| ||||||
|
Thử rút vài kinh nghiệm sau khi bàn về sự khác biệt trong h́nh thức tranh đấu giửa hai thế giới « cộng sản và không cộng sản ». Lê Hùng Bruxelles. 1. Đặt vấn đề. Bấy lâu, người ta thường nói chủ nghĩa Mác-Lê, đó là cách giản lược hoá khi đề cập đến cộng sản. Thực ra chủ nghĩa cộng sản Mác (marxisme) rất khác với cách dàn dựng cuả chủ nghĩa cộng sản Lê nin (leninisme). C̣n Staline và Mao chỉ là hậu duệ, mỗi người có một chiến thuật cai trị riêng, dù mệnh danh là cộng sản thế giới anh em. Đặc biệt một điều là kể từ Mác đến Lênin, qua Staline và Mao, các nước trong thế giới cộng sản đều có một chính sách giống nhau. Nghĩa là cương quyết tiêu diệt đối phương bằng những cuộc chiến tranh cách mạng đẫm máu để chiếm độc quyền cai trị. Chủ trương nầy cũng là chủ trương mà đảng Cộng sản Việt nam đă áp dụng từ trước đến nay. Bài nầy không có ư bàn đến khái niệm và chủ nghĩa Maxít hay Leninít. Người viết chỉ cố gắng nói lên những kinh nghiệm can qua trước chủ trương cuả cộng sản tại Việt nam. Thực ra, dưới một chế độ chính trị đă thành h́nh bao giờ cũng có sự chống đối. Nhưng sự chống đối cuả xả hội « cộng sản » là mào đầu cho những cuộc chiến tranh cách mạng sớm hay muộn ắt phải diễn ra. Suốt thế kỷ vừa qua, những nước trong qũy đạo cộng sản Sô viết rất dễ dàng gây ra những cuộc chiến tranh cách mạng tại các nước kém mở mang « không cộng sản ». Bởi lẽ, thành phần cơ sở đấu tranh theo đường lối cộng sản là thành phần lao động đă sẳn sàng tại chỗ. Lớp dân nghèo đói và thiếu học nầy chẳng cần lư thuyết mà chỉ cần thực hành. V́ vậy một vài người có óc tổ chức là đủ gây nên tinh thần cuồng nhiệt. Trong khi đó các nước dân chủ tự do Tây phương không thể dấy lên được một cuộc chiến tranh cách mạng nào trong các nước « cộng sản ». Bởi lẽ tŕnh độ văn hóa và văn minh cuả Tây phương cao hơn, nên mọi hành động cuả họ đă mất nhiều th́ giờ để quan sát và suy xét. Hơn nửa sự giàu có cuả xă hội Tây phương đưa đẩy con người nghĩ đến cảnh thái b́nh hưởng thụ trước mọi việc dấn thân vào các cuộc chiến tranh. Xét cho cùng th́ h́nh thức tranh đấu cuả thế giới « không cộng sản » rất khác biệt với h́nh thức tranh đấu cuả « cộng sản » rất nhiều. Tại Việt nam trong những ngày gần đây, có dấy lên hiện tượng dấn thân cuả tuổi trẻ trong đủ mọi tầng lớp, từ lớp trí thức đến lớp lao động công nhân. Điểm lợi cuả phong trào dấn thân nầy là họ có nhiều kinh nghiệm sống trong chế độ cộng sản Hà nội những gần nửa thế kỷ nay. Trong đó phải kể đến những người từng nắm giử vai tṛ quan trọng cuả chế độ cộng sản Hà nội. Tôi nghĩ rằng lớp người dấn thân hôm nay đủ sức đề bạt ư kiến tranh luận và khuynh đảo chế độ cộng sản Hà nội. Và như thế, họ không thể lùi bước được. V́ lùi bước tức là tự diệt trước chủ trương người cộng sản.
