CON
ĐƯỜNG QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG
NHỮNG KHÓ KHĂN PHẢI KHẮC PHỤC
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
Dầu sao chúng ta ư thức rằng con đường quang phục quê hương c̣n lắm chông
gai và giải thể CS là một việc thiên nan vạn nan. Hơn nữa chúng ta sẽ gïặp
nhiều khó khăn hơn các dân tộc Đông Âu.
V́ người dân Âu Châu thường có tinh thần thể thao phục thiện, trong khi phe
lănh đạo CS Việt Nam lại bất phục ngoan cố.
Người dân Âu Châu thường ngay thẳng bộc trực, trong khi phe lănh đạo CS Việt
Nam lại ngụy trang dối trá.
Người dân Âu Châu thường có tinh thần công bằng trọng pháp, trong khi phe
lănh đạo CS Việt Nam lại bao che tham nhũng.
Đó là chỗ khó khăn của chúng ta.
Trong cuộc chiến đấu này chúng ta phải t́m hiểu những nhược điểm của đối
phương để khai thác, và những vơ khí của đối phương để hóa giải.
Những nhược điểm của CS là: độc tài, tham nhũng, bất công, bất lực, thường
xuyên vi phạm nhân quyền và trắng trợn vi phạm nhân quyền.
Hai vơ khí chiến lược của CS là: tuyên truyền dối trá và đàn áp khủng bố.
Tuyên truyền dối trá và đàn áp khủng bố là hai vơ khí chiến lược của
Đảng CS để cướp chính quyền và củng cố chính quyền. Đây là một cặp song cổ
kiếm phải sử dụng đồng thời, mất một là mất tất cả. Nếu chỉ có tuyên truyền
đối trá, mà không có đàn áp khủng bố, th́ CS sẽ tiêu vong. Trái lại nếu chỉ
có đàn áp khủng bố, mà không thể tuyên truyền dối trá được nữa, th́ CS cũng
sẽ bị giải thể.
I. TUYÊN TRUYỀN DỐI TRÁ.
1) Về mục tiêu độc lập thống nhất
Trong cuộc đấu tranh giành độc lập, Đảng CS đă lồng cách mạng CS trong chiêu
bài giải phóng dân tộc chống chế độ thuộc địa. Họ đă dùng ngụy chủ nghĩa dân
tộc để khai thác ḷng yêu nước của hàng triệu thanh niên nam nữ Việt Nam
trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương.
Về mặt chủ thuyết, trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản, Đảng CS phủ
nhận chủ nghĩa dân tộc. Họ không quan niệm độc lập quốc gia là một mục tiêu
chiến lược, một cứu cánh tối hậu phải tranh thủ với bất cứ giá nào, với bất
cứ hy sinh nào, kể cả việc hy sinh những quyền lợi riêng tư của đảng phái.
Đảng CS chỉ quan niệm độc lập quốc gia như một chiêu bài, một phương tiện,
hay một sách lược để đạt được mục tiêu chiến lược là cướp chính quyền. Họ
phủ nhận bất cứ nền độc lập nào không cho họ độc quyền lănh đạo quốc gia. Do
đó, họ đă phủ nhận nền độc lập và thống nhất quốc gia do Hiệp Định Élysée
trao trả cho Việt Nam năm 1949. Và họ tiếp tục phát động chiến tranh vơ
trang trong 40 năm – từ 1949 đến 1989 – để cướp chính quyền và bành trướng
chủ nghĩa bá quyền.
Từ 1949 Chiến tranh Việt Nam không c̣n là chiến tranh giải phóng dân tộc, mà
là chiến tranh ư thức hệ giữa Quốc Tế CS và Thế Giới Dân Chủ (như Chiến
Tranh Triều Tiên).
Sau khi thôn tính lục địa Trung Hoa năm 1949, mục tiêu chiến lược của Quốc
Tế CS là nhuộm đỏ 2 bán đảo Đông Dương và Triều Tiên. Tháng 6, 1950 với sự
yểm trợ của Liên Xô và Trung Quốc, Bắc Hàn đem quân xâm lăng Nam Hàn. Từ đó
chiến tranh ư thức hệ bộc phát giữa Quốc Tế CS và Thế Giới Dân Chủ.
Kinh nghiệm dân gian cho biết nơi nào trâu ḅ húc nhau th́ ruồi muỗi chết: 3
triệu người đă hy sinh thân sống tại Triều Tiên, 3 triệu thanh niên nam nữ
đă hy sinh thân sống tại Việt Nam, và 2 triệu người Cao Miên đă bị tàn sát,
không phải để giành độc lập cho quốc gia mà để cho Đảng CS có cơ hội cướp
chính quyền.
V́ Đảng CS Đông Dương phủ nhận nền độc lập do Pháp trao trả cho 3 quốc gia
Đông Dương năm 1949, nên 3 cuộc chiến tranh Đông Dương đă xẩy ra, và Đảng CS
Đông Dương phải chịu trách nhiệm về cái chết của 5 triệu người tại Đông
Dương.
Bằng giả nhân giả nghĩa, ngụy trang và dối trá, Đảng CS đă dùng ngụy chủ
nghĩa dân tộc để giành chính nghĩa và cướp chính quyền.
Ngụy trang đi liền với dối trá.
Đảng CS tuyên truyền rằng Pháp đem quân sang Việt Nam để tái lập chế độ
thuộc địa. Đây chỉ là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. V́ từ sau Thế
Chiến II, Pháp không chủ trương tái lập các thuộc địa tại Á Châu. Và năm
1946 Pháp đă kư hai hiệp ước với Syrie và Liban để trả độc lập cho 2 quốc
gia này. (Cũng nên ghi nhận rằng Hồ Chí Minh đă kư Hiệp Ước Sainteny tháng
3-1946 cho 15 ngàn quân Pháp sang đồn trú tại Việt Nam).
