|
| |
Những
Vấn đề Thủy lợi ở Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam (5)
(Water Resources Problems in the Vietnam’s Mekong Delta – Part 5)
Kể từ năm 1975, một hệ thống thủy lợi qui mô đă được xây dựng trong toàn vùng
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) ở Việt Nam nhằm mục đích phát triển nhanh chóng
vùng đồng bằng trù phú nầy. Có thể nói hệ thống thủy lợi đó đă góp phần không
nhỏ trong việc phát triển kinh tế và xă hội của ĐBSCL và cho cả nước trong thời
gian qua; nhưng cũng chính nó đă phát sinh ra nhiều vấn đề, mà ảnh hưởng tiêu
cực càng ngày càng rơ nét, và có thể trở thành một lực cản cho việc phát triển
kinh tế và xă hội bền vững của ĐBSCL trong tương lai. Trong chương tŕnh Khoa
học và Môi trường tuần trước, Kỹ sư (KS) Nguyễn Minh Quang đă tŕnh bày những sự
kiện, mà theo Ông, là nguyên nhân trực tiếp của những vấn đề thủy lợi ở ĐBSCL
hiện nay. Tuần nầy, chúng tôi kính mời quư thính giả theo dơi tiếp cuộc trao đổi
với Ông. Cũng cần nhắc lại, KS Quang là một kỹ sư công chánh chuyên nghiệp
(professional engineer) của tiểu bang California và cũng là một chuyên viên
thuộc Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Trước năm 1975, KS Quang là một chuyên
viên phục vụ tại Ủy ban Quốc gia Thủy lợi trực thuộc Bộ Công Chánh và Giao thông
ở Sài G̣n. Ông phụ trách công tác nghiên cứu và soạn thảo các kế hoạch phát
triển thủy lợi ở miền Nam Việt Nam cũng như công tác đo đạc thủy học và tiên
đoán lũ lụt ở ĐBSCL.
Hỏi: Vào đầu tháng 1 năm 2006, báo chí trong nước loan tin cá bè trong sông Tiền
và sông Hậu bị chết hàng loạt. Theo Tiến sĩ (TS) Lư Thị Thanh Loan, Giám đốc
Trung tâm Quan trắc, cảnh báo môi trường và pḥng ngừa dịch bệnh thủy sản khu
vực Nam Bộ thuộc Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, cá chết một phần là do
điều kiện môi trường bất lợi. Tại sao t́nh trạng môi trường ở khu vực nuôi cá bè
lại bất lợi, thưa KS?
Đáp: Theo sự hiểu biết của tôi, có lẽ TS Thanh Loan muốn đề cập đến t́nh trạng ô
nhiểm nguồn nước ở khu vực nuôi cá bè trong sông Tiền và sông Hậu. Kết quả khảo
sát ô nhiễm tại các khu vực có cá bè chết hàng loạt ở các tỉnh An Giang, Đồng
Tháp, và Tiền Giang cho thấy mức độ ô nhiễm cao hơn mọi năm và cao hơn kết quả
khảo sát vào tháng 10 năm 2005.
Hỏi: Nguyên nhân nào đă gây ra t́nh trạng ô nhiễm nguồn nước trong sông Tiền và
sông Hậu?
Đáp: Dạ thưa, các cơ quan chức năng ở Việt Nam th́ cho rằng t́nh trạng ô nhiễm
nguồn nước trong sông Tiền và sông Hậu là v́ (1) vào thời điểm lũ đang rút, nước
có phẩm chất kém từ nội đồng đổ ra sông và (2) ngư dân ở thượng nguồn thải cá
chết ra sông khiến cho nguồn nước bị nhiễm mầm bệnh. Nhưng thật ra, nguyên nhân
của t́nh trạng ô nhiễm nguồn nước chính là việc xây dựng và điều hành hệ thống
thủy lợi hiện nay ở ĐBSCL.
Hỏi: KS có thể giải thích thêm chi tiết về t́nh trạng ô nhiễm nầy không?
Đáp: Nói một cách tổng quát, sở dĩ có t́nh trạng ô nhiễm nguồn nước ở ĐBSCL,
nhất là trong nội đồng, là v́ nước bị ứ đọng trong thời gian quá lâu và nhận quá
nhiều chất thải. Vào đầu mùa lũ, nước lũ trong sông, qua hệ thống kinh thủy lợi,
chảy vào các vùng trũng ở nội đồng rất sớm. V́ bị hệ thống đường giao thông hoặc
đê đập cống ngăn mặn ở hạ nguồn ngăn chận, số nước lũ nầy không thể thoát nhanh
ra biển; do đó, nó ứ đọng trong các vùng trũng một thời gian dài và chỉ chảy trở
lại các sông rạch khi mực nước trong sông rạch xuống thấp hơn mực nước trong nội
đồng; và dĩ nhiên, nó mang theo tất cả chất thải và hóa chất mà nó tiếp nhận
trong thời gian ứ đọng.