Để giúp thêm kinh nghiệm cho lớp người đang cố vươn lên v́ Đất nước, người viết cố gắng nêu lên những nguyên ủy nào đă tạo nên những khác biệt trong h́nh thức tranh đấu đă xẩy ra trên đất nước Việt nam, qua nhiều giai đoạn và dưới nhiều thể chế, kể từ muà thu cách mạng tháng 8/45 bùng nổ đến nay. 2. Sự khác biệt trong h́nh thức tranh đấu giữa phe « cộng sản » và phe « không cộng sản ». Trái hẳn với xă hội « cộng sản » là trong xă hội « không cộng sản » mọi sự chống đối là sự khởi đầu cuộc đi t́m một môi trường đồng thuận để cùng sống chung. Người ta không t́m cách tiêu diệt đối phương, nhưng t́m cách ngồi lại với nhau để bàn thảo, để đề bạt một vài chương tŕnh cai trị với mục đích tiến tới một hướng đi hợp nhu cầu xă hội. Điều nầy cũng dễ thấy tại vài nước dân chủ như Anh, Pháp, Ư, trên chính trường quốc gia vẫn có sự hiện diện cuả đảng cộng sản. Trên căn bản lư luận về sự chống đối, người ta thường dựa vào nhiều yếu tố mâu thuẫn trong sinh tồn xă hội để làm bàn đạp. Xưa nay đă có rất nhiều nhà xă hội học uyên bác cố sức đi t́m nguyên nhân, nhưng rút cuộc phải kết luận rằng nguyên do v́ con người không bao giờ đạt được Sự Thật. Tất cả « sự thật » mà người ta đề ra trong lư luận để đối ứng giữa 2 phe thù địch chỉ là những « sự thật tương đối » thay thế chồng chất lên nhau, chứ chưa hẳn là Sư Thật hoàn toàn. (les vérités se substituant à la Vérité). Ngay trong cùng một thời gian, sự thật mà người ta đưa ra để dẫn chứng cũng chỉ là lối diễn giải giữa hai thái độ thiện ác (manichéens), mục đích là để đơn giản hoá hoặc bác bỏ những đa kiến phức tạp và những bất khả thi cuả đối phương. Chẳng hạn, tại Việt nam thập niên cách mạng muà thu 1945 đă có những hiện tượng dao phay và súng gỗ đứng lên chống lại đại bác liên thanh cuả người Pháp, nghĩa là hai bên phe phái đă đưa ra những « sự thật bên nầy chồng lên sự thật bên kia ». Phía người « cộng sản » viện lẽ rằng người Pháp đến đây để bóc lột dân Việt nam, nhất là lớp lao động vô sản. Phía người « không cộng sản » đáp lại rằng sự hiện diện cuả quân đội Pháp chỉ là cách giúp đỡ Việt nam thoát khỏi ách cai trị độc tài cuả cộng sản thế giới v.v.. Bộ máy cuả hai phe cứ t́m đủ cách tuyên truyền và kết cuộc người dân h́nh như bị lôi tŕ trước hai « sự thật tương đối » rồi tùy theo cách suy đoán cá nhân trong một trường hợp đặc biệt hi hữu nào đó, để quyết chí tham gia cách thành khẩn phe nầy hay theo phe kia. Từ đây suy ra chiến tranh là nguyên nhân sự đam mê (passion) cuả đoàn lũ. Cộng sản Việt nam không những chỉ theo Mác chủ trương dựa vào lớp vô sản công nông để thành h́nh các cuộc đấu tranh giai cấp với mục tiêu đánh đỗ bọn tư bản bóc lột, mà hơn nữa, lại c̣n phối hợp cả chủ trương cuả Lê nin chuyễn chủ nghĩa Mác thành ư thức hệ (học ǵ ?) và đặt trọng tâm vào việc nhồi sọ quần chúng đến đam mê (học thế nào ?). Khi đă bị một học thuyết ngày đêm nhồi sọ đến đam mê (học tập cưởng bách) th́ đoàn lũ tự tạo nên những con người hoang tưởng mà kẻ đứng ngoài không thể ngờ được (cộng sản chuyên chính). Cứ lấy một tỷ dụ nhỏ mà mọi người miền Nam Saigon đều biết trong những ngày đầu bị cộng sản tràn vào. Đó là việc cộng sản Hà nội ứng dụng chíến thuật học tập cuả Lê nin trong việc giáo hoá nhân dân. Người miền Bắc đă bị cưởng bách tư tưởng, họ đinh ninh rằng bà con miền Nam Saigon bị Mỹ-Nguy cướp bóc và đang đói khỗ. Họ cương quyết vào giải phóng miền Nam và tiếp tế bà con Saigon. Nên sau ngày 30/4/75 dân miền Bắc đă hối hă lặn lội băng sông Bến hăi, cơm đùm gạo bới cuốc bộ vào miền Nam với những gói trà, long gạo, chén bát. Than ôi, đến lúc người miền Bắc nh́n thấy « sự thật phong phú » tại miền Nam, mới nhận ra rằng mấy chục năm họ đă bị công sản cưởng bách học tập th́ đă quá muộn !. Muốn bước chân vào nhà người bà con miền Nam, họ đành vứt hết trà, chén bát, gạo...vào trong bụi rậm cách đau ḷng tủi hổ. Quả thật tiếng đồn « Saigon đă giải phóng Hà nội, chứ đâu phải Hà nội giải phóng Saigon » trong dân gian lúc bấy giờ cũng không phải là ngụy biện ! V́ chủ trương cách mạng chiến tranh, nên thế giới cộng sản luôn luôn xem vấn đề xây dựng và cưởng bách quân đội học tập rất cần thiết. Toàn bộ đội miền Bắc, từ cấp tiểu đội đến cấp sư đoàn đại đoàn, đều bị nhồi sọ ư thức hệ cộng sản bởi các chính trị viên đảng. Một anh bộ đội Việt cộng là một binh-sĩ-tuyên-truyền (un soldat-militant). Ngoài phận sự giết giặc, anh bộ đội c̣n là một cán bộ tuyên vận nằm sẳn trong ḷng dân chúng, dù cho cơm không đủ no, áo không đủ mặc. Đêm ngày, mọi đơn vị bộ đội miền Bắc đều được theo sát bởi anh chính trị viên, nên họ chỉ biết một điều giết Mỹ Ngụy và nhắm mắt hy sinh cho Đảng đến giọt máu cuối cùng. Họ không có quyền và cũng không đủ th́ giờ để suy luận t́m hiểu lư do, v́ họ thấy trước mắt toàn là thắng lợi to tát, liên tục, do các tên chính trị viên phù thủy thuyết phục và dàn dựng. Trong khi đó, một chiến sĩ trong quân lực Việt nam Cộng hoà, ngoài nghề nghiệp c̣n là một binh-sĩ-công-dân (un soldat-citoyen). Trong quân đội VNCH, bên cạnh những binh sĩ t́nh nguyện, c̣n có những binh sĩ chỉ thực thi nhiệm vụ công dân trong một thời gian nhất định. Nhiệm vụ tuyên truyền trong dân chúng không dành cho toàn thể quân nhân, mà quân đội đă có sẵn một cơ phận chuyên môn đặc trách riêng biệt. Thiết nghĩ đó cũng là một điểm yếu trong việc tranh đấu chống lại một đội quân mang ư thức hệ cộng sản. V́ vậy, mà chúng ta không lạ suốt thời kỳ 1954-1974 ở miền Nam Saigon, trong quân đội có xẩy ra những cuộc nội phản. Trong khi đó phía hàng ngũ bộ đội nhân dân miền Bắc chẳng có chuyện địch vận xẩy ra. Bên cạnh việc quân đội học tập ư thức hệ, chúng ta không nên quên rằng Cộng sản Việt nam lại c̣n áp dụng một chiến thuật khác với Lê nin và Mao trạch Đông. Mục đích chiến thuật trước tiên là lúc nào lực lượng c̣n yếu th́ nằm yên, bám trụ. Đợi đến lúc nào địch đứng vào thế khập khễnh (en porte-à-faux) rồi mới ra tay hành động. Chẳng khác nào như một vơ sĩ judo biết quật ngă một lực sĩ có sức mạnh hơn trăm lần. Muốn xây dựng một địa điểm hạ tầng cơ sở, cộng sản Việt nam không quên chiến lược « quân dân như cá nước ». Trước hết cộng sản cho áp dụng mọi thủ thuật để dành sự hậu thuẫn quần chúng. Họ tung ra những bộ phận tuyên truyền hùng hậu cưởng bức nhân dân học tập ư thức hệ cộng sản. Tiếp đến, họ hô hào và tưởng thưởng nhân dân đứng lên phát khởi đào mương đắp đường, tạo ra vài cuộc du kích gài bom chôn ḿn trong phần đất địch chiếm đóng. Mục đích chính yếu là kích thích tinh thần các thành phần dân chúng « đam mê » và làm suy giảm tinh thần cuả