Tuy nhiên Pháp và phe Dân Chủ Tây Phương không chịu trao Đông Dương cho Đảng
CS Đông Dương, v́ họ không muốn Stalin mở rộng Bức Màn Sắt từ Đông Âu qua
Đông Á. Do đó từ 1947, Pháp đă thương nghị với phe Quốc Gia Việt Nam để trả
độc lập cho Việt Nam. Năm 1947, sau khi kư Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp
đă chính thức đăng kư 3 nước Đông Dương là những quốc gia độc lập tại Liên
Hiệp Quốc (xin coi Everyone’s United Nations 1986, trang 332).
Và tháng 3, 1949 tại Paris, Tổng Thống Vincent Auriol đă kư HIỆP ĐỊNH ÉLYSÉE
với Quốc Trưởng Bảo Đại để trả độc lập cho Việt Nam. 4 tháng sau, tháng 7,
1949, Tổng Thống Auriol lại kư Hiệp Ước với Quốc Vương Sisavangvong để trả
độc lập cho Ai Lao. Và 4 tháng sau nữa, tháng 11,1949 Tổng Thống Auriol lại
kư Hiệp Ước với Quốc Vương Sihanouk để trả độc lập cho Cao Miên “theo tinh
thần Hiệp Định Élysée”.
Như vậy, sự thật lịch sử đă chứng minh rằng, từ sau Thế Chiến II, tại Á
Châu, chế độ thuộc địa đă cáo chung để nhường chỗ cho chế độ liên hiệp.
Chiếu Hiệp Định Élysée 1949, Việt Nam và Pháp có nghĩa vụ an ninh hỗ tương.
Từ 1949, quân đội Pháp chiến đấu tại Việt Nam với tư cách quân đội Liên Hiệp
Pháp, để bảo vệ biên thùy của Việt Nam đồng thời là biên thùy của Liên Hiệp
Pháp và của Thế Giới Dân Chủ. Trong bài diễn văn nhậm chức tại Quốc Hội Hoa
Kỳ tháng giêng 1953, Tổng Thống Eisenhower có nói: “Người Pháp chiến đấu tại
Việt Nam và người Mỹ chiến đấu tại Triều Tiên cùng theo một mục đích như
nhau.” (bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ).
Từ 1955, trong kế hoạch thôn tính miền Nam, Đảng CS lại tuyên truyền rằng
Hoa Kỳ đem quân sang để thống trị Miền Nam.
Đó cũng là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. V́ từ hai thập niên 1950 và
1960, Hoa Kỳ đem quân tham chiến tại Đại Hàn và Việt Nam, không phải để
thống trị hai nước này, mà để bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ.
Về việc giải thể đế quốc, Hoa Kỳ đă đi tiền phong trong việc giải phóng
thuộc địa và đă trả độc lập cho Phi Luật Tân từ 1946. (Phi Luật Tân đă được
tự trị từ 1935).
Nói tóm lại, trong cuộc đấu tranh giành độc lập, Đảng CS đă dùng ngụy chủ
nghĩa dân tộc để giành chính nghĩa và cướp chính quyền. Họ đă phủ nhận nền
độc lập và phá hoại nền thống nhất do những người Quốc Gia yêu nước đă tranh
thủ được từ 1949. Và hai cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài từ 1949 đến 1975
là những cuộc chiến tranh vô ích, vô lư và vô nghĩa.
Đại hạnh của Ấn Độ là có một Gandhi theo chủ nghĩa dân tộc.
Đại bất hạnh của Việt Nam là có một Nguyễn Ái Quốc theo chủ nghĩa quốc tế vô
sản.
Sau vụ Sô Viết Nghệ Tĩnh, đầu thập niên 1930, Quốc Tế Cộng Sản đă phê b́nh
gay gắt Đảng Cộng Sản Đông Dương là ‘’chưa nhận thức rơ tính chất nguy hiểm
của chủ nghiă dân tộc cải lương, không đấu tranh chống chủ nghiă dân tộc cải
lương. V́ chủ nghĩa dân tộc cải lương là một lực lượng hết sức nguy hiểm
nhằm phá hoại phong trào cách mạng vô sản. Và độc quyền lănh đạo của giai
cấp vô sản sẽ không đượïc thực hiện nếu không xoá bỏ hoàn toàn chủ nghĩa dân
tộc cải lương. Bản thân Đảng phải giáo dục và kiểm tra hàng ngũ bằng cuộc
đấu tranh thường xuyên với chủ nghiă dân tộc cải lương, coi đó là h́nh thức
phản cách mạng của giai cấp tư sản. Không làm mất uy tín của chủ nghiă dân
tộc cải lương th́ cách mạng ruộng đất và cách mạng phản đế không thể thắng
được.”
Cũng trong thời gian này, Đảng Cộng Sản đă cảnh giác các cán bộ đảng viên
‘’chớ hiểu lầm rằng ta kỷ niệm Yên Báy là ta tán đồng chủ nghĩa dân tộc. Ta
nên nhân dịp kỷ niệm này để giăi tỏ trước mặt đại quần chúng công nông trong
toàn xứ biết rằng chủ nghĩa Cộng Sản và chủ nghĩa Dân Tộc là một trời một
vực và không bao giờ hai chủ nghĩa ấy có thể dung hợp được’’ơ.