Hỏi: C̣n ảnh hưởng của hệ thống đê bao th́ sao?
Đáp: Ảnh hưởng tai hại của hệ thống đê bao ở ĐBSCL đă được xác nhận. Theo kết
quả nghiên cứu của Trường Đại học An Giang có đề tài “Nghiên cứu tác động đê bao
đến đời sống kinh tế - xă hội và môi trường tại một số khu vực có đê bao ở tỉnh
An Giang,” một trong những tai hại nổi bật nhất của hệ thống đê bao là vấn đề ô
nhiễm bên trong đê bao. Theo tài liệu của Sở Khoa học và công nghệ môi trường
tỉnh An Giang, xin trích dẫn “... ngay từ năm 2001 ở huyện Chợ Mới đă xuất hiện
t́nh trạng ô nhiễm trong đê bao. Chỉ riêng chỉ tiêu amoniac đă ô nhiễm cao gấp
10 lần tiêu chuẩn môi trường. Một số vi sinh, đạm, phốtpho tổng cũng ngày càng
cao. T́nh trạng nầy có thể gây nên hiện tượng phú dưỡng, bùng nổ sự phát triển
tảo, làm nước bị thối, giảm chất lượng nước sinh hoạt và tác động tiêu cực đời
sống thủy sinh, chưa kể sự suy thoái chất lượng đất...” hết lời dẫn.
Hỏi: Như vậy, có giải pháp nào được đưa ra để khắc phục vấn đề ô nhiễm bên trong
đê bao không?
Đáp: Nghiên cứu của Trường Đại học An Giang không đề cập đến những giải pháp để
khắc phục t́nh trạng ô nhiễm bên trong đê bao, nhưng theo ông Dương Văn Nhă,
người phụ trách việc nghiên cứu, th́ tất cả 13 nhà khoa học trưởng đầu ngành
trong lănh vực thổ nhưỡng, thủy sản, chăn nuôi, trồng trọt, và kinh tế mà ông
tham vấn đều cho rằng hệ thống đê bao triệt để có hại nhiều hơn lợi và hoàn toàn
không ủng hộ. Nhưng họ lại ủng hộ đê bao tháng 8 ở những vùng sâu trong nội
đồng, nơi không thể phát triển được rau màu hay vườn cây ăn trái. Đây là hệ
thống đê bao mà sau khi thu hoạch xong lúa Hè Thu vào tháng 8, đê bị phá vỡ để
nước lũ tràn vào đồng.
Hỏi: KS có ư kiến ǵ về đê bao tháng 8?
Đáp: Theo nhận xét của tôi, ô nhiễm bên trong đê bao tháng 8 cũng không khác mấy
với đê bao triệt để, ngoại trừ toàn bộ hệ thống đê phải được san bằng. Hơn thế
nữa, nếu theo khuyến cáo của 13 nhà khoa học Việt Nam tham gia việc nghiên cứu,
hệ thống đê bao tháng 8 có lẽ không có tính khả thi và không có hiệu quả kinh tế
v́ chi phí xây dựng và điều hành sẽ rất cao, v́ phải xây rồi phá hàng năm mà chỉ
bảo vệ được một vụ lúa mà thôi.
Hỏi: Bây giờ, xin trở lại với những vấn đề ô nhiễm mà KS vừa tŕnh bày. Dường
như những vấn đề nầy xảy ra trong hoặc cuối mùa lũ ở thượng nguồn. C̣n trong mùa
khô th́ sao?
Đáp: Trong mùa khô, khi hệ thống đê đập ngăn mặn ở hạ nguồn được đóng để ngăn
chận sự xâm nhập của nước mặn vào vùng canh tác, th́ t́nh trạng ô nhiễm tương tự
như t́nh trạng ô nhiễm bên trong đê bao lại xảy ra và có thể kéo dài nhiều
tháng. Sự khác biệt là mức độ và ảnh hưởng tai hại của nó v́ (1) nồng độ các
chất ô nhiễm cao hơn v́ nước càng ngày càng cạn kiệt, (2) nhiệt độ cao khiến cho
chất thải hữu cơ phân hủy nhanh hơn và gây hôi thối, (3) gây bệnh cấp tính cho
người sử dụng, nhất là bệnh ngoài da và tiêu hóa, v́ người dân trong vùng không
có nguồn nước nào khác ngoài nguồn nước ô nhiễm nầy. Ở nhiều nơi, t́nh trạng ô
nhiễm có thể nghiêm trọng hơn nếu nguồn nước trong hệ thống kinh thủy lợi nhận
nước phèn khi chảy qua vùng đất phèn ở thượng nguồn.