những phần tử lưng chừng hay muốn theo địch. Trong khi đó, chính quyền miền Nam lại lụy thuộc quá nhiều với chính sách b́nh định và phương tiện tuyên truyền. Việc dành dân th́ h́nh như mọi chính quyền miền Nam rất yếu. Ngân sách quốc gia bị giới hạn nên không thể bày ra một chính sách hữu hiệu về vấn đề truyền thông. Bộ văn hoá và thông tin không có những ngân quỷ lớn như các nước tư bản, hầu giải thích rơ ràng hướng đi cuả chính quyền Các cơ quan báo chí tư nhân cũng không thể làm ǵ hơn ngoài vấn đề sinh sống. Do đó, ngôn luận không đủ sức hướng dẫn nhân dân và cũng v́ vậy mà người dân miền Nam không hiểu được chiều sâu chủ nghĩa cộng sản. Tại các nước văn minh Tây phương, chính quyền thường dành ngân qũy giúp đở báo chí. Tất nhiên báo chí cũng phần nào giúp cho người dân hiểu về cộng sản rất nhiều. Nhờ vậy nên tại các nước nầy dù cho thời gian cộng sản thế giới đă có mặt trước Việt nam rất lâu vẫn không thế nào bành trướng nổi thế lực. Cộng sản thế giới chỉ tạo lên được những cuộc chiến tranh cách mạng trong các nước kém mở mang nói chung và tại Việt nam nói riêng.. Trong suốt thời kỳ miền Nam Saigon chống lại cộng sản miền Bắc, chính quyền luôn luôn nằm trong thế thụ động, nhất là sau thời kỳ lật đỗ chính quyền Ngô đ́nh Diệm. Ở đâu Việt cộng quấy phá và khi nào dân chúng hoang mang, nhà cầm quyền miền Nam mới có mặt. Các tướng lănh cầm đầu miền Nam qua vụ đảo chính 11/63 chỉ v́ sự thù nghét cá nhân ông Ngô đ́nh Nhu mà cho triệt hạ chính sách Áp chiến lược. Các tướng lănh chấp chánh lại thiếu chuẫn bị và không đủ trí óc để khai triễn chiến lược mới, hầu đối đầu với ư thức hệ cộng sản cũng là điểm yếu đă dẫn đến thất bại ngày 30/4/75. Tôi c̣n nhớ trong một tờ báo Times 1964 đă báo trước rằng sự bải bỏ kế hoạch lập ấp chiến lược cuả các tướng lănh sẻ giúp cộng sản Bắc việt chiến thắng miền Nam sớm hơn dự định. Thật vậy, cuộc phá tan Ấp chiến lược sau năm 1963 cũng là nguyên nhân giúp người cộng sản sớm đánh thắng Saigon. Tại miền Bắc bộ đội nhân dân là thành tŕ cuả chế độ cộng sản, trong khi đó tại miền Nam quân đôi VNCH lại vấp nạn kiêu binh, chia năm xẻ bảy. Chính sự chia rẽ nầy cũng là một điểm yếu khác. Nay thử đề cập đến tinh thần người dân (đàn ông cả đàn bà) sống dưới chế độ tự do miền Nam, th́ lại càng ê chề hơn nữa. Tự do không luật lệ là căn nguyên mọi hỗn độn tại xă hội miền Nam. Sau cuộc lật đỗ chính quyền Ngô đ́nh Diệm 1963, các tướng lănh quân đội đă làm nát cả hệ thống chính quyền cai trị tại miền Nam. Trong quân đội th́ nẩy ra tinh thần « thập nhị sứ quân ». Ngoài thứ dân th́ đảng phái và tôn giáo nổi lên dành quyền và dành ảnh hưởng. Các nhà lănh đạo quân sự bước vào chính trường quá yếu kém từ trí óc đến tinh thần nên chỉ lo cũng cố địa vị. Từ đây chính quyền bị suy yếu, nên cấp lănh đạo rất dễ bị mua chuộc. Lợi dụng được sự lộn xộn và mua chuộc nầy, cộng sản đă thâm nhập Saigon thật sự. Đất miền Nam sau 11/1963 không c̣n là cuả riêng dành cho những người « không cộng sản ». Lớp trai tráng hầu hết bị sung công vào quân đội, và dĩ nhiên họ buộc phải dành lại việc ở « hậu cứ » cho phần đông phái nữ. Đây cũng là điểm yếu cho phần đất miền Nam Saigon trước ư đồ cộng sản. Về phía phụ nữ th́ h́nh như người đàn bà miền Nam không vượt nỗi ra ngoài cái khung lễ giáo Khổng Mạnh. Phần đông các bà, các cô tự nhủ rằng mọi việc « ngoài đời » đều thuộc phái đàn ông. Người đàn bà miền Nam chỉ muốn khép ḿnh trong phần việc buôn bán và nội trợ chồng con. Trong khi đó, người phụ nữ miền Bắc th́ khác hẳn. Chẳng khác nào đàn ông, phái phụ nữ đă trang bị ư thức hệ cộng sản cũng tham gia chiến đấu. Bởi lẽ họ đă được Đảng tuyên ngôn, Đảng tiến cữ, người phụ nữ trở thành một cán bộ, một quân nhân rất thành khẩn và rất tự nhiên. Tôi c̣n nhớ tại Huế, suốt thời kỳ thập niên 1950, có nhiều cán bộ phụ nữ cộng sản đă thành công trong các cuộc chiếm đồn cuả quân đội Pháp và Việt nam quốc gia. Có nhiều đêm những pháo đài canh gác an ninh dọc đường quan lộ đều bị địch vận bởi các nữ cán bộ giả người bán hàng rong. Nhiều cô con gái đất thành kinh đă bỏ học đi chiêu dụ các trưởng đồn hay lính canh để ban đêm cộng quân đột kích. Đến nổi trong quân đội quốc gia dưới thời Phan văn Giáo thường dặn nhau « đừng tin vào nụ cười gái Huế mà trúc pháo đài » khi nào không biết. Trong khi đó, tại miền Nam chúng ta chỉ thấy những con cháu bà Triệu bà Trưng, sau 11/1963, phần lớn chỉ giỏi nghề buôn bán, mua tước bán quan, hoặc cưa ṇng súng cự ly 12.7 bán cho Ba Tàu !. 3. Chiến lược chiến thuật tổng quát cuả cộng sản đă áp dụng tại Việt nam. Từ ngày khai sinh đảng cộng sản tại Việt nam, ở đâu họ cũng áp dụng triệt để chủ nghĩa Mác-Lê trên phương diện lư thuyết, và chiến lược Mao trạch Đông. Mọi cứ điểm và mọi lúc đều tuân thủ thực hành bằng cách chiếm đoạt nhân dân (cách cưởng bách học tập), phá hủy cơ sở hành chánh (du kích và ám sát) và tổng nổi dậy phản công (khi địch yếu). Có thể tóm tắt vào những mục sau đây:
4. Kết luận. Nhiên hậu, Việt nam không thể là một quốc gia khép kín trước trào lưu thế giới hiện tại. Đó là thế bắt buộc phải đi tới. Sớm cởi mở tự do dân chủ th́ nhân dân trong nước nhờ (khỏi đói khỗ). Chậm cởi mở th́ nhân dân trong nước chịu trận bầm dập thêm vài năm nữa (nai lưng đóng thuế cho giai cấp thống trị). Nhưng với t́nh h́nh thời cuộc có vài câu hỏi cần đặt ra: 1. Những cuộc đấu tranh cuả lớp tướng lănh đảng viên kỳ cựu, lớp trí thức già và trẻ, những cuộc đ́nh công tại xí nghiệp, những cuộc đàn áp tôn giáo, những vụ việc cướp đất đai và nạn tham nhũng hoành hành đă có đủ sức như liều thuốc độc « tâm lư và kinh tế » gieo vào thể xác Cộng sản Hà nội hay chưa ? 2. Các nhà lănh đạo người Việt nam « không cộng sản » trong cuộc đấu tranh hôm nay có rút thêm đươc kinh nghiệm nào để hỗ trợ các phong trào đang nỗi dậy trong nước ? Có phương tiện ǵ và chiến thuật nào giúp phong trào nỗi dậy trong việc khuynh đăo một tập đoàn độc tài cố cầm giữ Đất nước Việt nam đ́nh trệ trước trào lưu tiến triễn cuả thế giới ? 3. Thế lực đấu tranh cuả Cộng đồng Việt nam « không cộng sản » hôm nay đă tạo được sứ ép nào trong việc chủ trương kinh tế thị trường hoàn cầu cuả cộng sản Hà nội? Sức ép nầy có đủ cho Cộng sản Hà nội nên chọn người trong đại hội Đảng X thay đổi theo lộ tŕnh Tự do Dân chủ hay không ? Đó là những câu hỏi đặt ra để t́m thêm kinh nghiệm. V́ sao, tại sao và cần phải làm ǵ? Lê Hùng Bruxelles. |
|
Xin vui ḷng liên lạc với butvang@yahoo.com về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương Copyright © 2004 Anh Duong Online Last modified: 08/10/06 |