Trong khi Quốc Tế Cộng Sản lên án Gandhi là tay sai của Đế Quốc Anh theo chủ
nghiă dân tộc cải lương, th́ Hồ Chí Minh cũng phê phán Phan Chu Trinh là
“chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Điều đó là sai lầm, chẳng khác
ǵ đến xin giặc rủ ḷng thương.’’ơ(Trần Dân Tiên)
Đó là quan niệm của Đảng Cộng Sản về chủ nghĩa dân tộc. Tuy nhiên sau này Hồ
Chí Minh đă giảo hoạt và ngụy trang dưới chiêu bài giải phóng dân tộc và
dùng chủ nghĩa dân tộc như một sách lược để giành chính nghĩa và cướp chính
quyền.
Trong lời tựa cuốn Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, một kẻ ngụy trang chủ nghĩa
dân tộc của Tưởng Vĩnh Kính, Hoàng Lư Lục nhận định rằng Hồ Chí Minh đă
phỏng theo sách lược ngụy chủ nghĩa dân tộc của Mao Trạch Đông:
‘’Chủ nghiă CS mà hưng khởi lên được, một mặt nương nhờ vào làn sóng chủ
nghiă dân tộc, nhưng mặt khác lại âm mưu tiêu diệt thế lực chủ nghiă dân
tộc. Trong khi Trung Cộng khoác áo chủ nghiă dân tộc để giành chính nghiă,
rồi lợi dụng chiến tranh Trung-Nhật để tăng cường lực luợng, thiết lập khu
giải phóng th́ Hồ Chí Minh cũng đề ra những mặt trận dân tộc (Việt Minh),
mặt trận liên hiệp (Liên Việt), mặt trận giải phóng (Miền Nam), để đẩy tới
chiến tranh vơ trang và phá hoại các đảng phái quốc gia theo chủ nghiă dân
tộc. Ông theo nguyên tắc cơ bản là bất cứ điều ǵ phù hợp với quyền lợi của
ông, ông sẽ không ngần ngại lợi dụng, bất cứ cái ǵ làm trở ngại cho sự phát
triển lực lượng của ông, ông sẽ dùng mọi cách để bài trừ hay tiêu diệt. Ông
lớn mạnh không phải do sự quảng bá chủ nghĩa CS. Ông dùng rất nhiều tên giả,
tổ chức giả, lấy chủ nghĩa dân tộc để ngụy trang nhằm mục tiêu cướp chính
quyền. Tất cả hành động của ông chỉ để tổ chức và phát triển đảng. Đến như
Việt Nam có đạt được độc lập hay không th́ chỉ là vấn đề thứ yếu mà thôi”.
Hồ Chí Minh đă suốt đời vận dụng chủ nghĩa dân tộc. Tuy nhiên trong những
ngày cuối đời khi sắp về chầu tổ Cộng Sản, trong chúc ngôn ông không lư vấn
đến cội nguồn dân tộc và nguồn gốc tổ tiên, ông mong ước được về với Các Mác
và Lê Nin bên kia thế giới.
Vậy mà ngày nay trong chiến địch Đổi Mới, Đảng Cộng Sản một lần nữa lại vận
dụng chủ nghĩa dân tộc, truyền thống dân tộc, văn hóa dân tộc, bản sắc dân
tộc và nếp sống ân nghĩa của dân tộc:
“Đền Hùng và Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh biểu tượng cho sự quí mến cội nguồn
và nếp sống ân nghĩa của dân tộc.” Đó là khẩu hiệu tuyên truyền chiến lược
mới nhất của Đảng CS.
Đối với họ, Hồ Chí Minh, người có công lập Đảng, có thể sánh ngang với Hùng
Vương, người có công lập Quốc. Trong giai đoạn thoái trào, Đảng CS đă dùng
huyền thoại Hồ Chí Minh làm cái phao cấp cứu.
2. Về mục tiêu tự do dân chủ.
Đảng CS hứa hẹn rằng, sau khi ḥa b́nh văn hồi, họ sẽ thiết lập một chế độ
dân chủ gấp triệu lần chế độ dân chủ Tây Phương. Đây cũng là một luận điệu
tuyên truyền dối trá.
Về chủ thuyết, Đảng CS không chủ trương thực thi tự do dân chủ cho người
dân. Mục tiêu chiến lược của họ là thiết lập một chế độ độc tài vô sản, hay
đúng hơn, một chế độ độc tài của Đảng để thống trị vô sản và nhân dân. Họ
không tôn trọng bất cứ một quyền nào trong số 26 dân quyền căn bản như tự do
thân thể, tự do cư trú và đi lại, tự do tôn giáo, tự do tư tưởng, tự do văn
hóa, tựï do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do lập đảng, tự do
tuyển cử v...v...
Kết quả là sau 60 năm cướp chính quyền, Đảng CS đă biến Việt Nam thành một
trong những nước phản dân chủ nhất thế giới, kém cả Cao Miên. V́ tại quốc
gia này tương đối có tự do tôn giáo, tự do báo chí và có chế độ đa đảng:
Đảng Nhân Dân của Hunsen, Đảng Bảo Hoàng của Ranarridh và Đảng Quốc Gia của
Rainsy. Ngày nay Mông Cổ cũng theo chế độ lưỡng đảng trong khi Việt Nam vẫn
giữ chế độ độc đảng và độc quyền lănh đạo của Đảng CS.
3. Về mục tiêu mưu cầu hạnh phúc.
Đảng CS hứa hẹn sẽ thực thi cải cách ruộng đất để chia ruộng
cho người cày, và đem lại công bằng xă hội cho người dân. Thật ra đây chỉ là
một cuộc đấu tranh giai cấp để tiêu diệt trí thức và nông dân tiểu tư sản.
