố cải cách ruộng đất trong thập niên 1950; tàn sát tập thể v́ lư do chính kiến, như việc sát hại 5 ngàn người quốc gia tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân. Vụ tàn sát tập thể Tết Mậu Thân của Đảng CS Việt Nam năm 1968 đă mở đường cho vụ tàn sát tập thể 2 triệu người Cam Bốt của Đảng CS Khmer từ 1975.
3) Học tập cải tạo:
Cường độ đàn áp thứ ba là chính sách học tập cải tạo mà họ dịch là re-education (cải huấn). Danh từ này tự nó đă dối trá. V́ các tù nhân chính trị không phạm tội h́nh sự nào nên không cần phải cải huấn. Mặc dầu không ngừng hô hào ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, từ 1975 Đảng CS đă bắt giam hằng trăm ngàn quân cán chánh và trí thức văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Ḥa tại các trại tập trung, người th́ 5, 7 năm, người th́ 15, 17 năm. Đây là những trại lao động khổ sai và lao động cưỡng bách để đọa đầy thân xác và hủy diệt ư chí của các tù nhân chính trị.
4) Ṭa án và luật pháp.
Thay v́ để ban phát công lư cho người dân và bảo vệ con người về sinh mạng, tự do, danh dự và tài sản, ṭa án và luật pháp được sử dụng như những công cụ đàn áp khủng bố để bắt giam độc đoán những người đấu tranh ôn ḥa cho tự do, công lư, dân chủ và nhân quyền.
Từ 1975 họ đă truy tố:
a) Về tội âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân, và đă kết án Nguyễn
Khắc Chính 20 năm tù (giảm án từ tù chung thân năm 1976), Linh Mục Phạm Ngọc Liên 20 năm tù năm 1987, Thượng Tọa Thích Tuệ Sĩ 20 năm tù (giảm án từ tử h́nh năm 1988), Nguyễn Đan Quế 20 năm tù năm 1991, Đoàn Viết Hoạt 15 năm tù năm 1993, Nguyễn Đ́nh Huy 15 năm tù năm 1995.
b) Về tội tuyên truyền chống chế độ và đă kết án 3 người con của cố Luật Sư Trần Văn Tuyên: Trần Vọng Quốc 12 năm tù, Trần Tử Thanh 5 năm tù và Trần Tử Huyền 3 năm tù năm 1988; Đoàn Thanh Liêm 12 năm tù năm 1992. Năm 1996 Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu và Nguyễn Kiến Giang đă bị kết án 2 năm tù, 1 năm tù và 15 tháng tù treo về tội tiết lộ bí mật nhà nước, thay v́ tội tuyên truyền chống chế độ, dầu rằng họ đă công khai phủ định chế độ Cộng Sản.
c) Về tội phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia, và năm 1995 đă kết án Ḥa Thượng Thích Quảng Độ 5 năm tù v́ đă tổ chức cứu trợ các nạn nhân lũ lụt tại đồng bằng sông Cửu Long mà không có giấy phép của nhà nước. Trong năm này Hoàng Minh Chính đă bị kết án 1 năm tù cũng về tội này.
5) Quản chế hành chánh.
Từ sau vụ án Lê Hồng Hà (1996), trong 5 năm không thấy có vụ án
chính trị nào. V́ từ năm1997 Đảng Cộng Sản đă ban hành quy chế quản chế hành chánh để bắt giữ pḥng ngừa, quản thúc tại gia những người đối kháng, cấm họ không được hành nghề, không được di chuyển, không được tiếp xúc với quần chúng, không được trả lời phỏng vấn và không được tham gia chính quyền. Bằng phương pháp này Đảng Cộng Sản đă biến đất nước thành một nhà tù lớn, trong đó nhà nước không phải nuôi ăn các tù nhân.