Hỏi: Nước phèn là ǵ, thưa KS?
Đáp: Người dân ĐBSCL gọi nước có độ acid cao, tức có pH thấp, là nước phèn v́ có
vị chua. Acid trong nước phèn là sulphuric acid, được tạo thành khi đất phèn
(pyrite (FeS2)) tiếp xúc với không khí. Đây là một hiện tượng tự nhiên ở ĐBSCL
thường thấy trong những năm hạn hán v́ đồng bằng nầy có đến 1,6 triệu ha đất
phèn, nhất là ở Đồng Tháp Mười (ĐTM) và Tứ giác Long Xuyên (TGLX). Việc xây dựng
hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL, nhất là hệ thống kinh và đê bao ở ĐTM và TGLX, đă
thúc đẩy hiện tượng x́ phèn v́ nó hạ thấp mực nước và giúp cho đất phèn tiếp xúc
với không khí qua ḷng kinh, bờ kinh, bờ và mặt đê, và liếp trồng hoa màu. Theo
dữ kiện của Trung tâm chất lượng nước và môi trường thuộc Phân viện khảo sát quy
hoạch thủy lợi Nam Bộ, trong khoảng 1985 đến 1997, pH tại nhiều trạm quan trắc ở
vùng ĐTM và TGLX có thể xuống dưới 3,0, nhất là vào mùa khô ở hạ nguồn. Nhưng
theo tài liệu của Viện khoa học xă hội tại thành phố Hồ Chí Minh được ấn hành
năm 1999, pH có thể xuống đến 2,5 trong những năm có lụt nhỏ, và đặc biệt trong
vụ hè-thu 1995, pH của nước trong đồng ruộng chỉ c̣n 1,0.
Hỏi: KS có thể cho quư thính giả biết thêm chi tiết về những trị số pH mà KS vừa
tŕnh bày không?
Đáp: Theo tiêu chuẩn của Việt Nam, nước gia dụng phải có pH trong khoảng 6,5 đến
8,5. Để quư thính giả có thể so sánh, giấm ăn có pH khoảng 3,0 và nước chanh
nguyên chất có pH khoảng 2,4. Nước có pH thấp không ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khỏe con người, nhưng không thể sử dụng nếu pH quá thấp. Trái lại, nhiều loại
cây cối và sinh vật sống trong nước rất nhạy cảm với pH của nước. Hầu hết rau
cải bị ảnh hưởng nếu nước có pH thấp hơn 6,0. Lúa chỉ thích hợp với nước có pH
từ 6,5 đến 7,5. Nghêu ṣ bắt đầu chết khi pH của nước xuống 6,0. Trứng cá không
thể nở khi pH của nước đạt 5,0, và sinh vật không thể sống nếu pH của nước thấp
hơn 4,5.
Hỏi: Ngoài những ảnh hưởng vừa tŕnh bày, hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL c̣n có ảnh
hưởng nào khác đến t́nh trạng ô nhiễm môi trường ở ĐBSCL không, thưa KS?
Đáp: Dạ thưa, hệ thống kinh thủy lợi ở ĐBSCL c̣n là những ḷng lạch thuận lợi
giúp cho t́nh trạng ô nhiễm lan tràn ra khắp nơi, tương tự như việc lan truyền
nước lũ ở thượng nguồn và nước mặn ở hạ nguồn. Thí dụ như nước thải của Nhà máy
Đường Trà Vinh đă gây ô nhiễm cho kinh T9, N10, Mù U và sông Trà Cú. Nước thải
của Nhà máy Đường Vị Thanh xả trực tiếp xuống kinh Rạch Gốc gây ô nhiễm cho kinh
xáng Xà No. Gần đây hơn, nguồn nước ô nhiễm trong rạch Ô Môn đă theo hệ thống
kinh thủy lợi tràn vào nội đồng và gây ô nhiễm một vùng rộng lớn trong tỉnh Cần
Thơ và Hậu Giang.
| |


|