Đầu thập niên 1950, trong 5 đợt đấu tố cải cách ruộng đất, Đảng CS đă sát
hại hơn hai trăm ngàn trí thức và nông dân tiểu tư sản được đôn lên hàng địa
chủ. Chỉ cần có 2 hecta ruộng mà không tự tay canh tác, cũng bị đấu tố, tịch
thâu ruộng đất, tài sản và nhà cửa. Năm 1956, họ chia cho bần cố nông mỗi
người chừng 2 sào ruộng (mỗi sào là 360m2). Để rồi 2 năm sau, năm 1958, họ
lại trở mặt thâu hồi lại tất cả ruộng đất đă phát cho bần cố nông trong
chính sách tập sản hóa ruộng đất hay hợp tác hóa nông nghiệp. Theo chủ
thuyết, Đảng CS không công nhận quyền tư hữu và không chủ trương chia ruộng
cho tư nhân. Do đó “người cày có ruộng” là một khẩu hiệu tuyên truyền dối
trá trắng trợn nhất của Đảng CS.
Tới Thế Chiến II, Việt Nam là một trong những quốc gia giàu thịnh nhất Đông
Nam Á được mệnh danh là “bao lơn Thái B́nh Dương”, Saigon là “Ḥn Ngọc Viễn
Đông”. Vậy mà ngày nay sau 60 năm CS cướp chính quyền, Việt Nam trở thành
một trong 10 nước nghèo đói nhất thế giới, lợi tức b́nh quân mỗi đầu người
tại Việt Nam chỉ được một mỹ kim một ngày. Trong khi đó tại Phi Luật Tân là
3 mỹ kim, tại Thái Lan là 6 mỹ kim, tại Mă Lai là 10 mỹ kim, tại Đại Hàn là
25 mỹ kim, tại Đài Loan là 40 mỹ kim, và tại Tân Gia Ba là 85 mỹ kim. Đặc
biệt là tại Congo, một cựu thuộc địa của Pháp tại Phi Châu, lợi tức b́nh
quân mỗi đầu người cũng gấp đôi Việt Nam. (xin coi Britannica Book of the
Year từ năm 2001)
Nói tóm lại, từ 60 năm nay, Đảng CS đă dùng chiêu bài giải phóng dân tộc và
giải phóng lao động để giành chính nghĩa và cướp chính quyền. Vơ khí chiến
lược số 1 của họ là tuyên truyền dối trá.
Về mục tiêu độc lập thống nhất, họ dùng ngụy chủ nghĩa dân tộc.
Về mục tiêu tự do dân chủ, họ dùng ngụy chủ nghĩa dân chủ xă hội. Và ngày
nay Việt Nam c̣n kém xa Căm Bốt về mặt dân chủ.
Về mục tiêu mưu cầu hạnh phúc, họ dùng chính sách ngụy cải cách ruộng đất và
ngụy công bằng xă hội. Và ngày nay người dân Việt Nam c̣n nghèo đói hơn cả
người dân Congo.
Để chống lại sự tuyên truyền dối trá, chúng ta phát động phong trào truyền
bá sự thật lịch sử và sự thật xă hội để chứng minh rằng Đảng CS không có
công giành độc lập, và không có công thống nhất đất nước. Ngoài ra họ c̣n
phản bội đồng bào trong các mục tiêu tự do hạnh phúc và công bằng xă hội.
Trong cuốn Nhật Kư Rồng Rắn, Trần Độ đă vạch trần chính sách tuyên truyền
dối trá cố hữu của Đảng CS:
“Đặc điểm bao trùm của chế độ chính trị xă hội này là nói một đàng làm một
nẻo. Nói th́ dân chủ v́ dân, mà làm th́ chuyên chính phát xít, nghĩa là nói
dối, nói láo, lừa bịp, nói vậy mà không phải vậy. Đặc điểm này tạo ra một xă
hội dối lừa, lănh đạo dối lừa, Đảng dối lừa, cán bộ dối lừa, làm ăn giả dối,
bằng cấp giả dối, giáo dục giả dối, đến gia đ́nh cũng lừa dối... Các vị lănh
đạo nói nhiều điều tốt đẹp là nói theo dân mà thôi. Dân căm ghét tham nhũng
th́ lănh đạo ḥ hét “kiên quyết chống tham nhũng”. Dân yêu cầu dân chủ, [đổi
mới] th́ lănh đạo thêm chữ dân chủ, [đổi mới] vào khẩu hiệu [tuyên truyền]
chiến lược. Nhưng nói thêm chữ th́ chưa có ư nghĩa ǵ. V́ ta vốn nói một
đàng làm một nẻo. Người trí thức và người dân chỉ thấy những lời nói tốt đẹp
kia là vô nghĩa...”
II. ĐÀN ÁP KHỦNG BỐ.
Vơ khí chiến lược số 2 của CS là đàn áp khủng bố. Đây là một trong
hai song cổ kiếm phải sử dụng đồng thời, mất một là mất tất cả.
Nếu CS không thể tuyên truyền dối trá, nếu mọi người biết rơ mặt thật của CS
th́ không c̣n ai tha thiết bảo vệ chế độ nữa và CS sẽ tiêu vong. Trong
trường hợp này, đàn áp khủng bố sẽ mất hiệu lực.
Lịch sử đă chứng minh điều đó. Tại Đông Đức và Lỗ Ma Ni năm 1989, bộ máy
công an ḱm kẹp cũng rất hung dữ. Nó có sự dă man của mật vụ Gestapo thời
Hitler, và sự tàn ác của mật vụ KGB thời Stalin. Vậy mà khi người dân đă
biết rơ mặt thật của CS và đứng lên đ̣i Dân Tộc Tự Quyết th́ vơ khí đàn áp
không c̣n hiệu nghiệm nữa.
Tại Liên Xô cũng vậy. Để chống lại mưu toan đảo chánh ngày 19-8-1991 của phe
CS cực đoan, nhân dân đă đứng lên đ̣i giải thể CS. Quân đội xuất phát từ
nhân dân đă đứng về phía dân. Và công an mật vụ phải bó tay không dám bắn
vào đoàn người biểu t́nh.
5 bậc thang đàn áp khủng bố là: thủ tiêu cá nhân, tàn sát tập thể, học tập
cải tạo, ṭa án luật pháp, và quản chế hành chánh.
1) Thủ tiêu cá nhân:
Mặc dầu không ngừng kêu gọi đoàn kết quốc gia, Đảng CS đă thủ tiêu những
người quốc gia yêu nước có uy tín và hậu thuẫn v́ họ là những đối thủ nguy
hiểm của CS trên đường cướp chính quyền. Sau khi cướp được chính quyền năm
1945, họ đă thủ tiêu Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần văn Thạch, v...v...
(trong nhóm Tân Tả Phái); Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo,
Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà v...v... (trong các nhóm Lập Hiến); Đức Giáo Chủ
Huỳnh Phú Sổ (Ḥa Hảo); Trương Tử Anh(Đại Việt), Lư Đông Á (Duy Dân); Khái
Hưng, Nhượng Tống (Quốc Dân Đảng) v...v...
2) Tàn sát tập thể:
Đồng thời với thủ tiêu cá nhân, Đảng CS c̣n tàn sát tập thể.
Tàn sát tập thể v́ lư do tôn giáo, như việc sát hại các tín đồ Cao Đài và
Ḥa Hảo trong Chiến Tranh Đông Dương; tàn sát tập thể v́ lư do đảng phái như
việc sát hại các cán bộ đảng viên Quốc Dân Đảng, Đồng Minh Hội, Đại Việt,
Duy Dân v...v... từ thập niên 1940; tàn sát tập thể v́ lư do giai cấp như
việc sát hại 200.000 trí thức và nông dân tiểu tư sản trong 5 đợt đấu tố cải
cách ruộng đất trong thập niên 1950; tàn sát tập thể v́ lư do chính kiến,
như việc sát hại 5 ngàn người quốc gia tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân. Vụ
tàn sát tập thể Tết Mậu Thân của Đảng CS Việt Nam năm 1968 đă mở đường cho
vụ tàn sát tập thể 2 triệu người Cam Bốt của Đảng CS Khmer từ 1975.
3) Học tập cải tạo:
Cường độ đàn áp thứ ba là chính sách học tập cải tạo mà họ dịch là
re-education (cải huấn). Danh từ này tự nó đă dối trá. V́ các tù nhân chính
trị không phạm tội h́nh sự nào nên không cần phải cải huấn. Mặc dầu không
ngừng hô hào ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, từ 1975 Đảng CS đă bắt giam hằng
trăm ngàn quân cán chánh và trí thức văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Ḥa tại các
trại tập trung, người th́ 5, 7 năm, người th́ 15, 17 năm. Đây là những trại
lao động khổ sai và lao động cưỡng bách để đọa đầy thân xác và hủy diệt ư
chí của các tù nhân chính trị.
4) Ṭa án và luật pháp.
Thay v́ để ban phát công lư cho người dân và bảo vệ con người về sinh mạng,
tự do, danh dự và tài sản, ṭa án và luật pháp được sử dụng như những công
cụ đàn áp khủng bố để bắt giam độc đoán những người đấu tranh ôn ḥa cho tự
do, công lư, dân chủ và nhân quyền.
Từ 1975 họ đă truy tố:
a) Về tội âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân, và đă kết án Nguyễn
Khắc Chính 20 năm tù (giảm án từ tù chung thân năm 1976), Linh Mục Phạm Ngọc
Liên 20 năm tù năm 1987, Thượng Tọa Thích Tuệ Sĩ 20 năm tù (giảm án từ tử
h́nh năm 1988), Nguyễn Đan Quế 20 năm tù năm 1991, Đoàn Viết Hoạt 15 năm tù
năm 1993, Nguyễn Đ́nh Huy 15 năm tù năm 1995.
b) Về tội tuyên truyền chống chế độ và đă kết án 3 người con của cố Luật Sư
Trần Văn Tuyên: Trần Vọng Quốc 12 năm tù, Trần Tử Thanh 5 năm tù và Trần Tử
Huyền 3 năm tù năm 1988; Đoàn Thanh Liêm 12 năm tù năm 1992. Năm 1996 Lê
Hồng Hà, Hà Sĩ Phu và Nguyễn Kiến Giang đă bị kết án 2 năm tù, 1 năm tù và
15 tháng tù treo về tội tiết lộ bí mật nhà nước, thay v́ tội tuyên truyền
chống chế độ, dầu rằng họ đă công khai phủ định chế độ Cộng Sản.
c) Về tội phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia, và năm 1995 đă kết án Ḥa
Thượng Thích Quảng Độ 5 năm tù v́ đă tổ chức cứu trợ các nạn nhân lũ lụt tại
đồng bằng sông Cửu Long mà không có giấy phép của nhà nước. Trong năm này
Hoàng Minh Chính đă bị kết án 1 năm tù cũng về tội này.
5) Quản chế hành chánh.