Sau vụ Đại Khủng Bố ngày 11-9-2001, khi Hoa Kỳ và đồng minh c̣n đang bối rối, Đảng Cộng Sản Việt Nam đă lợi dụng thời cơ, leo thang khủng bố từ bậc 5 (quản chế hành chánh) lên bậc 4 (ṭa án luật pháp).
* Một tháng sau, tháng 10-2001 họ đă kết án Linh Mục Nguyễn Văn Lư 15 năm tù về 2 tội phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia và vi phạm quyết định quản chế hành chánh v́ đă tố cáo Đảng CS đàn áp tôn giáo.
Cuối năm 2001 khi hay biết có sự nhượng đất biên giới và bán nước Biển Đông cho Trung Cộng, các nhà trí thức trẻ trong Nhóm Dân Chủ như Lê Chí Quang, Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ B́nh cùng các vị lăo thành cách mạng như Phạm Quế Dương, Trần Khuê, Trần Dũng Tiến... đă đồng thanh tố cáo Đảng Cộng Sản phản bội Tổ Quốc.
Để trả đũa Đảng Cộng Sản đă thẳng tay đàn áp:
* Tháng 11- 2002, họ kết án Lê Chí Quang 4 năm tù về tội tuyên truyền chống nhà nước sau khi viết bài “Hăy Cảnh Giác Bắc Triều!”
Tiếp theo đó Đảng CS c̣n truy tố và kết án 3 người về tội gián điệp:
* Tháng 12-2002 Nguyễn Khắc Toàn bị kết án 12 năm tù v́ đă tổ chức những vụ khiếu nại khiếu kiện, mít tinh biểu t́nh tại Hà Nội để đ̣i lại ruộng đất cho nông dân hai miền Nam Bắc;
* Tháng 6-2003 Phạm Hồng Sơn bị kết án 13 năm tù (sau giảm c̣n 5 năm) v́ đă dịch cuốn “Thế Nào Là Dân Chủ?” từ mạng lưới thông tin của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ;
* Tháng 12-2003 Nguyễn Vũ B́nh bị kết án 7 năm tù v́ đă gởi bản điều trần đến Quốc Hội Hoa Kỳ tố cáo những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam cùng đ̣i thực thi chế độ đa đảng, và đ̣i thành lập Đảng Tự Do Dân Chủ đối lập với Đảng CS.
Ngoài ra Đảng CS c̣n truy tố thêm 7 người về tội gián điệp, nhưng sau đă cải tội danh thành lợi dụng quyền tự do dân chủ:
* Tháng 11-2003, 3 người cháu của Linh Mục Nguyễn Văn Lư, Nguyễn Vũ Việt và Nguyễn Trực Cường bị phạt 32 tháng tù, và Nguyễn Thị Hoa bị 4 tháng 8 ngày tù v́ đă tàng trữ các tài liệu nhân quyền và cung cấp cho người Việt hải ngoại những tin tức về vụ các Phật tử chuẩn bị đón Ḥa Thượng Thích Huyền Quang từ Quảng Ngăi vào Saigon;
* Cũng trong tháng này Trần Dũng Tiến bị phạt 10 tháng tù v́ đă đích danh tố cáo Đỗ Mười và Lê Đức Anh bao che tham nhũng;
* Tháng 7-2004 Phạm Quế Dương và Trần Khuê, hai phát ngôn viên của Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng và Nhóm Dân Chủ đă bị phạt 19 tháng tù.
* Cũng trong tháng này Nguyễn Đan Quế bị phạt 30 tháng tù v́ đă tố cáo Đảng CS giữ độc quyền thông tin.
* Và trong tháng 11-2004 và tháng 4-2005 Mục Sư Nguyễn Hồng
Quang bị kết án 3 năm tù về tội “ngăn cản nhân viên công lực hành sự” thay v́ tội lợi dụng quyền tự do tôn giáo hay tội gián điệp. 5 đồng sự là các Truyền Đạo Phạm Ngọc Thạch bị phạt 2 năm tù, Lê Thị Hồng Liên và Nguyễn Văn Phương mỗơi người 1 năm tù, và 2 anh em Nguyễn Hiếu Nghĩa và Nguyễn Thành Nhân mỗi người 9 tháng tù.