Từ sau vụ án Lê Hồng Hà (1996), trong 5 năm không thấy có vụ án
chính trị nào. V́ từ năm1997 Đảng Cộng Sản đă ban hành quy chế quản chế hành
chánh để bắt giữ pḥng ngừa, quản thúc tại gia những người đối kháng, cấm họ
không được hành nghề, không được di chuyển, không được tiếp xúc với quần
chúng, không được trả lời phỏng vấn và không được tham gia chính quyền. Bằng
phương pháp này Đảng Cộng Sản đă biến đất nước thành một nhà tù lớn, trong
đó nhà nước không phải nuôi ăn các tù nhân.
Sau vụ Đại Khủng Bố ngày 11-9-2001, khi Hoa Kỳ và đồng minh c̣n đang bối
rối, Đảng Cộng Sản Việt Nam đă lợi dụng thời cơ, leo thang khủng bố từ bậc 5
(quản chế hành chánh) lên bậc 4 (ṭa án luật pháp).
* Một tháng sau, tháng 10-2001 họ đă kết án Linh Mục Nguyễn Văn Lư 15 năm tù
về 2 tội phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia và vi phạm quyết định quản
chế hành chánh v́ đă tố cáo Đảng CS đàn áp tôn giáo.
Cuối năm 2001 khi hay biết có sự nhượng đất biên giới và bán nước Biển Đông
cho Trung Cộng, các nhà trí thức trẻ trong Nhóm Dân Chủ như Lê Chí Quang,
Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ B́nh cùng các vị lăo thành cách
mạng như Phạm Quế Dương, Trần Khuê, Trần Dũng Tiến... đă đồng thanh tố cáo
Đảng Cộng Sản phản bội Tổ Quốc.
Để trả đũa Đảng Cộng Sản đă thẳng tay đàn áp:
* Tháng 11- 2002, họ kết án Lê Chí Quang 4 năm tù về tội tuyên truyền chống
nhà nước sau khi viết bài “Hăy Cảnh Giác Bắc Triều!”
Tiếp theo đó Đảng CS c̣n truy tố và kết án 3 người về tội gián điệp:
* Tháng 12-2002 Nguyễn Khắc Toàn bị kết án 12 năm tù v́ đă tổ chức những vụ
khiếu nại khiếu kiện, mít tinh biểu t́nh tại Hà Nội để đ̣i lại ruộng đất cho
nông dân hai miền Nam Bắc;
* Tháng 6-2003 Phạm Hồng Sơn bị kết án 13 năm tù (sau giảm c̣n 5 năm) v́ đă
dịch cuốn “Thế Nào Là Dân Chủ?” từ mạng lưới thông tin của Bộ Ngoại Giao Hoa
Kỳ;
* Tháng 12-2003 Nguyễn Vũ B́nh bị kết án 7 năm tù v́ đă gởi bản điều trần
đến Quốc Hội Hoa Kỳ tố cáo những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam cùng đ̣i thực
thi chế độ đa đảng, và đ̣i thành lập Đảng Tự Do Dân Chủ đối lập với Đảng CS.
Ngoài ra Đảng CS c̣n truy tố thêm 7 người về tội gián điệp, nhưng sau đă cải
tội danh thành lợi dụng quyền tự do dân chủ:
* Tháng 11-2003, 3 người cháu của Linh Mục Nguyễn Văn Lư, Nguyễn Vũ Việt và
Nguyễn Trực Cường bị phạt 32 tháng tù, và Nguyễn Thị Hoa bị 4 tháng 8 ngày
tù v́ đă tàng trữ các tài liệu nhân quyền và cung cấp cho người Việt hải
ngoại những tin tức về vụ các Phật tử chuẩn bị đón Ḥa Thượng Thích Huyền
Quang từ Quảng Ngăi vào Saigon;
* Cũng trong tháng này Trần Dũng Tiến bị phạt 10 tháng tù v́ đă đích danh tố
cáo Đỗ Mười và Lê Đức Anh bao che tham nhũng;
* Tháng 7-2004 Phạm Quế Dương và Trần Khuê, hai phát ngôn viên của Hội Nhân
Dân Chống Tham Nhũng và Nhóm Dân Chủ đă bị phạt 19 tháng tù.
* Cũng trong tháng này Nguyễn Đan Quế bị phạt 30 tháng tù v́ đă tố cáo Đảng
CS giữ độc quyền thông tin.
* Và trong tháng 11-2004 và tháng 4-2005 Mục Sư Nguyễn Hồng
Quang bị kết án 3 năm tù về tội “ngăn cản nhân viên công lực hành sự” thay
v́ tội lợi dụng quyền tự do tôn giáo hay tội gián điệp. 5 đồng sự là các
Truyền Đạo Phạm Ngọc Thạch bị phạt 2 năm tù, Lê Thị Hồng Liên và Nguyễn Văn
Phương mỗơi người 1 năm tù, và 2 anh em Nguyễn Hiếu Nghĩa và Nguyễn Thành
Nhân mỗi người 9 tháng tù.
Trước đó 2 tháng, ngày 15/9/2004, Chính Phủ Hoa Kỳ đă liệt kê Việt Nam vào
danh sách các quốc gia cần phải đặc biệt quan tâm, v́ đă thường xuyên và thô
bạo vi phạm quyền tự do tôn giáo. Muốn tránh tiếng đàn áp tôn giáo, Viện
Kiểm Sát đă truy tố các giáo sĩ và truyền đạo Tin Lành về tội thường phạm
cưỡng ép “chống người thi hành công vụ”.
Tổng kết lại sau vụ Đại Khủng Bố ngày11-9-2001, trong 3 năm, từ tháng
10-2001 đến tháng 11-2004, Ṭa Án Việt Nam đă truy tố và kết án 18ø tù nhân
tôn giáo và tù nhân chính trị bằng những tội danh giả tạo bịa đặt, và cưỡng
ép lố bịch.
III. THẬP DIỆN MAI PHỤC
Từ sau cuộc Cách Mạng Đông Âu năm 1989 và Phong Trào Giải Thể Cộng Sản tại
Liên Bang Sô Viết năm 1991, Đảng Cộng Sản Việt Nam đă gia tăng đàn áp đối
lập bằng công an, ṭa án và luật pháp.
V́ không được quyền tranh luận trước ṭa, từ năm 1991 cho đến nay,
thay mặt Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền, chúng tôi đă đệ tŕnh quốc dân
những bản biện minh trạng để bào chữa cho 22 tù nhân lương tâm. Ngoài ra
chúng tôi c̣n công bố bản Thất Điều Trần để biện hộ chung cho các bị can bị
bắt giữ về tội gián điệp lạm phát mệnh danh là dịch gián điệp. V́ gián điệp
là một tội danh cưỡng ép lố bịch nên sau này ṭa án đă phải cải tội danh
thành “lợi dụng quyền tự do dân chủ”. Đây lại là một tội danh bịa đặt giả
tạo không t́m thấy trong các bộ h́nh luật của các quốc gia dân chủ văn minh.
Trong phần kết luận bản Thất Điều Trần chúng tôi nhận định rằng ngày nay
Cộng Sản sợ 7 điều (Cộng Sản Hữu Thất Cụ). 7 điều Cộng Sản sợ chính là 7 mặt
trận đấu tranh của chúng ta để giải thể Cộng Sản và xây dựng Dân Chủ.
1) Cộng Sản sợ internet, sợ tin tức, sợ ư kiến: Chúng ta phát động mặt trận
truyền thông.
2) Cộng Sản sợ dư luận quốc tế, sợ mất chính nghĩa, sợ mất viện trợ đầu tư:
Chúng ta phát động mặt trận quốc tế vận.
3) Cộng Sản sợ đối lập chính trị: Chúng ta phát động phong trào tổ chức,
phát triển và kết hợp các lực lượng dân chủ ở trong nước và hải ngoại, đồng
thời phối hợp đấu tranh giữa trong và ngoài.
4) Cộng Sản sợ sự thật. Họ sợ sự thật lịch sử v́ họ không có công giành độc
lập và không có công thống nhất đất nước. (V́ Việt Nam đă được độc lập và
thống nhất từ 1949 chiếu Hiệp Định Eùlysée). Ngoài ra họ c̣n phản bội đồng
bào trong các mục tiêu tự do dân chủ và mưu cầu hạnh phúc.
Cộng Sản sợ sự thật xă hội, v́ chế độ của họ vừa độc tài tham nhũng vừa bất
công bất lực: Chúng ta phát động mặt trận truyền bá sự thật, phục hồi sự
thật lịch sử tại quốc tế và quốc nội, để giành chính nghĩa tự do dân chủ,
hậu thuẫn quần chúng và hậu thuẫn quốc tế.
5) Cộng Sản sợ tự do như tự do tư tưởng, tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự
do thông tin, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do lập đảng, tự do tuyển cử
v...v...: Chúng ta phát động mặt trận đấu tranh đ̣i tôn trọng và thực thi
những quyền tự do căn bản của người dân được ghi trong hiến pháp và trong
Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị.
6) Cộng Sản sợ dân chủ. Họ đă kết án Phạm Hồng Sơn 5 năm tù chỉ v́ đă phổ
biến những kiến thức dân chủ của nhân loại văn minh: Chúng ta phát động mặt
trận truyền bá dân chủ, phổ biến ư thức dân chủ và những kỹ thuật pháp lư
tiến tới việc thiết lập một chế độ dân chủ pháp trị, dân chủ đại nghị, dân
chủ đa đảng.
7) Cộng Sản sợ nhân quyền: Chúng ta phát động mặt trận truyền bá
nhân quyền, đấu tranh đ̣i phóng thích các tù nhân lương tâm, đ̣i thực thi
nhân quyền và phản kháng những vi phạm nhân quyền.
Ngoài 7 mặt trận nói trên, chúng ta c̣n phát động 3 mặt trận: mặt trận tự do
tôn giáo, mặt trận bảo vệ chủ quyền lănh thổ và mặt trận luật pháp ṭa án.
8) Mặt trận tự do tôn giáo đấu tranh đ̣i phóng thích các tù nhân tôn giáo đă
bị giam giữ hay quản thúc độc đoán, đ̣i lại quyền sinh hoạt tự trị cho các
giáo hội, và đ̣i lại các cơ sở tài sản của giáo hội để hoằng dương đạo pháp
về văn hóa giáo dục và từ thiện nhân đạo.
9) Mặt trận bảo vệ chủ quyền lănh thổ tố cáo phe lănh đạo Cộng Sản phản bội
Tổ Quốc bằng cách nhượng đất biên giới và bán nước Biển Đông cho Trung Quốc;
phủ nhận Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung, Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ và Hiệp Ước Hợp
Tác Nghề Cá; chống chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc, và đấu tranh bảo vệ chủ
quyền lănh hải của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
10) Mặt trận luật pháp ṭa án là trung tâm phối hợp các mặt trận đấu tranh
để hóa giải vơ khí đàn áp khủng bố của Cộng Sản.V́ ngày nay với sự thiết lập
Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế, 3 loại đàn áp khủng bố dă man nhất là thủ tiêu cá
nhân, tàn sát tập thể và lao động cải tạo sẽ cấu thành những tội chống nhân
loại thuộc thẩm quyền Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế. Do đó ngày nay luật pháp ṭa
án là vơ khí chiến lược căn bản của Cộng Sản để đàn áp đối lập và củng cố
chính quyền.