Trước đó 2 tháng, ngày 15/9/2004, Chính Phủ Hoa Kỳ đă liệt kê Việt Nam vào danh sách các quốc gia cần phải đặc biệt quan tâm, v́ đă thường xuyên và thô bạo vi phạm quyền tự do tôn giáo. Muốn tránh tiếng đàn áp tôn giáo, Viện Kiểm Sát đă truy tố các giáo sĩ và truyền đạo Tin Lành về tội thường phạm cưỡng ép “chống người thi hành công vụ”.
Tổng kết lại sau vụ Đại Khủng Bố ngày11-9-2001, trong 3 năm, từ tháng 10-2001 đến tháng 11-2004, Ṭa Án Việt Nam đă truy tố và kết án 18ø tù nhân tôn giáo và tù nhân chính trị bằng những tội danh giả tạo bịa đặt, và cưỡng ép lố bịch.

III. THẬP DIỆN MAI PHỤC
Từ sau cuộc Cách Mạng Đông Âu năm 1989 và Phong Trào Giải Thể Cộng Sản tại Liên Bang Sô Viết năm 1991, Đảng Cộng Sản Việt Nam đă gia tăng đàn áp đối lập bằng công an, ṭa án và luật pháp.
V́ không được quyền tranh luận trước ṭa, từ năm 1991 cho đến nay,
thay mặt Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền, chúng tôi đă đệ tŕnh quốc dân những bản biện minh trạng để bào chữa cho 22 tù nhân lương tâm. Ngoài ra chúng tôi c̣n công bố bản Thất Điều Trần để biện hộ chung cho các bị can bị bắt giữ về tội gián điệp lạm phát mệnh danh là dịch gián điệp. V́ gián điệp là một tội danh cưỡng ép lố bịch nên sau này ṭa án đă phải cải tội danh thành “lợi dụng quyền tự do dân chủ”. Đây lại là một tội danh bịa đặt giả tạo không t́m thấy trong các bộ h́nh luật của các quốc gia dân chủ văn minh.
Trong phần kết luận bản Thất Điều Trần chúng tôi nhận định rằng ngày nay Cộng Sản sợ 7 điều (Cộng Sản Hữu Thất Cụ). 7 điều Cộng Sản sợ chính là 7 mặt trận đấu tranh của chúng ta để giải thể Cộng Sản và xây dựng Dân Chủ.
1) Cộng Sản sợ internet, sợ tin tức, sợ ư kiến: Chúng ta phát động mặt trận truyền thông.
2) Cộng Sản sợ dư luận quốc tế, sợ mất chính nghĩa, sợ mất viện trợ đầu tư: Chúng ta phát động mặt trận quốc tế vận.
3) Cộng Sản sợ đối lập chính trị: Chúng ta phát động phong trào tổ chức, phát triển và kết hợp các lực lượng dân chủ ở trong nước và hải ngoại, đồng thời phối hợp đấu tranh giữa trong và ngoài.
4) Cộng Sản sợ sự thật. Họ sợ sự thật lịch sử v́ họ không có công giành độc lập và không có công thống nhất đất nước. (V́ Việt Nam đă được độc lập và thống nhất từ 1949 chiếu Hiệp Định Eùlysée). Ngoài ra họ c̣n phản bội đồng bào trong các mục tiêu tự do dân chủ và mưu cầu hạnh phúc.
Cộng Sản sợ sự thật xă hội, v́ chế độ của họ vừa độc tài tham nhũng vừa bất công bất lực: Chúng ta phát động mặt trận truyền bá sự thật, phục hồi sự thật lịch sử tại quốc tế và quốc nội, để giành chính nghĩa tự do dân chủ, hậu thuẫn quần chúng và hậu thuẫn quốc tế.
5) Cộng Sản sợ tự do như tự do tư tưởng, tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do thông tin, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do lập đảng, tự do tuyển cử v...v...: Chúng ta phát động mặt trận đấu tranh đ̣i tôn trọng và thực thi những quyền tự do căn bản của người dân được ghi trong hiến pháp và trong Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị.
6) Cộng Sản sợ dân chủ. Họ đă kết án Phạm Hồng Sơn 5 năm tù chỉ v́ đă phổ biến những kiến thức dân chủ của nhân loại văn minh: Chúng ta phát động mặt trận truyền bá dân chủ, phổ biến ư thức dân chủ và những kỹ thuật pháp lư tiến tới việc thiết lập một chế độ dân chủ pháp trị, dân chủ đại nghị, dân chủ đa đảng.
7) Cộng Sản sợ nhân quyền: Chúng ta phát động mặt trận truyền bá
nhân quyền, đấu tranh đ̣i phóng thích các tù nhân lương tâm, đ̣i thực thi nhân quyền và phản kháng những vi phạm nhân quyền.
Ngoài 7 mặt trận nói trên, chúng ta c̣n phát động 3 mặt trận: mặt trận tự do tôn giáo, mặt trận bảo vệ chủ quyền lănh thổ và mặt trận luật pháp ṭa án.
8) Mặt trận tự do tôn giáo đấu tranh đ̣i phóng thích các tù nhân tôn giáo đă bị giam giữ hay quản thúc độc đoán, đ̣i lại quyền sinh hoạt tự trị cho các giáo hội, và đ̣i lại các cơ sở tài sản của giáo hội để hoằng dương đạo pháp về văn hóa giáo dục và từ thiện nhân đạo.
9) Mặt trận bảo vệ chủ quyền lănh thổ tố cáo phe lănh đạo Cộng Sản phản bội Tổ Quốc bằng cách nhượng đất biên giới và bán nước Biển Đông cho Trung Quốc; phủ nhận Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung, Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ và Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá; chống chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc, và đấu tranh bảo vệ chủ quyền lănh hải của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
10) Mặt trận luật pháp ṭa án là trung tâm phối hợp các mặt trận đấu tranh để hóa giải vơ khí đàn áp khủng bố của Cộng Sản.V́ ngày nay với sự thiết lập Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế, 3 loại đàn áp khủng bố dă man nhất là thủ tiêu cá nhân, tàn sát tập thể và lao động cải tạo sẽ cấu thành những tội chống nhân loại thuộc thẩm quyền Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế. Do đó ngày nay luật pháp ṭa án là vơ khí chiến lược căn bản của Cộng Sản để đàn áp đối lập và củng cố chính quyền.

Trong các vụ án gián điệp Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc Toàn và Nguyễn Vũ B́nh có sự phối hợp giữa mặt trận luật pháp ṭa án với mặt trận quốc tế vận và mặt trận truyền thông.
Trong phong trào phản kháng những vụï giam giữ hay quản thúc độc
đoán các nhà lănh đạo tôn giáo như Ḥa Thượng Thích Huyền Quang, Ḥa Thượng Thích Quảng Độ, Linh Mục Nguyễn Văn Lư, Mục Sư Nguyễn Hồng Quang, Đạo Trưởng Lê Quang Liêm v...v... có sự phối hợp giữa mặt trận luật pháp ṭa án và mặt trận tự do tôn giáo.
Trong phong trào phản kháng vụ kết án Lê Chí Quang, Phạm Quế Dương và Trần Khuê có sự phối hợp giữa mặt trận luật pháp ṭa án và mặt trận bảo vệ chủ quyền lănh thổ, chống nhượng đất bán nước và chống chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc.

ƯỚC VỌNG DIỄN BIẾN H̉A B̀NH
Trong sách lược Thập Diện Mai Phục chúng ta chủ trương đấu tranh 10 mặt để giải thể Cộng Sản và xây dựng Dân Chủ. Trong sách lược này chúng ta không đề cập đến diễn biến ḥa b́nh.
Ngày nay Hoa Kỳ và các đồng minh muốn phát triển các tương quan ngoại giao, kinh tế và văn hóa với Hà Nội để hy vọng thực hiện lộ tŕnh diễn biến ḥa b́nh, cho Việt Nam hội nhập vào cộng đồng các quốc gia dân chủ trên thế giới.
Đó cũng là ước vọng của chúng ta.
Mọi người kỳ vọng rằng, với sự phát triển kinh tế thị trường, giao lưu văn hóa và trao đổi tin tức ư kiến, rồi đây dân trí sẽ mở mang, đời sống kinh tế của người dân sẽ thoát khỏi sự kiềm tỏa của nhà nước, và ư thức dân chủ sẽ khai thông kỷ nguyên ḥa b́nh và tiến bộ.
Kinh nghiệm Đông Âu cho biết, nhờ có trao đổi tin tức ư kiến, người dân lần lần hiểu rơ bản chất của Cộng Sản. Và khi họ đă biết rơ mặt thật Cộng Sản, th́ không c̣n ai tha thiết bảo vệ chế độ nữa, và chế độ đă tiêu vong. Tại Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc và Bảo Gia Lợi, chế độ Cộng Sản đă bị giải thể bằng diễn biến ḥa b́nh.
Điều đáng lưu ư là các nhà lănh đạo Cộng Sản Âu Châu thường có tinh thần thể thao phục thiện. Sau những cuộc tổng tuyển cử tự do khi thấy người dân không c̣n tín nhiệm chế độ nữa th́ họ đă lặng lẽ rút lui.
Việc này sẽ không xảy ra tại Việt Nam.
V́ những người lănh đạo Cộng Sản Việt Nam không suy nghĩ và hành động như những người Cộng Sản Âu Châu. Họ không bao giờ dám tổ chức trưng cầu dân ư hay tuyển cử tự do để biết rơ nguyện vọng của người dân. Thay v́ có tinh thần thể thao phục thiện, họ lại bất phục ngoan cố. Thay v́ ngay thẳng bộc trực, họ lại ngụy trang dối trá. Thay v́ công bằng trọng pháp, họ lại bao che tham nhũng. Họ không phải là những người yêu nước và không đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi của đảng phái. Họ chỉ giả nhân giả nghĩa, lợi dụng tài sản quốc gia và các ngân khoản viện trợ để trang bị bộ máy công an nhằm đàn áp đối lập và củng cố chính quyền.
Hơn nữa họ rất sợ giao lưu văn hóa và trao đổi tin tức ư kiến với thế giới dân chủ. Họ chỉ lợi dụng giao lưu văn hóa một chiều để tuyên truyền dối trá cho cái gọi là “sự nghiệp giải phóng dân tộc” và “sự nghiệp đổi mới” nhằm tạo huyền thoại cho Hồ Chí Minh, và gây uy tín cho Đảng Cộng Sản được độc quyền lănh đạo quốc gia.
Như vậy nếu có đổi mới th́ cũng chỉ là thay đổi về h́nh thức, chứ không thay đổi về thực chất.
Trong điều kiện này, nếu chúng ta chỉ kỳ vọng vào diễn biến ḥa b́nh, mà không hy sinh tranh đấu, th́ đến năm 2015 - nghĩa là 70 năm sau khi Cộng Sản cướp chính quyền - xă hội của chúng ta cũng sẽ không bằng xă hội Miền Nam đầu thập niên 1970.
Do đó phương châm hành động của chúng ta vẫn là:
Hăy tự giúp ḿnh rồi Trời sẽ giúp ta.
Hăy hy sinh và chiến đấu rồi đồng minh sẽ giúp ta.
Diễn biến ḥa b́nh chỉ là một ước vọng, không phải là sách lược.

Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

 

Xin vui ḷng liên lạc với  butvang@yahoo.com  về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương
Copyright © 2004 Anh Duong Online
Last modified: 08/10/06