Trong các vụ án gián điệp Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc Toàn và Nguyễn Vũ B́nh
có sự phối hợp giữa mặt trận luật pháp ṭa án với mặt trận quốc tế vận và
mặt trận truyền thông.
Trong phong trào phản kháng những vụï giam giữ hay quản thúc độc
đoán các nhà lănh đạo tôn giáo như Ḥa Thượng Thích Huyền Quang, Ḥa Thượng
Thích Quảng Độ, Linh Mục Nguyễn Văn Lư, Mục Sư Nguyễn Hồng Quang, Đạo Trưởng
Lê Quang Liêm v...v... có sự phối hợp giữa mặt trận luật pháp ṭa án và mặt
trận tự do tôn giáo.
Trong phong trào phản kháng vụ kết án Lê Chí Quang, Phạm Quế Dương và Trần
Khuê có sự phối hợp giữa mặt trận luật pháp ṭa án và mặt trận bảo vệ chủ
quyền lănh thổ, chống nhượng đất bán nước và chống chủ nghĩa bá quyền Trung
Quốc.
ƯỚC VỌNG DIỄN BIẾN H̉A B̀NH
Trong sách lược Thập Diện Mai Phục chúng ta chủ trương đấu tranh 10 mặt để
giải thể Cộng Sản và xây dựng Dân Chủ. Trong sách lược này chúng ta không đề
cập đến diễn biến ḥa b́nh.
Ngày nay Hoa Kỳ và các đồng minh muốn phát triển các tương quan ngoại giao,
kinh tế và văn hóa với Hà Nội để hy vọng thực hiện lộ tŕnh diễn biến ḥa
b́nh, cho Việt Nam hội nhập vào cộng đồng các quốc gia dân chủ trên thế
giới.
Đó cũng là ước vọng của chúng ta.
Mọi người kỳ vọng rằng, với sự phát triển kinh tế thị trường, giao lưu văn
hóa và trao đổi tin tức ư kiến, rồi đây dân trí sẽ mở mang, đời sống kinh tế
của người dân sẽ thoát khỏi sự kiềm tỏa của nhà nước, và ư thức dân chủ sẽ
khai thông kỷ nguyên ḥa b́nh và tiến bộ.
Kinh nghiệm Đông Âu cho biết, nhờ có trao đổi tin tức ư kiến, người dân lần
lần hiểu rơ bản chất của Cộng Sản. Và khi họ đă biết rơ mặt thật Cộng Sản,
th́ không c̣n ai tha thiết bảo vệ chế độ nữa, và chế độ đă tiêu vong. Tại
Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc và Bảo Gia Lợi, chế độ Cộng Sản đă bị giải thể bằng
diễn biến ḥa b́nh.
Điều đáng lưu ư là các nhà lănh đạo Cộng Sản Âu Châu thường có tinh thần thể
thao phục thiện. Sau những cuộc tổng tuyển cử tự do khi thấy người dân không
c̣n tín nhiệm chế độ nữa th́ họ đă lặng lẽ rút lui.
Việc này sẽ không xảy ra tại Việt Nam.
V́ những người lănh đạo Cộng Sản Việt Nam không suy nghĩ và hành động như
những người Cộng Sản Âu Châu. Họ không bao giờ dám tổ chức trưng cầu dân ư
hay tuyển cử tự do để biết rơ nguyện vọng của người dân. Thay v́ có tinh
thần thể thao phục thiện, họ lại bất phục ngoan cố. Thay v́ ngay thẳng bộc
trực, họ lại ngụy trang dối trá. Thay v́ công bằng trọng pháp, họ lại bao
che tham nhũng. Họ không phải là những người yêu nước và không đặt quyền lợi
quốc gia lên trên quyền lợi của đảng phái. Họ chỉ giả nhân giả nghĩa, lợi
dụng tài sản quốc gia và các ngân khoản viện trợ để trang bị bộ máy công an
nhằm đàn áp đối lập và củng cố chính quyền.
Hơn nữa họ rất sợ giao lưu văn hóa và trao đổi tin tức ư kiến với thế giới
dân chủ. Họ chỉ lợi dụng giao lưu văn hóa một chiều để tuyên truyền dối trá
cho cái gọi là “sự nghiệp giải phóng dân tộc” và “sự nghiệp đổi mới” nhằm
tạo huyền thoại cho Hồ Chí Minh, và gây uy tín cho Đảng Cộng Sản được độc
quyền lănh đạo quốc gia.
Như vậy nếu có đổi mới th́ cũng chỉ là thay đổi về h́nh thức, chứ không thay
đổi về thực chất.
Trong điều kiện này, nếu chúng ta chỉ kỳ vọng vào diễn biến ḥa b́nh, mà
không hy sinh tranh đấu, th́ đến năm 2015 - nghĩa là 70 năm sau khi Cộng Sản
cướp chính quyền - xă hội của chúng ta cũng sẽ không bằng xă hội Miền Nam
đầu thập niên 1970.
Do đó phương châm hành động của chúng ta vẫn là:
Hăy tự giúp ḿnh rồi Trời sẽ giúp ta.
Hăy hy sinh và chiến đấu rồi đồng minh sẽ giúp ta.
Diễn biến ḥa b́nh chỉ là một ước vọng, không phải là sách lược.
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống