Sự
"Lộng Giả Thành Chân" Trong Cuốn "Đại Tướng Lê Đức Anh" Của Khuất Biên Ḥa
Lê Tùng Minh
Đầu tháng 10 năm 2005, trên thị trường sách báo ở Việt Nam, người ta đă thấy bày
bán khắp nơi, cuốn sách mang tựa đề là "Đại tướng Lê Đức Anh" của soạn giả Khuất
Biên Ḥa, với giá tiền là 52.000 VNĐ. Cuốn sách này do nhà xuất bản Quân Đội
Nhân Dân ấn hành, được sự chỉ đạo trực tiếp của ông Trưởng Ban Tư Tưởng Văn hóa
Trung ương Nguyễn Khoa Điềm. Và cựu Tổng Bí thư Đỗ Mười viết Lời Tựa (6 trang).
Nhiều Cán bộ, Đảng viên, Trí thức, Sinh viên, Học sinh đă t́m đọc để biết sự
thật về ông Cai Đồn Điền trở thành Chủ Tịch Nước như thế nào, bởi v́ họ đă có
nghe phong phanh về chuyện "khai man lư lịch của Lê Đức Anh" (?) Sự thật có đúng
như "Thư Tố Cáo" ngày 3-2-2005, của 3 nhà cách mạng lăo thành: - Phạm Văn Xô
(Hai Xô), nguyên là Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục Miền Nam, Ủy viên Ban chấp
hành Trung ương Đảng, 75 tuổi Đảng (1930-2005); - Trung tướng Đồng Văn Cống (Bảy
Cống), nguyên là Phó Ban Thanh tra Quân đội Nhân Dân, 63 tuổi Đảng (1942-2005);
- Nguyễn Văn Thi (Năm Thi), nguyên là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Thủ Dầu Một
(1942-1946) và là Chủ nhiệm Hậu Cần của Ban Chỉ huy Quân sự Miền thời Chống Mỹ,
63 tuổi Đảng (1942-2005).
Sau khi cuốn sách "Đại tướng Lê Đức Anh" của Khuất Biên Ḥa phát hành, th́ một
làn song phẫn nộ nổi lên trong hang ngũ lăo thành cách mạng đă hiểu quá rơ về
chân tướng của Lê Đức Anh. V́ thế, họ đă yêu cầu Bộ Chính Trị và Ban Chấp Hành
Trung ương Đảng khóa IX, cùng Chánh phủ Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, phải
ra lệnh tịch thu và thiêu ủy cuốn sách "Lộng Giả Thành Chân" vô liêm sỉ đó!
Nhưng, Đảng và Chính Quyền CSVN hiện hành vẫn cứ lờ đi … coi như không có
chuyện ǵ xảy ra! Cuốn sách "Đại tướng Lê Đức Anh" của Khuất Biên Ḥa, dày 284
trang (khổ 14,5 x 20,5) vẫn được tiếp tục quảng bá khắp nước (!?)
o0o
Trước khi vạch trần sự "Lộng Giả Thành Chân" trong cuốn "Đại tướng Lê Đức Anh"
do Khuất Biên Ḥa biên soạn, chúng ta hăy xem ông cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười trổ
tài cầm bút, viết Lời Tựa, để "nâng bi" Lê Dức Anh như thế nàỏ
Từ năm 1945 đến 1978 (33 năm liên tục) trải qua các thời kỳ lịch sử - kháng
chiến chống Pháp (1945-1954), xây dựng xă hội chủ nghĩa miền Bắc (1955-1975), và
Chống Mỹ cứu nước tại chiến trường Miền Nam (1960-1975) - Đỗ Mười chưa hề quen
biết Lê Đức Anh! Do đó, mở đầu Lời Tựa, Đỗ Mười phải rào trước đón sau, thừa
nhận sự thật rằng: "Tôi gặp anh Lê Đức Anh lần đầu tiên tại Campuchia năm 1979."
(sách đă dẫn, trang 5).
Năm 1979, Đỗ Mười đang giữ chức Phó Thủ tướng, được Đảng và Nhà nước CSVN cử
sang Canpuchia để "giúp bạn về kinh tế" (nguyên văn của Đỗ Mười). C̣n Lê Đức Anh
lúc đó là Phó Tổng Tham mưu trưởng, thuộc Bộ Tổng Tư Lệnh QĐBDVN, được Đảng và
Nhà nước CSVN cử sang "phụ trách Quân t́nh nguyện Việt Nam tại Campuchia". Nói
cho chính xác hơn, như Lê Đức Anh tự kể: "Hồi đó ở đất bạn Campuchia ta có hai
khối Quân t́nh nguyện là lực lượng quân đội và Đoàn chuyên gia. Mỗi bên có một
Đảng bộ. Tôi chỉ huy phụ trách chung." (Sách đă dẫn, trang 171).
Thật ra, viết Lời Tựa cho một tác phẩm về khoa học xă hội, hay khoa học nhân văn
nào đó, đâu cần phải đă quen nhau từ trước, mà chỉ cần có đủ tŕnh độ cảm nhận,
đánh giá và tổng luận được nội dung căn bản của tác phẩm đó, để viết Lời Tựa cho
đúng nghĩa là Lời Tựa! Trong trường hợp viết Lời Tựa cho cuốn sách "Đại tướng Lê
Đức Anh", tất nhiên phải đ̣i hỏi một người có tầm cỡ chính trị - quân sự ngang
hay cao hơn Lê Đức Anh, th́ mới có thể nâng cao giá trị của cuốn sách - Nếu cuốn
sách đó phản ảnh đúng sự thật! Bởi vậy, người viết Lời Tựa phải thận trọng cả
lời văn và nội dung luận xét khi viết. Vậy, ông cựu Tổng Bí Thư có làm đúng chức
trách của người viết Lời Tựa hay không?
Suốt trong 6 trang Lời Tựa (từ trang 5 đến trang 10), ông Đỗ Mười không có một
ḍng nào, đúng là không có một ḍng nào đề cập đến nội dung của cuốn sách "Đại
tướng Lê Đức Anh". Tại sao? Tại v́ ông không biết cách viết Lời Tựa cho một cuốn
sách? Hay là ông Đỗ Mười cố ư tránh né "những sự thật về lai lịch của Lê Đức
Anh" mà bản thân ông cựu Tổng Bí thư vẫn nghi ngờ?
Cho nên, có phải ông Đỗ Mười thầm muốn cho người đọc biết rằng: Ông chỉ chịu
trách nhiệm về những ǵ ông viết trong Lời Tựa, từ sau Đại Hội VI (1986) đến
nay, như ông đă viết: "Đến nhiệm kỳ Đại Hội Đảng lần thứ VI, sau khi anh Phạm
Hùng mất, tôi thay anh Phạm Hùng làm Thủ tướng Chính phủ. Lúc bấy giờ anh Lê Đức
Anh giữ chức Bộ trưởng Quốc pḥng. Từ đây, giữa tôi và anh Lê Đức Anh có điều
kiện làm việc gần nhau" (sách đă dẫn, trang 5).
Ông Đỗ Mười đă viết những ǵ trong Lời Tựả
Dưới đây là 3 điểm chính trong Lời Tựa: mà ông cựu Tổng Bí thư đă viết, có thể
khái quát như sau:
1- Lê Đức Anh là người biết thích ứng với t́nh h́nh mới, như sau khi đă hoàn tất
việc rút hết "Quân t́nh nguyện Việt Nam" ở Campuchia về nước (26-9-1989), ông Đỗ
Mười đă viết rằng: "Anh Lê Đức Anh đă trao đổi với tôi kế hoạch điều chỉnh chiến
lược bố trí pḥng thủ đất nước trong t́nh h́nh mới, phù hợp với hoàn cảnh kinh
tế của đất nước mà vẫn bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xă hội chủ nghĩạ"(sách đă dẫn, trang 6-7).
2- Hoặc là trong t́nh h́nh khó khăn về kinh tế, nhưng như Đỗ Mười đă viết: "tôi
và anh Lê Đức Anh đă đề nghị và được Bộ Chính trị đồng ư chủ trương khó ǵ th́
khó nhưng phải quan tâm đến trang bị cho quân đội, xây dựng công nghiệp quốc
pḥng và chăm lo cải thiện đời sống của lực lượng vũ trang." (sách đă dẫn, trang
7)
3- Hay sau Đại hội VII (1991), Đỗ Mười viết: "Tổng Bí thư (Đỗ Mười), Chủ tịch
nước (Lê Đức Anh), Thủ tướng Chính phủ (Vơ Văn Kiệt). Ba chúng tôi về quan điểm
đường lối, đối nội, đối ngoại trên các lĩnh vực nói chung đều nhất trí." (sách
đă dẫn, trang 9).
Cuối cùng, Đỗ Mười đă đề cao Lê Đức Anh rằng: "quan điểm giai cấp rất vững và rơ
ràng… Tôi cho rằng anh Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà
quân sự lớn của Đảng và Nhà nước tạ"(sách đă dẫn, trang 10).
Rơ ràng, Đỗ Mười không phải làm chức trách của người viết Lời Tựa cho cuốn sách,
mà lấy tư cách cựu Tổng Bí thư để làm cái lá chắn, để đỡ những mũi tên phê phán
đang bắn thẳng vào Lê Đức Anh, đồng thời để che đậy những việc làm sai lầm
nghiêm trọng của Lê Đức Anh, cũng là che đậy những tội lỗi cho chính bản thân
của ông ta! (Theo dư luận trong hàng ngũ binh sĩ Quân t́nh nguyện Việt Nam tại
Campuchia, th́ ông Đỗ Mười đă cùng Lê Đức Anh làm "công việc sưu tầm các ông
Phật bằng vàng trên khắp nước Campuchiả
o0o
Vậy nội dung cuốn sách "Đại tướng Lê Đức Anh" do Khuất Biên Ḥa biên soạn có vấn
đề ǵ? Tại sao chúng tôi dám kết luận là "Lộng Giả Thành Chân"?
Để có những tài liệu cụ thể, xác thực, nhằm chứng minh sự "Lộng Giả Thành Chân"
trong cuốn sách "Đại tướng Lê Đức Anh", chúng tôi đă căn cứ vào kết quả thu thập
tài liệu, từ trong hang ngũ cán bộ cách mạng lăo thành đă từng biết rơ về Lê Đức
Anh, từ các tướng tá trong Quân đội Nhân dân đă từng chiến đấu và làm việc cùng
Lê Đức Anh (trên chiến trường Việt Nam cũng như chiến trường Campuchia), từ
nguồn Hồ sơ Cán bộ Cao cấp của Ban Tổ chức Trung ương Đảng CSVN… Từ những
nguồn tư liệu đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu, đối chiếu, so sánh và phân
tích theo phương pháp khoa học lịch sử, xem đâu là thật, đâu là giả. Trên cơ sở
ấy, chúng tôi mới đề ra những luận cứ, trên tinh thần khách quan, không thiên
vị, để phê phán, nhằm mục đích : Đem Sự Thật trả lại cho Sự Thật!
Nội dung cuốn sách này, gồm có 5 phần. Chúng tôi sẽ đưa ra sự Lộng Giả Thành
Chân của từng phần, để cho độc giả dễ theo dơi…
I- Tuổi thơ và cách mạng - Từ Trị Thiên tới Lộc Ninh (từ trang 11 đến trang 33).
Sự "Lộng Giả Thành Chân" trong phần này, chủ yếu là biến việc khai man lư lịch
trở thành lư lịch trong sạch (!)
1- Về năm gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, ông Lê Đức Anh kể cho Khuất Biên
Ḥa viết rằng: "…năm 1937 chính thức tham gia hoạt động cách mạng. Đến dịp kỷ
niệm Quốc tế Lao động 1 tháng 5 năm 1938 khi hai người bạn cùng làng của ông là
anh Viết (tức Hoàng Viễn) và anh Hồ Nguyên chính thức giới thiệu ông vào Đảng."
"Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga năm đó ông được trở thành đảng viên
chính thức." (sách đă dẫn, trang 16 và 18).
Tuy nhiên, trong Hồ Sơ Lư Lịch lưu tại Pḥng Lưu Trữ của Ban Tổ chức Trung ương
Đảng CSVN ở Hànội, đang có 2 bản tóm tắt lư lịch của Lê Đức Anh, ghi ngày vào
Đảng có mâu thuẫn với lời kể của ông, được Khuất Biên Ḥa viết ra trong sách
"Đại tướng Lê Đức Anh":
1- Bản tóm tắt lư lịch của Lê Đức Anh, khai vào tháng 11-1976 (khi tham gia Đại
hội Đảng lần thứ IV, và lần đầu tiên được bầu; làm ủy viên Trung ương Đảng khóa
IV), Lê Đức Anh đă khai như sau: Gia nhập Đảng tháng 7-1945, và tháng chính thức
là 8-1945. Đối chiếu với trong sách, đă dẫn ra ở trên, là hoàn toàn mâu thuẫn!
Năm 1945 so với năm 1938 cách nhau đến 7 năm?
2- Bản tóm tắt lư lịch của Lê Đức Anh khai vào tháng 8-1986 (khi tham gia Đại
hội Đảng lần thứ VI, và ông đă được cử vào Bộ Chính trị khóa VI). Lê Đức Anh đă
khai ngày vào Đảng là 30-5-1938, và ngày chính thức là ngày 5-10-1938. Đối chiếu
với sách đă dẫn ở trên th́ thống nhất về năm (1938). Nhưng về ngày th́ khác xả
Theo ông Nguyễn Văn Thi (tức Năm Thi), nguyên là Thường vụ Tỉnh ủy Thủ Dầu Một
(B́nh Dương ngày nay), trong thời gian 1942-1945, th́ năm 1945 Lê Đức Anh mới
được Đảng bộ Thủ Dầu Một kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (Theo "Kiến nghị
thu hồi và tiêu hủy cuốn sách "Đại tướng Lê Đức Anh" của Khuất Biên Ḥa", đề
ngày 7-11-2005, của ông Nguyễn Văn Thi, nguyên Thường vụ Tỉnh ủy Thủ Dầu Một
(1942-1945), nguyên Chủ nhiệm Hậu Cần của Bộ Chỉ huy Quân sự Miền Nam thời chống
Mỹ (1960-1975). Hiện đă về hưu, ở Thành phố Sàig̣n, tại nhà số 20B 885 cư xá
Nguyễn Trung Trực, Đường 3/2 Quận 10).
Người được kết nạp vào Đảng năm 1945, không thể ngang bằng về vị trí chính trị
trong Đảng đối với người gia nhập Đảng ở năm 1938! Bởi thế, Lê Đức Anh mới chọn
năm 1938 để được cử vào Ban Chấp hành Trung Ương khóa IV một cách thuận lợi. Bởi
v́, đảng viên năm 1938 được xếp vào hạng tiền bối cách mạng của Đảng! Hơn nữa,
Lê Đức Anh khai gia nhập Đảng vào năm 1938, th́ tổ chức không dễ ǵ thẩm tra?
(Thật ra Truởng Ban Tổ chức trong thời gian 1976-1986 - thời lên như diều gặp
gió của Lê Đức Anh - vẫn là Lê Đức Thọ, người anh đỡ đầu của Lê Đức Anh. Do đó,
bao nhiêu lá thư tố cáo Lê Đức Anh đều bị Sáu Búa (tức Lê Đức Thọ) ném vào xọt
rác!)
2- Về thành phần bản thân và thời làm cai đồn điền của Pháp, Lê Đức Anh đă kể
cho Khuất Biên Ḥa ghi lại như sau: Khi vào sống ở Đà Lạt (1939) "ông quyết định
đi làm lao công (hồi đó chủ Tây gọi là cu ly) tại khu nhà nghỉ mát tại Sở Nam
kỳ." ), sách đă dẫn, trang 19). Sau đó, Lê Đức Anh học làm đồ nguội (ba tê, xúc
xích, dăm bong) với thằng Tây tên Bê-Găng… Khuất Biên Ḥa ghi tiếp rằng: "Thấy
đồ ăn nguội ông làm ra rất ngon, một vị chủ Tây khác đă đến thuê ông xuống đồn
điền của nó làm đồ ăn nguội. Do đó, đầu năm 1942 ông rời Đà Lạt xuống đồn điền
cao su Lộc Ninh." "Giám đốc điều hành đồn điền tên là Đờ La-Lan… yêu cầu ông
làm thêm giờ và cho thêm người giúp việc đặng làm ra nhiều đồ nguội, để nó bán
cho các đồn điền lân cận và mang về Sàig̣n làm quà… Như vậy, mỗi tháng ông có
thu nhập đều đặn là 45 đồng." (sách đă dẫn, trang 20-21). Năm 1942, lương 45
đồng/tháng là lương thuộc công chức hạng trung cấp?
V́ vậy, trong bản lư lịch tóm tắt vào tháng 11-1976, nộp cho Ban Tổ chức Trung
ương Đảng, để kiểm tra tư cách tham gia Đại hội Đảng lần thứ IV, Lê Đức Anh
khai: Thành phần bản thân là Viên Chức. Nhưng đến Đại hội Đảng lần thứ VI
(8-1986), để được dễ dàng thông qua tư cách Ủy viên Bộ Chính tri, nên Lê Đức Anh
khai lại như sau: Thành phần bản thân là Công Nhân.
Theo Chủ nghĩa Thành phần trong chính sách cán bộ của Tổ chức Đảng CSVN, th́
thành phần công nhân là thành phần căn bản nhất, đóng vai tṛ lănh đạo các thành
phần khác! C̣n thành phần viên chức là thành phần Tiểu tư sản, lập trường luôn
dao động, cần phải được rèn luyện và thử thách nhiều! V́ thế, chúng ta dễ hiểu
v́ sao Lê Đức Anh chọn thành phần công nhân, chối bỏ thành phần viên chức!
Trong thực tế, ngay thời làm việc ở "Công ty trồng cao su vùng nhiệt đới Lộc
Ninh"- thường gọi là "Đồn điền Cao su Lộc Ninh", ông Lê Đức Anh cũng "Lộng Giả
Thành Chân"! Bởi v́, theo lời kể lại của nhiều lăo phu đồn điền cao su Lộc Ninh
(nay gọi là công nhân) cho biết: Lúc đó, Lê Đức Anh có biệt danh là "Cai Lé" (v́
bị chột một con mắt). Nói cho đúng, lúc đó (1942-1945) Lê Đức Anh là Chef des
Coopératives (Đứng đầu bộ phận chế biến thực phẩm) dưới quyền của tên De Lalant,
một sĩ quan 2è Bureau (Đệ nhị pḥng Pháp) là Giám đốc Công ty trồng cao su nhiệt
đới Lộc Ninh. Và lương của Lê Đức Anh ngang với lương của Chef de Camp của Pháp
(Tham khảo bức thư gửi các cấp Trung ương Đảng, đề ngày 1-2-2005, của 3 vị lăo
thành cách mạng: Phạm Văn Xô, Đồng Văn Cống và Nguyễn Văn Thi)
II- Đánh giặc Pháp ở miền Đông Nam bộ, từ trang 34 đến trang 52. Sự "Lộng Giả
Thành Chân" trong phần này, tập trung vào hai chủ điểm, như sau:
1- Dấu diếm tội "t́m cớ để cho kẻ thù của dân tộc" có cơ hội trốn thoát (?) như
lời tố cáo của các ông lăo thành cách mạng ở miền Nam, rằng: "Trong cuộc đảo
chánh Nhâ.t-Pháp ngày 9-3-1945,quân Nhật bắt được toàn quyền Pháp ở Đông Dương
là Decoux, và Thống đốc Nam kỳ là Hoffen tại Sàig̣n, sau đó đem về giam tại nhà
De Lalant, chủ đồn điền cao su Lộc Ninh. Đồng chí Năm Thi được giao nhiệm vụ dẫn
một đội vũ trang lên Lộc Ninh t́m cách bắt sống hoặc tiêu diệt tiểu đội bảo vệ
của Nhật, rồi tổ chức dẫn độ Decoux và đồng bọn lên Buôn Mê Thuột, để đưa ra Bắc
chuyển giao cho Trung ương. Đồng chí Năm Thi đă bàn bạc với Lê Đức Anh và nhất
trí lên kế hoạch hành động. Nhưng đêm hôm sau, Lê Đức Anh bất ngờ hủy bỏ kế
hoạch, viện cớ sẽ bị quân Nhật kéo lên khủng bố, phá vở cơ sở của ỵ" Kế hoạch
bắt Decoux và đồng bọ không thành, nên Tỉnh ủy Thủ Dầu Một chủ trương chặn đường
quân Nhật đưa Decoux và đồng bọn về Sàig̣n trao cho quân Anh, bằng cách "đốn cây
cản đường từ Lộc Ninh về Hớn Quảng rồi phục kích tiêu diệt lực lượng áp giải để
bắt bọn Decoux, đơn vị của Lê Đức Anh đă được bổ sung thêm vũ khí để thực hiện
nhiệm vụ này. Y đă nhận lệnh nhưng đă tránh né, cử người khác làm thay. Tên này
đă lệnh cho tự vệ dọn dẹp cây và mở đường cho quân Nhật đưa Decoux, Hoffen và
đồng bọn về Sàig̣n an toàn." (Trích trong thư gửi cho các cấp Trung ương Đảng
CSVN, để ngày 3-2-2005, của ba ông Nguyễn Văn Xô, Đồng Văn Cống, Nguyễn Văn
Thi).
Theo sự tiết lộ của ông Vơ Xuân Nhâm (Sáu Nhâm, c̣n có biệt danh là Sáu Tối
Trời, nguyên Đặc phái viên của Ban T́nh báo Nam bộ trong thời kháng chiến chống
Pháp (1945-1954), th́ trong Hồ sơ của pḥng Phản gián/Ban T́nh báo Nam bộ, vào
năm 1947, những cán bộ đă bị t́nh nghi có liên hệ với 3ẻ Bureau Pháp là Lê Văn
Viễn (Bảy Viễn), Trịnh Khánh Vàng, và Cai Lé Lê Đức Anh (?)
Nếu Lê Đức Anh không cố t́nh làm hỏng kế hoạch phối hợp hành động cùng ông Năm
Thi, để bắt Decoux và đồng bọn, th́ tại sao trong cuốn sách nói về quá tŕnh
cách mạng của Lê Đức Anh, in vào tháng 9-2005 (nghĩa là thư tố cáo vừa đề cập,
đă đến tay Bộ Chính Trị từ tháng 2-2005, cũng có nghĩa là Lê Đức Anh đă nghe
được lời tố cáo của các nhà lăo thành cách mạng ở miền Nam, đều là cấp trên của
ông hồi 1945, trước khi cuốn sách đưa đi in đến 7 tháng), thế mà không có một
lời giải thích nào, trong suốt Phần II của cuốn sách!
Đây chính là một nghi án chính trị rất nghiêm trọng đối với Lê Đức Anh!
2- Thổi phồng vai tṛ và tài năng "đánh giặc Pháp ở miền Đông Nam bộ", nhằm tô
vẽ cho Lê Đức Anh ở thời kỳ sau!
Sự thật này, đă được ghi rơ ràng như sau: "Đội vơ trang của Lê Đức Anh vẫn đứng
chân hoạt động ở vùng Bến Cát, Chơn Thành thuộc tỉnh Thủ Dầu Một, ngày đêm đánh
với quân Pháp… Khi ông Vũ Đức từ miền Bắc vào lập căn cứ ở vùng cao su Thuận
Lợi, mời ông Lê Đức Anh sang đề nghị cho quân ra chặn trước ở cầu Phước Ḥa, c̣n
bản doanh của ông Đức th́ ở phía sau, chỗ đường 14." "Binh đoàn Lơ-c̣-Léc của
bọn Pháp rất mạnh… mà phải chùn lại khi đụng đầu với đơn vị của ông Lê Đức Anh
tại chiến khu Thuận Lợi… Đơn vị (của Lê Đức Anh) đă bẻ gẫy, làm thất bại tất
cả các đợt tiến công của quân địch… để cho toàn bộ sở chỉ huy của ông Vũ Đức
rút về địa bàn miền Tây Nam bộ an toàn…" (sách đă dẫn, các trang 35, 36, 37).
Trong thời gian này, ông Nguyễn Văn Thi (Năm Thi) là ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy
Thủ Dầu Một, đồng thời là Chi đội phó kiêm Tham mưu trưởng Chi đội I của tỉnh
Thủ Dầu Một, và Lê Đức Anh mới chỉ là Chính Trị viên của Đại Đội 3 thuộc Chi Đội
I (Lê Đức Anh cũng thừa nhận chức vụ này, sách đă dẫn, trang 41).
Nhưng, sự thật về vai tṛ của Lê Đức Anh trong sự kiện lịch sử về chiến khu
Thuận Lợi, th́ hoàn toàn không đúng như vậy! Sự thật đă được vạch trần như sau:
"Để chuẩn bị cơ sở vật chất cho cuộc kháng chiến, Đảng bộ miền Đông Nam bộ chủ
trương di chuyển máy móc, thiết bị, vật tư, lương thực của các đồn điền cao su
và các địa phương miền Đông Nam bộ về khu vực Thuận Lợi (Phú Riềng cũ) thuộc
công ty cao su Dầu Tiếng, là địa bàn ở sâu trong địa phương ta.Trong khi quân
Pháp tập kích Thuận Lợi, nhưng Lê Đức Anh và lực lượng vơ trang thuộc quyền của
y đang đóng trên đất Thuận Lợi, đă không tổ chức chiến đấu đánh trả quân địch mà
bỏ chạy dài về Cổng Xanh, chiến khu Đ. Do đó, Thuận Lợi đă bị quân Pháp đốt cháy
toàn bộ kho tang, nhà cửa trong 3 ngày đêm." (Xem thư tố cáo, ngày 3-2-2005, của
ba ông Nguyễn Văn Xô, Đồng Văn Cống, Nguyễn Văn Thi).
Và… sau đây lại là một sự bịa đặt nữa của Lê Đức Anh, khi ông ta kể cho Khuất
Biên Ḥa ghi rằng: "Một lần, ông B́nh đă cử hai ông Phạm Thiều và Huỳnh Văn Nghệ
lên chiêc tàu chiến của Pháp trên sông Đồng Nai để đàm phán. Tôi (Lê Đức Anh) đă
gặp ông (Nguyễn B́nh) và có ư kiến rằng không nên làm như vậy, chỉ có cấp Chính
phủ mới đủ tư cách đàm phán với quân Pháp… Có lẽ v́ tôi (Lê Đức Anh) phản ứng
khá gay gắt nên ông (Nguyễn B́nh) giận và nảy ra ư định bắt và "trị" tôi. Khi
anh Nguyễn Văn Hội hớt hăi đến báo cho tôi tin đó, tôi liền mượn chiếc xe có hai
ḅ kéo của một ông già, vượt đoạn đường rừng lên thẳng chỗ ông B́nh ở Long An,
nói: Có phải anh giận tôi v́ tôi gàn anh về chuyện đàm phán với quân Pháp? Ông
không nói ǵ về việc này mà chỉ mời tôi ở lại ăn cơm rồi trở về đơn vi.." (sách
đă dẫn, trang 39-40).
[Chuyện đi xe ḅ kéo…rất vô lư mà Lê Đức Anh cũng nói được (!?) Từ Chiến khu Đ
về Long An, phải vượt qua những cánh rừng hoang, vượt qua mấy con sông, làm sao
có đường ṃn để xe ḅ chạy? Và làm thế nào có đó để chở xe ḅ qua sông? Lê Đức
Anh chỉ gạt con nít và những người không biết mà thôi!]
Theo nhiều cán bộ quân sự chỉ huy cấp Chi Đội ở chiến trường miền Đông Nam bộ
trong hai năm 1945-1946 (như Nguyễn Văn Thi Chính trị viên Chi đội 1, Lê Văn
Chẳng Chi đội trưởng Chi đội 2, Ngô Tấn Lực Chi đội trưởng Chi đội 3, Huỳnh Văn
Trí Chi đội trưởng Chi đội 4, Nguyễn Văn Hoành Chi đội trưởng Chi đội 21, Lâm
Văn Đức Chi đội trưởng Chi đội 15 v.v…) đều biết rằng: Khi nghe tin Tư lệnh
Nguyễn B́nh có ư định xử tử Lê Đức Anh v́ tội chưa đánh giặc đă bỏ chạy, để cho
quân Pháp thiêu hủy toàn bộ tài sản của cách mạng và nhân dân tại chiến khu
Thuận Lợi, Lê Đức Anh liền dẫn số quân dưới quyền, bỏ trốn về vùng Bắc Bến Cát.
Vậy mà Lê Đức Anh vẫn tiếp tục bịa chuyện, đánh tráo sự thật lịch sử, như sau:
"Cuối năm 1948, ông Lê Đức Anh được điều về làm Tham mưu trưởng khu 7, Tư lệnh
khu 7 là tướng Nguyễn B́nh." (sách đă dẫn, trang 46).
Sự thật là, năm 1948, tướng Nguyễn B́nh đă làm Tư lệnh Quân sự Nam bộ. Và Lê Văn
Viễn (tức Bảy Viễn-B́nh Xuyên) nguyên Chi đội trưởng Chi đội 9 kiêm Khu bộ phó
khu 7, đă được tướng Nguyễn B́nh đưa lên giữ chức Khu bộ trưởng khu 7, Nguyễn
Văn Trấn (tức Bảy Trấn, tức Hai Cù Nèo) làm Chính ủy khu 7, Huỳnh Văn Nghệ (tức
Tám Nghệ) làm Khu bộ phó khu 7 kiêm Tham mưu trưởng (căn cứ theo lời kể của
những cán bộ lăo thành, đă từng cộng tác ở quân khu 7, trong những năm
1946-1949, do pḥng lịch sử quân sự của quân khu 7 ghi âm để làm tài liệụ) Sau
khi Bảy Viễn bỏ chiến khu về hợp tác với Pháp (1949), th́ quân khu 7 do Huỳnh
Văn Nghệ làm khu bô trưởng…C̣n ông Lê Đức Anh có làm Tham mưu trưởng quân khu
7 hay không, chúng tôi không biết?
Tại sao Lê Đức Anh dám bịa chuyện trắng trợn như vậy? Có phải Lê Đức Anh nghĩ
rằng những chứng nhân lịch sử như Nguyễn B́nh, Nguyễn Văn Trấn, Huỳnh Văn Nghệ
… đă chết hết rồi, và với tư cách "Đại tướng Chủ tịch nước" Lê Đức Anh chủ
quan tin rằng mọi người sẽ tin lời nói của ông hơn là những lời nói của người
khác? Ông Lê Đức Anh đă lầm! Không ai có thể che dấu được sự thật lịch sử! Sớm
hay muộn những điều dối trá sẽ được phơi bày dưới ánh sáng của mặt trời chân lư!
III- Trên chiến trường "Đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào", từ trang 53 đến trang 154.
Sự: Lộng Giả Thành Chân" ở phần này là cố tạo ra cái gọi là "sáng suốt hơn cấp
trên trong những t́nh hống gay go nhất" - Phần này có thể coi là phần căn bản,
quan trọng nhất của cuốn sách, v́ nhờ giai đoạn này (1963-1975) mà Lê Đức Anh
được thăng vượt cấp, từ Đại tá lên Trung tướng … và mở ra thời kỳ "lên ngôi
Chủ tịch nước" vào hơn một thập niên sau này, theo con đường phi chính thường"
của lịch sử Đảng CSVN!
Năm 1955, tập kết ra bắc, Lê Đức Anh được làm Cục phó Cục tác chiến/Bộ Tổng Tham
mưu…Và đến năm 1963 ông được thăng chức Phó Tổng tham mưu trưởng (sách đă dẫn,
trang 62- Nhưng ông LĐA không hề cho biết cấp bậc là Trung tá hay Đại tá?). Cuối
năm 1963, Lê Đức Anh được cử về chiến trường B2 (Nam bộ) và được giữ chức Tham
mưu trưởng Bộ Chỉ huy Miền (sách đă dẫn, trang 65). Sau chiến dịch B́nh Giả -
Đồng Xoài (1964-1965), Lê Đức Anh tự hào kể rằng:
"Cuối năm 1966, ông được Trung ương gọi ra miền Bắc để báo cáo t́nh h́nh mọi mặt
của chiến trường miền Nam." (sách đă dẫn, trang 72).
Thật là khó hiểu!
Nhiều cán bộ lănh đạo Trung Ương Cục như: Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Bí thư
Trung ương Cục (vào B2 từ cuối 1964, cùng với các tướng Lê Trọng Tấn, Nguyễn
Ḥa, Hoàng Cầm, Trần Độ), Nguyễn Văn Linh (nguyên Bí thư Trung ương cục trước
năm 1964, nay là Phó Bí thư Trung ương cục ), Vơ Văn Kiệt, ủy viên trung ương
cục kiêm Bí thư Khu ủy Sàig̣n-Gia Định: Mai Chí Thọ, ủy viên trung ương cục kiêm
Bí thư Khu ủy Miền Đông Nam Bộ, Trung tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh Bộ Chỉ huy
Miền v.v… Đó là những cán bộ đă bám trụ từ sau năm 1954 và đă từng lăn lóc với
chiến trường B2, nhiều năm trước khi Lê Đức Anh vào (cuối 1963). Họ nắm chắc và
hiểu biết t́nh h́nh hơn Lê Đức Anh nhiều!
Vậy mà Trung ương Đảng không gọi ai trong số cán bộ lănh đạo có thẩm quyền báo
cáo nhất của Trung ương Cục, mà lại gọi một viên Thượng tá Lê Đức Anh trực tiếp
ra báo cáo? Ông Hồ Chí Minh và Lê Duẩn đă lẩm cẩm rồi hay sao? Các ông ấy làm
việc đến không có nguyên tắc tổ chức như vậy hay sao? Không bao giờ! Chắc chắn
ông Lê Đức Anh cường điệu và đề cao ḿnh, mà không lo có người "vạch áo xem
lưng", bởi v́ những chứng nhân thời gian này, những người hiểu rơ sự việc đă
chết hết rồi (?)
Nhưng, xui xẻo cho Lê Đức Anh, trong kho lưu trữ Hồ Sơ trong thời kỳ chống Mỹ,
tại Cục Lưu Trữ Trung Ương (Hànội), "cộng tác viên" của chúng tôi đă t́m được
bức điện tín của Bộ Chính Trị gửi cho Trung ương cục, về việc cho người ra Hànội
báo cáo t́nh h́nh chiến trường B2, sau chiến thắng Đồng Xoài, như sau: "Hànội
ngày 5 tháng 9 năm 1966. Bộ Chính Trị gửi Trung ương Cục và Quân ủy Miền stop.
Bác Hồ và đ/c Lê Duẩn cần nghe các đ/c trực tiếp báo cáo t́nh h́nh của chiến
trường B2, trước khi bước sang năm 1967 stop. Trường Chinh kư stop."
Từ nội dung bức điện báo này, chúng ta có thể suy luận rằng: Có lẽ v́ các cán bộ
lănh đạo của Trung ương cục đều bận lo chuẩn bị cho chiến dịch Tổng công kích
vào Tết Mậu Thân 1968, nên chỉ viết báo cáo và cử Lê Đức Anh, là người chưa trực
tiếp nắm cơ sở, đi ra Hànội và thay mặt Trung ương Cục để báo cáo với ông Hồ Chí
Minh và Lê Duẩn?
Khi Liên quân Mỹ-VNCH mở chiến dịch Junction-city, bắt đầu vào ngày 1-2-1967,
nhằm triệt hạ Chiến khu Dương Minh Châu (thuộc huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh),
để tiêu diệt các cơ quan đầu năo của Việt Cộng (Trung ương cục, Bộ Chỉ huy Miền
và cơ quan trung ương MTDTGPMNVN), th́ Lê Đức Anh khoe khoang như sau:
Trong cuộc họp giữa Trung ương cục và Bộ Chỉ huy Miền, để bàn về việc nên rút
khỏi chiến khu Dương Minh Châu hay bám trụ chống giặc? Trong khi mọi người c̣n
đang phân vân, chưa có ư kiến quyết định, th́ Lê Đức Anh đề xuất ư kiến rằng:
"Trung ương cục và Bộ Chỉ huy Miền cần phải di chuyển ra khỏi tầm phi pháo của
chúng để bảo đảm an toàn, nhưng cũng chỉ những người, những tổ chức thật cần
thiết, và phải gọn nhẹ; c̣n cơ bẳn là ở tại chỗ, chúng ta sẽ tổ chức đánh địch
bằng phương thức mới… Bộ tư lệnh Miền và Trung ương cục nhất trí với đề xuất
này và giao cho ông việc tổ chức lực lượng đánh địch tại chỗ. Ông Anh đảm nhiệm
cương vị "Tỉnh Đội Trưởng"…" (sách đă dẫn, các trang 74-75-76).
Vô h́nh trung, độc giả không biết ǵ về lịch sử chiến tranh Viê.t-Mỹ trong thời
kỳ này, đọc các ḍng chữ trên đây, đều có thể ngộ nhận rằng: "Chính ông Lê Đức
Anh đă chỉ huy đánh bại chiến dịch Junction-City của Liên quân Mỹ-VNCH" (!?)
Thật ra, bất cứ một cán bộ Việt Cộng nào biết suy nghĩ về "tính hợp lư" (tính
logic) của câu chuyện, th́ không một ai tin vào lời kể của Lê Đức Anh cả! Đừng
nói tới vai tṛ lănh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Cục, như các ông Nguyễn
Văn Linh, Nguyễn Văn Đáng, Phạm Văn Xô, Vơ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ…). Hăy kể tới
các cán bộ lănh đạo của Bộ Chỉ huy Miền, như Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Trung
tướng Trần Văn Trà, trung tướng Lê Trọng Tấn, Thiếu tướng Nguyễn Ḥa, Thiếu
tướng Trần Độ, Thiếu tướng Hoàng Cầm…Những vị ấy không ai hiểu được t́nh thế
hiểm nguy trước cuộc càn quét của Liên quân Mỹ-VNCH hay sao? Không có vị nào có
khả năng chỉ huy tổ chức chống sự càn quét của Mỹ hay sao? Hay cả bọn họ đều sợ,
ngoại trừ Lê Đức Anh?
V́ rằng, để tiến hành chiến dịch Junction-City, riêng quân lực của Hoa kỳ đă
tung vào cuộc chiến với một lực lượng khổng lồ: 45.000 quân, 1.200 xe tăng và
thiết giáp, 250 khẩu pháo, 600 máy bay chiến đấu và vận tải; trong đó có Sư đoàn
bộ binh số 1 "Anh cả đỏ", Sư đoàn 25 "Tia chớp nhiệt đới", Sư đoàn bộ binh số 9,
Lữ đoàn dù 173,Lữ đoàn bộ binh nhẹ 196, Lữ đoàn kỵ binh thiết giáp số 11: cùng 2
chiến đoàn của quân lực VNCH. Ngoài ra, Hoa Kỳ c̣n sử dụng máy bay B.52 ném bom
hủy diệt từng vùng để yểm trợ các cuộc hành quân "t́m diệt"! – (Theo bản tin
tổng hợp của AFP, tháng 4-1967).
Thực tế đó, toàn bộ các tướng trong Bộ Chỉ huy Miền, chẵng lẽ đều hoảng sợ đến
nỗi không biết nên làm thế nào, để cho Lê Đức chỉ huy hay sao? Nếu Lê Đức Anh
tài ba như thế, tại sao sau đó, ông ta vẫn chưa được thăng chức?
Cứ cái đà cường điệu như thế, trong cuộc Tổng công kích năm Mậu Thân 1968, sau
đợt I (31/1 đến 25/2/1968), Lê Đức Anh kể rằng: "tôi có gặp anh Trần Bạch Đằng
(anh Trần Bạch Đằng cùng ở Tiền phương II với anh Vơ Văn Kiệt) anh Linh cũng
đang có mặt tại đây. Tôi đề xuất không nên mở đợt 2 đánh vào nội đô nữa v́ không
c̣n yếu tố bí mật bất ngờ." Và sau khi đợt II kết thúc (5/5 đến 12/8/1968) Lê
Đức Anh nói: "tôi đề nghi dứt khoát thôi, rút ra. Dân chỉ giúp đỡ chớ không "nổi
dậy" th́ quân ta không ở nửa, rút ra!" (sách đă dẫn, trang 90-91).
Theo biên bản Tổng kết Bài học Thành công và Thất bại của cuộc Tổng tấn công và
Nổi dậy năm 1968 của cuộc họp liên tịch mở rộng giữa Trung ương cục với Quân ủy
Miền, từ ngày 15/12 đến 20/12/1971 (tại căn cứ địa của Trung ương cục trên đất
Campuchia, trong một khu rừng bên ḍng sông Mékong, thuộc vùng đất của tỉnh
Stung-Treng), th́ không thấy có ư kiến phát biểu của Lê Đức Anh? Những ư kiến
"mất yếu tố bí mật, bất ngờ" hay "dân chúng chỉ giúp đỡ Quân Giải Phóng mà không
nổi dậy" có ghi trrong biên bản, ở phần " Bài Học Thất Bại của Đợi 2 và Đợt 3"
th́ thấy có ư kiến của các ông: Vơ Văn Kiệt, Trần Văn Trà, Hoàng Văn Thái, Mai
Chí Thọ, Trần Bạch Đằng và Trần Hải Phụng… Bây giờ, sau hơn 30 năm, ông Lê Đức
Anh lại lấy ư kiến tổng kết của tập thể làm ư kiến riêng của ḿnh! Như vậy, ông
Lê Đức Anh đă trở thanh kẻ mang danh Đạo Ư (thay v́ Đạo Văn), nhưng chưa thấy
nhà thơ nào phát huy truyền thống của cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu, làm thơ "tặng" cho
ngài "Đại tướng Lê Đức Anh"?
Sự "Lộng Giả Thành Chân" của Lê Đức Anh vào thời kỳ 1969-1975, là dựa vào cây
cột trụ Lê Duẩn để dương dương tự đắc! Không hiểu giữa Lê Duẩn với Lê Đức Anh có
quan hệ ǵ bên trong "bức màn bí mật’ về tư riêng trong quá tŕnh gọi là "hoạt
động cách mạng" của họ? Hăy nghiên cứu kỹ cuốn sách đă dẫn, từ trang 95 cho đến
hết phần III, th́ sẽ rơ! Dưới đây, chúng tôi chỉ đưa ra thí dụ điển h́nh, để
minh họa cho ḍng tư tưởng "gọi ta là người tài giỏi hơn người" của ông tướng
xuất thân từ "Cai đồn điền".
Theo sách đă dẫn: Sau Mậu Thân 1968, Lê Đức Anh cùng ra Bắc với Trung tướng
Hoàng Văn Thái và Bí thư Trung ương cục Phạm Hùng (sau khi Nguyễn Chí Thanh
chết, Phạm Hùng đương kim Phó Thủ tướng Chính phủ VNDCCH, từ Hànội vào thay thế,
chỉ huy cuộc Tổng tấn công Mậu Thận 1968).
Ở Hànội, Lê Đức Anh cho biết: "Tôi gặp anh Lê Duẩn, được phổ biến là tôi sẽ về
phụ trách Quân khu 9…" (sđd, tr. 96)
Lê Đức Anh cũng cho biết:" Được Bác gọi lên. Tôi báo cáo với Bác làm như thế…
thắng như thế… Bác bảo ăn cơm với Bác…Bác bảo:"… Chú hăy chuẩn bị để đưa
Bác vào thăm đồng bào và chiến sĩ miền Nam."… "Tôi bảo anh Phạm Hùng, bếu anh
đồng ư th́ tôi tổ chức (đưa Bác vào Nam) được…"(sđd, tr. 96)
Tháng 7-1969, Lê Đức Anh trở vào Nam, Lê Đức Anh cho biết: "tôi được cấp trên
giao nhiệm vụ đảm trách Tư lệnh Quân khu 9, anh Vơ Văn Kiệt làm Chính ủy kiêm Bí
thư khu ủỵ" (sđd, tr. 99).
Ông Lê Đức Anh đă xem chiến trường khu 9 (mật danh T3) là nơi "dụng vơ của anh
hùng cá nhân"! V́ vậy, ông đă không nghe lệnh cấp trên, khi ông thấy cấp trên ra
lệnh không đúng ư của ông! Thí dụ như: "khi Quân khu 9 đang tổ chức đánh địch
b́nh định lấn chiếm… th́ Bộ chỉ huy Miền có chỉ thị rút 2 trung đoàn chủ lực
về căn cứ U Minh để củng cố. Trung ương Cục c̣n điện hai lần yêu cầu T3 (…)
phải thấy t́nh h́nh mới, phải có biện pháp mới (điện số 05 và 07), c̣n Bộ chỉ
huy Miền th́ điện phê b́nh T3 không thi hành chủ trương của trung ương Cục và
thông báo cho toàn Miền. Lúc đó có ư kiến cho rằng Tây Nam Bộ "không thực hiện
Hiệp định Paris" Mặc dù có điện, nhưng ông Anh ra lệnh cho đồng chí Hai Minh,
trợ lư tác chiến cùng tổ điện đài sở chỉ huy tiếp tục truyền đạt các mệnh lệnh
của ông chỉ đạo các đơn vị đánh đi.ch." (sđd, tr. 117-118). Nói ra sự việc này,
Đại tá Lê Đức Anh muốn chứng tỏ rằng Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền đều sai
lầm, nên ông chủ động hành động, không chấp hành lệnh của cấp trên? Khách quan
mà xét: Đây phải là quyết định chung của Quân khu ủy và được sự chấp thuận của
Khu uy Khu 9, mới thuận lư? Nhưng, theo sách đă dẫn, ông Lê Đức Anh tự quyết
định?
Lê Đức Anh đă coi ḿnh là nhân vật quan trọng hơn cả Bí thư khu ủy Vơ Văn Kiệt,
như khi kể lại sự việc sau đây: "Sau khi Trung ương có Nghị quyết 21, Bộ Chính
trị cử các ông Tố Hữu, Đinh Đức Thiện, Nguyễn Thọ Chân vào miền Nam truyền đạt
nghị quyết. Nhưng đồng chí Lê Duẩn c̣n băn khoăn một điều là nghị quyết như vậy
có sát với t́nh h́nh thực tế chiến trường hay chưa, nên gọi đại diện lănh đạo
các quân khu phía Nam ra, để nghe trực tiếp báo cáo. Quân khu 9 đă cử ông Vơ Văn
Kiệt đi. Sau đó, ông Lê Duẩn gọi tiếp ông Lê Đức Anh ra báo cáọ" (sđd, tr. 123)
Thực tế này cũng chứng tỏ rằng: Lê Duẩn đă công khai nâng cao vai tṛ quân sự và
chính trị của Lê Đức Anh trên chiến trường miền Nam, để biến Lê Đức Anh trở
thành một đàn em tuyệt đối trung thành với tập đoàn thống trị độc tài: Lê
Duẩn-Lê Đức Tho.-Lê Đức Anh, trong những năm sau tháng Tư 1975 (!)
Ông Lê Đức Anh đề cao ḿnh bằng cách khoe rằng: Ra đến Hànội, người đầu tiên đến
thăm ông là Đại tướng Văn Tiến Dũng. Hôm sau, ông được mời ăn cơm chung với các
vị Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ. Sau bữa ăn, Lê Duẩn đă gặp riêng Lê Đức
Anh và bảo: "Về nói với anh Hùng, anh Trà, bàn trong nội bộ làm kế hoạch tác
chiến và cùng với ngoài này, tích cực chuẩn bị mọi mặt để có thể giải phóng
nhanh nhất." (sđd, trang 125)
Một viên "Đại tá" mà được "tín nhiệm" thuộc hàng "Đại tướng" như vậy, thật là
hiếm có trong tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ trước đến bấy giờ (?)
Khi Lê Đức Anh trở về đến B2, th́ nhận được quyết định của trung ương cho ông
thăng cấp Trung tướng, nghĩa là vượt 2 cấp vào đầu năm 1974, giữ chức Tham mưu
trưởng Bộ chỉ huy Miền (Thiếu tướng Đồng Văn Cống thay Lê Đức Anh làm Tư lệnh
Quân khu 9)…
Khi bước vào Chiến dịch Hồ Chí Minh, Lê Đức Anh lại tự hào khoe rằng:"Tôi là Phó
Tư lệnh chiến dịch nhưng được giao đảm trách chỉ huy cánh quân tiến công hướng
Tây-Tây Nam…." (sđd, trang 141)
Rơ ràng, Lê Đức Anh muốn cho độc giả biết ông là một nhân vật rất quan trọng. Do
đó, ông không hề đề cập đến danh sách của toàn bộ Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch. Theo
"Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam" tập II (1954-1975) th́ Đảng ủy Bộ Tư Lệnh Chiến
dịch Giải phóng Sàig̣n gồm có: Đại tướng Văn Tiến Dũng (Tư Lệnh), Bí thư Trung
ương cục Phạm Hùng (Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy), Tư lệnh Bộ chỉ huy Miền
Thượng tướng Trần Văn Trà (Phó Tư lệnh thứ nhất kiêm Tham mưu trưởng) và các Phó
tư lệnh chiến dịch là: Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Lê Trọng Tấn; Phó
Chính ủy chiến dịch là Thiếu tướng Lê Quang Ḥa... (Sách đă dẫn, nhà xb Chính
trị Quốc gia, Hànội, 1995, trang 706).
Sự lộng giả thành chân của Lê Đức Anh ở Phần III trong cuốn sách này, là chuẩn
bị cho vai tṛ của ông trong giai đoạn lịch sử 1979-1990 trên đất Campuchia *!)
o0o
Trước khi xem xét phần IV của cuốn sách này, chúng tôi mở một dấu ngoặc về đời
tư của ông Lê Đức Anh. Đúng ra, chúng tôi không muốn đề cập đến quyền tư ẩn của
con người, nhưng v́ ở đây, cái gọi là đời tư đó lại sai phạm rất nghiêm trọng về
mặt đạo đức! Nguyên là khi đi tập kết ra miền Bắc, ông Lê Đức Anh không có mang
vợ theo (sự thật đó, cũng là t́nh trạng chung của đại đa số cán bộ và chiến sĩ
miền Nam đi tập kết! Đây cũng chính là ư đồ thâm sâu của Trung ương Đảng CSVN,
nhằm chuẩn bị cơ sở cho công cuộc lật đổ chế độ VNCH!) Nhưng, ở miền Bắc được
mấy năm, Lê Đức Anh không chịu đựng được cái cảnh "pḥng không", nên xin ông
Trưởng Ban Tổ chức Lê Đức Thọ cho ông ta cưới vợ mới. Lẽ đương nhiên là Lê Đức
Thọ không bao giờ từ chối, v́ cùng là "cá mè một lứa". Khi Lê Đức Thọ vào Nam
bộ, trong thời kháng chiến chống Pháp, chưa đầy một năm Lê Đức Thọ cũng lấy vợ
mới – Lê Duẩn cũng vậy – Cho nên Lê Đức Thọ chấp thuận cho Lê Đức Anh lấy vợ
mớị
Thật ra, nếu câu chuyện dừng lại chỗ này, th́ không có ǵ đáng phê phán. Nhưng
điều đáng phê phán chính là ở đoạn thư tố cáo này: "Trong quan hệ gia đ́nh LĐA
là người chồng phản bội, ra Bắc được mấy năm, LĐA nói với đồng chí Ba Cống (tức
Thiếu tướng Đống Văn Cống) là sẽ xin lấy vợ khác, v́ bà Ba Anh ở trong Nam đă
lấy chồng, lại thuộc thành phần gia đ́nh phản động làm tay sai cho địch…."
Nhưng, sự thật là "vợ LĐA đang hoạt động cách mạng, làm ủy viên tỉnh ủy B́nh
Dương cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng." (Nguyễn Văn Thi, thư ngày
7-11-2005, đă dẫn).
Để thỏa măn dục vọng cá nhân, mà dựng chuyện nói xấu người vợ một ḷng chung
thủy với chồng, tuyệt đối trung thành với cách mạng, th́ Lê Đức Anh quả thật đă
phạm một tội ác về đạo đức làm người!
IV- Làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, từ trang 155 đến trang 207. Sự "Lộng Giả
Thành Chân" ở phần này chủ yếu là: Lê Đức Anh đỗ hết mọi tội lỗi đă gây ra trên
"Đất Bạn" cho cấp dưới, đồng thời tô vẽ cho ḿnh cái "danh dự" gọi là "hơn mười
năm giúp bạn", nhằm trèo lên nấc thang cao nhất của danh vọng cộng sản (!)
Sau ngày 30-4-1975, Lê Đức Anh được cử làm Tư Lệnh Quân khu 9 mới (bao gồm khu 9
và khu 8 cũ). Đến năm 1977, Lê Đức Anh được điều về làm Tư Lệnh Quân khu 7 kiêm
"chỉ huy trưởng tiền phương" của Bộ Quốc pḥng ở phía Nam…(Theo sđd, từ trang
155 đến trang 159). Đến tháng 1-1980, Lê Đức Anh được thăng cấp Thượng tướng.
Từ tháng 5-1977 đến tháng 12-1978, là thời kỳ "chiến tranh biên giới TâyNam:-
Quân của Pôn Pốt (được sự yểm trợ của Trung Cộng) đă mở nhiều cuộc tấn công trên
toàn tuyến biên giới phía Nam (từ quân khu 9 đến quân khu 5). Ngày 23-12-1978,
quân đội CSVN bắt đầu phản công quân Pôn Pốt trên khắp mặt trận… Và đến ngày
7-1-1979, quân CSVN đă chiếm được Phnom-Pênh… và dựng lên cái gọi là Hội Đồng
Nhân Dân Cách Mạng Campuchia do Heng-Somrin làm Chủ tịch!
Sự lập lờ của Lê Đức Anh trong thời kỳ lịch sử (từ 23-12-1978 đến 7-1-1979) là
không đề cập rơ ràng về Bộ Chỉ huy Tối cao của Chiến dịch Tổng tấn công
Campuchia, gồm có: Lê Đức Thọ (Tư lệnh), Phạm Hùng (Chính ủy), Chu Huy Mân (Phó
tư lệnh), Trần Xuân Bách (Phó chính ủy), Lê Đức Anh (Tham mưu trưởng kiêm Tư
lệnh Quân T́nh nguyện Việt Nam).
Lê Đức Anh chỉ cho độc giả biết như sau:
"Có một lần, Tổng Bí thư Lê Duẩn cho gọi anh Lê Trọng Tấn và tôi lên, có cả đồng
chí Phi Long, Cục phó Tác chiến mới… Đồng chí bảo: "Cố gắng làm xong sớm rồi
rút quân ở Campuchia về Nam bộ làm ruộng… " (sđd, trang163)
Mặt khác,Lê Đức Anh cố ư đề cao Lê Đức Thọ, hàm chứa sự đề cao cho chính ông,
như cách nói sau đây: "Khi có một số anh em không hiểu rơ nên cứ nói rằng "Công
việc ở Campuchia cứ giao tất cho anh Sáu Nam (LĐA) cũng được rồi, cần ǵ phải có
đồng chí Sáu Thọ (Lê Đức Thọ) nữạ" Ông Lê Đức Anh bảo "Không được!..." "ông Lê
Đức Thọ là người đại diện cho Bộ Chính trị, trực tiếp chỉ đạo giải quyết chiến
tranh biên giới Tây Nam và nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia…" (sđd, trang
170-171).
Lê Đức Anh không nói ǵ đến vai tṛ của Phạm Hùng, Chu Huy Mân và Trần Xuân Bách
(?), mà chỉ nói qua về Lê Trọng Tấn. Nhưng, Lê Đức Anh lại ca ngợi đến "chín
tầng mây" đối với Lê Đức Thọ, rằng: "ông Thọ là người thiết kế từ đầu, là người
quyết định những vấn đề lớn, như xây dựng lực lượng, phương thức tiến hành,
phương án chiến đấu, điều binh khiển tướng." Mục đích ca ngợi Lê Đức Thọ của Lê
Đức Anh là nhằm để đề cao ḿnh, rằng: "Khi Trung ương lần lượt gọi anh Tấn và
ông Thọ về nước th́ giao lại cho tôị" (sđd, trang 171), Trong thực tế, đúng như
Lê Đức Anh đă tự hàọ Bởi v́ từ 1981 (Lê Đức Anh đă được đề bạt giữ chức Thứ
trưởng Bộ Quốc Pḥng) đến 1990, Lê Đức Anh là Tư lệnh tối cao cũa Quân T́nh
nguyện Việt Nam ở Campuchia, bao gồm hai khối-Lực lượng quân đội và Đoàn chuyên
gia! Đó cũng là thời gian lộng hành kiểu "bạo chúa thời trung cổ" của Lê Đức Anh
trên đất Chùa Tháp!
Lê Đức Anh đă khôn khéo che dấu tội lỗi của ông, làm tổn hại quá lớn lao đối với
Đảng Nhân Dân Cách mạng và Dân tộc Campuchia, bằng cách biện minh rằng:
"Trong hơn mười năm sống, chiến đấu, công tác gian khổ và cam go trên đất bạn,
trong hơn mười vạn Quân t́nh nguyện,cũng có một số cá nhân và đơn vị vi phạm kỷ
luật dân vận, nhưng số này không nhiều, và xác đơn vị đă ngăn chặn và thi hành
kỷ luật nghiêm khắc…… Bởi vậy không chỉ có lănh đạo của bạn, mà cả nhân dân
Campuchia, cả vua Săi và Quốc vương đều nói Quân t́nh nguyện Việt Nam là "Quân
đội nhà Phật" (sđd, trang 172)
Rơ ràng, khi Lê Đức Anh viện dẫn câu nói của vua Săi và Quốc vương Campuchia là:
Quân t́nh nguyện Việt Nam là "Quân đội nhà Phật" (?), cũng có nghĩa là người cầm
đầu quân đội đó là "Phật sống" (?)
Vậy ông "Phật sống" Lê Đức Anh đă làm nên tội lỗi ǵ trên đất Campuchia, trong
mười năm đóng vai "ngoài miệng th́ Nam Mô A Di Đà, trong bụng lại chứa một bồ
dao găm"???
Tội lỗi của Lê Đức Anh đă gây ra trên đất Campuchia, thật là không kể sao cho
hết, nếu nhà nghiên cứu nào chịu khó để ra vài năm thời gian, đi khắp đất nước
Campuchia, điều tra nghiên cứu trong dân gian, chắc chắn sẽ thu thập được nhiều
tư liệu sống, để viết một cuốn sách hàng ngh́n trang về "Tội ác của Lê Đức Anh
trên đất Chùa Tháp"! Nhưng, trong cuốn sách "Đại tướng Lê Đức Anh" của Khuất
Biên Ḥa th́ chỉ thấy có công "lớn như trời biển", c̣n lỗi lầm chỉ là "một hạt
cát trong băi sa mạc’! (Xin mời bạn đọc hăy đọc từ trang 172 đến trang 271 của
cuốn sách đă dẫn, th́ sẽ biết!)
Trong bài luận xét này, chúng tôi chỉ dẫn ra vài sự kiện, mà trong sách đă dẫn,
có nói tới, nhưng chỉ nói theo cách Lộng Giả Thành Chân một cách khá tinh vi!
- Một: Về sự kiện "K5".
K5 là ǵ? Đó là mật danh của tuyến tuần tra biên giới Campuchia-Thái Lan, dài
hơn 800 km. (Đúng ra là 1.200 km) Để xây dựng "K5", Lê Đức Anh đă ra lệnh huy
động hàng chục vạn dân công Campuchia, bỏ công việc làm ăn sinh sống, rời xa gia
đ́nh, để đi đến vùng rừng sâu nước độc, đặng làm việc không công như đốn cây,
đào hào, trồng tre, rải chông, căng giây thép gai dọc theo đường biên giới
Campuchia-Thailand dài 1.200 km, làm thành tuyến tuần tra pḥng thủ với danh
hiệu vinh quang gọi là "bảo vệ tổ quốc Campuchia" (Xem sđd, trang 175-176)
Công tŕnh "K5", có thể nói là một sang tạo "chiến lược pḥng thủ thụ động" của
"nhà quân sự lớn" Lê Đức Anh. Điều đó chứng tỏ rằng, Lê Đức Anh không học được
"Bài học thất bại của McNamara" về "hang rào điện tử" trên tuyến bờ Nam song Bến
Hải trong những năm 1965-1970! Quân Cộng sản Bắc Việt vẫn có cách vượt qua "hàng
rào điện tử" của McNamara, để đưa quân, tràn vào miền Nam Việt Nam! Công tŕnh
"K5" của Lê Đức Anh, không nói khoản tiêu phí khổng lồ về mặt tài chánh, chỉ nói
về sinh mạng con người thôi: Mấy chục vạn dân và bộ đội Campuchia và Quân t́nh
nguyện Việt Nam đă bỏ xác tại tuyến pḥng thủ "K5"? Thế nhưng, quân Pôn-Pốt vẫn
phá được tuyến pḥng thủ, và thọc sâu vào nội địa Campuchia, cách xa biên giới
hàng 30-40 km! Đúng như sự tố cáo sau đây, của một số nguyên là Tướng-Tá Cộng
sản ở Nam bộ, rằng:
"Lê Đức Anh chỉ đạo chiến tranh theo kiểu "ăn đong", năm này chưa xong th́ năm
sau, kéo dài 10 năm vẫn chưa diệt được quân Pôn-Pốt. LĐA chủ trương "khóa chặt
biên giới" để "xây dựng tuyến pḥng thủ biên giới" …" "nhưng địch vẫn mở được
hành lang tiến sâu vào đến 30-40 km. Chủ trương sai lầm này của LĐA, đă làm cho
hàng chục vạn cán bộ, chiến sĩ quân t́nh nguyện Việt Nam, cũng như bộ đội và
nhân dân bạn bỏ xác trên tuyến biên giới dài 1.200 km." (Thư tố cáo của ông
Nguyễn Văn Thi, ngày 7-11-2005, đă dẫn)
- Hai: Về sự kiện Seam-Reap.
Sự kiện Seam-Reap xảy ra vào cuối băm 1982 (theo Lê Đức Anh, nhưng có người lại
nói năm 1984?). Lúc đó, đột nhiên trong dư luận của nhân dân Campuchia tại tỉnh
Seam-Reap, đang lan truyền một tin đồn là: "Khơ Me Đỏ đă gây dựng được cơ sở ở
nhiều nơi trong tỉnh Seam-Reap, và có nhiều người trong Đảng cũng như trong
Chính quyền cách mạng đă làm việc cho bọn Pôn-Pốt" Dư luận trong quần chúng đă
coi đó là: "Chính quyền hai mặt" (ngày th́ làm việc cho Heng-Sonrin, đêm lại làm
việc cho Pôn Pốt (?)
Rồi một hôm, có một thanh niên Campuchia, tự xưng tên là Sơn Nuôl, đến ngay đơn
vị 479 của Quân t́nh nguyện Việt Nam đóng ở vùng biên giới Campuchia-Thailand..
Sơn Nuôl tự thú rằng: "Tôi vốn là cán bộ cấp xă của Đảng Nhân Dân Cách Mạng đă
bị bọn Khơ Me Đỏ mua chuộc, và đă trót làm việc cho chúng. Nay đă biết sai lầm,
nên ra tự thú với các đồng chí Việt Nam." Cán bộ chỉ huy Quân báo của đơn vị 479
không nhận ra mưu kế phản gián của địch, nên đă báo cáo lên Cục Quân Báo thuộc
Bộ Tư lệnh Quân t́nh nguyện Việt Nam ở Phnom-Penh. Thế là, một kế hoạch sử dụng
"nhị trùng Sơn Nuôl" được thực hiện ngay, bằng cách cho tên Sơn Nuôl nhập trở
lại đơn vị Khơ Me Đỏ ở trên đất Thailand, sát biên giới Campuchiạ
Ba tuần sau, thuộc trung tuần tháng 4-1982, Sơn Nuôl trở lại đơn vị 479 để báo
cáo t́nh h́nh khẩn cấp, rằng: "Bọn chỉ huy Khơ Me Đỏ đă đưa về vùng Bắc
Seam-Reap 800 khẩu súng, trong đó có 20 khẩu súng cối, c̣n hầu hết là Tiểu liên
AK do Trung Cộng cung cấp. Bọn Khơ Me Đỏ dự định sẽ tiến hành khởi nghĩa cướp
chính quyền tỉnh Seam-Reap, vào tháng 8-1982, bằng chiến thuật "trong nổi dậy,
ngoài đánh vô" (?)
Sơn Nuôl lại được phái quay trở về đơn vị cũ của quân Pôn Pốt, mà hắn đang làm
"cận vệ cho tên Trung đoàn trưởng", để nắm t́nh h́nh chuẩn bị khởi nghĩa cướp
chính quyền Seam-Reap của Khơ Me Đỏ (?)
Đầu tháng 5-1982, trong một trận đánh nhau với quân Khơ Me Đỏ tại phía Tây thị
xă Seam-Reap, gần hồ Tonlé-Sap, bộ đội Việt Nam bắt được 6 tù binh Khơ Me Đỏ,
trong đó có một Trung đoàn phó. Khi cán bộ Quân Báo Việt Nam tiến hành thẩm vấn
tên Trung đoàn phó Khơ Me Đỏ, th́ hắn không khai ǵ hết! Nhưng sau khi tra tấn,
đau quá chịu không nổi, hắn mới chịu khai. Và những lời khai của hắn hoàn toàn
ăn khớp với báo cáo của tên Sơn Nuôl!
Cục Quân Báo-Ban Tham Mưu của Quân t́nh nguyện Việt Nam, sau khi đối chiếu tin
tức của "nhị trùng Sơn Nuôl" báo cáo với lời khi của tên "Trung đoàn phó tù binh
th́ thấy rất "ăn khớp" về "âm mưu khởi nghĩa cướp chính quyền Seam-Reap của Khơ
Me Đỏ"! Do đó, Cục Quân Báo của Quân t́nh nguyện Việt Nam đă tưởng "chắc ăn như
bắp", nên liền lập bản kế hoạch "Tiêu diệt âm mưu khởi nghĩa của quân Khơ Me Đỏ
tại Seam-Reap từ trong trứng nước" (!?). Kế hoạch này nhanh chóng được Bộ Tư
Lệnh Quân t́nh nguyện Việt Nam chuẩn y! Thế là, một chiến dịch khủng bố, lập tức
giáng lên đầu của những ai được liệt vào danh sách "chính quyền hai mặt"!
Hàng loạt cán bộ Đảng và Chính quyền Nhân Dân Cách Mạng Campuchia tại tỉnh
Seam-Reap, đă bị bắt, trong đó có các Trưởng Ty Giáo dục, Giao thông, Nông
Nghiệp và Văn hóa, cùng Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chánh tỉnh, Chánh Văn pḥng
Tỉnh ủy, Thường vụ Tỉnh ủy… Có tất cả hơn 40 người bị tống giam dưới hầm đất ở
trong một khu rừng bí mật! Cho đến khi ông Bí thư Tỉnh ủy Seam-Reap, thấy "đồng
chí sĩ quan Việt Nam" đến bắt ḿnh, nên đă tự sát, và để lại một di thư ngắn gọn
rằng: "Các đồng chí bộ đội Việt Nam đă làm sai rồi! Tôi và các đồng chí của tôi
đều là người cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng Nhân dân Cách mạng!...";
th́ sự việc mới vỡ lỡ! Đảng và Chính quyền Trung ương của Campuchia, và cấp Chỉ
huy Tối cao của Quân t́nh nguyện Việt Nam, tức tốc về Seam-Reap tiến hành thẩm
tra tại chỗ! Cuối cùng, họ đă nhất trí kết luận rằng "Tất cả cán bộ, đảng viên ở
Seam-Reap đều bị bộ đội Việt bắt oan! Họ hoàn toàn không có tội ǵ hết! Đây, rơ
ràng là Kế hoạch Phản gián của Khơ Me Đỏ do cố vấn Trung Cộng bày mưu tính kế và
chỉ hành động!"
(Những chi tiết viết ra trên đây, là căn cứ theo sự tiết lộ của Đại tá Quân Báo
Hai Nguyên - tức Trần Ngọc Thuận, là một trong những Đại tá bị Lê Đức Anh thi
hành kỷ luật, sau vụ án oan Seam-Reap - Cần Thơ, năm 1992).
Nhưng, trong sách đă dẫn, Lê Đức Anh không hề nói tới một chi tiết trọng yếu
nào? Ông ta chỉ bào chữa rằng: "Lúc xảy ra sự việc, tôi đang đi chữa bệnh ở Liên
Xô, đồng chí Hồ Quang Hoa thay tôi quyền Tư lệnh 719." "Lúc tôi được anh Lê Đức
Thọ thay mặt Bộ Chính trị gọi về, một bên mắt tôi c̣n băng kín… Lúc đó, tôi
nhớ anh Tô (Phạm Văn Đồng) là cố vấn Ban chấp hành Trung ương đă phê phán rất
gay gắt và đề nghị một mức kỷ luật rất nặng đối với toàn bộ cán bộ chủ chốt của
Bộ Tư lệnh 479 và 719 có liên quan đến vụ việc. Sau khi bàn bạc, Bộ Chính trị
nhất trí giao cho tôi xử lư vụ việc…" (sđd, trang 186-187)
Trong 3 năm nắm quyền lănh đạo tối cao của Quân t́nh nguyện Việt Nam ở Campuchia
(1980-1982), Lê Đức Anh đă phạm nhiều lỗi lầm quan trọng, đă làm hại nhiều sinh
mạng và tai sản của nhân dân Campuchia, cũng như sinh mạng của nhiều thanh niên
Việt Nam! Vậy mà, tháng 12-1984, Lê Đức Anh vẫn được thăng cấp Đại tướng. Đến
tháng 12-1986, khi Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn chết, Lê Đức Anh
được giữ luôn chức Tổng Tham mưu trưởng. Đến tháng 2-1987, Lê Đức Anh được thăng
chức Bộ Trưởng Quốc Pḥng. Trong Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam, không có ai
thăng cấp, thăng chức mau như Lê Đức Anh (!?)
Rơ ràng, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đă bao che cho Lê Đức Anh. Bởi v́, nhiều hay ít,
với tư cách người chỉ huy tối cao của Quân t́nh nguyện Việt Nam ở Campuchia, Lê
Đức Anh phải chịu trách nhiệm phần nào, và không nên giao cho ông ta trực tiếp
xử lư (?) Hơn nữa, theo Đại tá Hai Nguyên th́ ông Lê Đức Anh và các ông lănh đạo
Bộ Quốc Pḥng, đă biết kế hoạch "tiêu diệt chính quyền hai mặt ở Seam-Reap"này!
Bởi v́ Thiếu tướng Hoàng Hoa (tức Hồ Quang Hóa), trước khi chấp thuận cho Cục
Quân Báo hành động, cũng đă báo cáo cho cấp trên ở Hànội biết! Chính Lê Đức Anh
cũng thừa nhận sự thật này, như sau: "đồng chí Hồ Quang Hóa có ra Hà nội báo cáo
với cấp trên." (sđd, trang 187)
Vậy, Lê Đức Anh đă xử lư thế nàỏ
Ông đă tỏ ra "thông cảm cấp dưới", rằng "anh em đă mắc sai lầm, không kỷ luật
th́ không được, nhưng kỷ luật nặng quá cũng không nên, bởi vậy tư tưởng của tôi
là kỷ luật càng ít người, mức kỷ luật càng nhẹ càng tốt. Do đó, cuối cùng chỉ
thi hành kỷ luật hai người "trực tiếp" chỉ huy vụ việc, là đồng chí Hồ Quang
Hóa, đồng chí Tư Thang, mỗi người hạ một sao, và cho trở về nước." (sđd, trang
188).
Qua cách nói trên, đă chứng tỏ rằng: Lê Đức Anh rất coi thường sự góp ư của ông
Phạm Văn Đồng. Sở dĩ Lê Đức Anh dám coi thường sự góp ư của "đồng chí Tô, là v́
có Lê Duẩn và Lê Đức Thọ làm chỗ dựa! "
Trong thực tế, không đúng như ông Lê Đức Anh nói. Theo một Đại tá Quân Báo bị
đuổi ra khỏi Đảng, ra khỏi quân đội, và bị đuổi về nước, cho biết: Ngoài anh ta,
c̣n có 6 sĩ quan Quân báo khác cũng bị kỷ luật nặng! C̣n Thiếu tướng Hồ Quang
Hóa đă bị đưa ra khỏi Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, hạ xuống cấp Đại tá, đưa về
Việt Nam, làm Hiệu trưởng trường: Lục Quân 2 (Thủ Đức - Sàig̣n).
C̣n có một sự việc mà Lê Đức Anh hoàn toàn dấu kín, và chắc chắn sẽ không bao
giờ thừa nhận, nhưng: Lê Đức Anh, dù có quyền lực tới đâu, cũng không bịt được
dư luận của quần chúng nhân dân của cả hai nước Campuchia-Việt Nam! Đó là việc
Lê Đức Anh đă bí mật ra lệnh cho các thuộc hạ thân tín, cướp đoạt các tượng Phật
bằng vàng, bằng đồng đen, ở các chùa chiền, đền đài trên khắp nước Campuchia,
rồi đập nhỏ ra, mang về Việt Nam, bỏ vào kho tài sản riêng của 4 người: Lê Duẩn,
Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh và Đỗ Mườị Do đó, không nên lấy làm lạ rằng: Khi c̣n
sống, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đều hết ḷng bao che cho Lê Đức Anh! C̣n Đỗ Mười th́
cương quyết bảo vệ Lê Đức Anh cho đến "hơi thở cuối cùng"!
V- Trong công cuộc đổi mới đất nước, từ trang 208 đến trang 267. Sự "Lộng Giả
Thành Chân" ở phần này là: Lê Đức Anh tự coi trí tuệ "nh́n xa thấy rộng" của
ḿnh đă vượt lên trên mọi người trong Bộ Chính trị trung ương Đảng, cho nên việc
ông lên làm Chủ tịch nước là tất yếu (?)
1- Điểm đầu tiên, Lê Đức Anh khoe "trí tuệ hơn người" của ông, là sau khi ông
nhận chức Bộ Trưởng Quốc Pḥng (1987), trong Hội nghị "Bộ Chính Trị hẹp", ông đă
đề xuất như sau: "Trung Quốc gây xung đột vũ trang ở biên giới không phải có ư
định xâm lược … ( do đó, phải) t́m cách để nối lại quan hệ b́nh thường với
Trung Quốc … " "Ư kiến của ông nhiều người đồng thuận. Thế th́ được! Không có
ai nói khác" (sđd, trang 216)
Thật ra, Lê Đức Anh chỉ khai triển một cách cụ thể ư kiến của Nghị quyết Đối
ngoại đă thông qua trong Đại hội VI (12-1986) rằng: "tăng cường quan hệ hữu nghị
và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng Xă hội Chủ
nghĩa…" (Văn Kiện Đại Hội VI, Nhà xuất bản Sự Thật, Hànội, 1987, trang 99)
Tiếp theo, ông Lê Đức Anh khoe công lao nối lại quan hệ b́nh thường với Trung
Cộng, là nhờ chuyến đi "thăm nội bộ"Trung Quốc của ông vào cuối tháng 8-1991,
với tư cách là "Đặc Phái viên Bộ Chính trị" của Đảng CSVN. Lê Đức Anh cho biết,
ông đă trực tiếp bàn với Giang Trạch Dân-Tổng Bí thư Đảng CSTQ. Chính nhờ kết
quả "Sau cuộc đi "tiền trạm" này của ông, từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 11-1991,
là chuyến thăm chính thức Trung quốc của Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Vơ Văn
Kiệt." (sđd, trang 223)
Thật ra, Lê Đức Anh chỉ là người thừa hành nhiệm vụ do BCT trung ương Đảng CSVN
giao, theo nghị quyết của Đại Hội VII rằng: "Thúc đẩy quá tŕnh b́nh thường hóa
quan hệ với Trung quốc, từng bước mở rộng sự hợp tác Việt – Trung, giải quyết
những vấn đề tồn tại giữa hai nước thông qua thương lươ.ng."
(Theo tài liệu "Quan Hệ Việt Nam Trung Quốc…", Nhà xuất bản KHXH, Hànội 2002,
trang 21) Ông Lê Đức Anh tự quan trọng hóa và đề cao vai tṛ của ông ta, để
chứng minh với mọi người rằng: "Lê Đức Anh ngồi ghế Chủ tịch nước là do tài năng
của chính Lê Đức Anh" (!?)
Có lẽ quá già rồi sinh ra lẩm cẩm, ông Lê Đức Anh đă quên rằng: Trước chuyến đi
"bí mật" của Lê Đức Anh, th́ từ ngày 8 đến ngày 10-8-1991, th́ Thứ trưởng ngoại
giao CSVN Nguyễn Di Niên và Thứ trưởng Ngoại giao Trung Cộng Từ Đôn Tín, đă gặp
nhau tại Bắc Kinh, và "Hai bên đă trao đổi ư kiến về b́nh thường hóa quan hệ
giữa Việt Nam-Trung Quốc…" (Tân Hoa Xă, 11-8-1991). Hơn nữa, trong việc "thăm
nội bộ" của Lê Đức Anh với Đảng CSTQ, theo nguyên tắc ngoại giao, th́ chỉ cần
một Ủy viên BCT cùng cấp, để tiếp kiến Lê Đức Anh mà thôi. Nhưng, tại sao Tổng
Bí thư Đảng CSTQ Giang Trạch Dân phải tiếp Lê Đức Anh? Chỉ có một sự giải thích
hợp lư rằng: Đảng CSTQ muốn nắm Lê Đức Anh, và biến Lê Đức Anh thành "Cộng tác
viên" của Trung Cộng, nằm vùng trong Bộ Chính trị trung ương Đảng CSVN, để thực
hiện âm mưu chiến lược lâu dài của Trung Cộng đối với Việt Nam! (Bởi v́ Sở Phản
gián Hải ngoại của Trung Cộng đă biết rơ lai lịch và bản chất của Lê Đức Anh!)
Chính những hành vi và thủ đoạn đánh phá nội bộ trung ương Đảng CSVN của Tổng
Cục II sau này, do Lê Đức Anh chỉ đạo đă là một minh chứng rơ ràng!
2- Điểm kế tiếp: Lê Đức Anh tự hào về "tầm nh́n xa" của ông trong vấn đề Cam
Ranh. Ông Lê Đức Anh cho biết: "Sau khi Liên Xô tan ră, Chính phủ Cộng ḥa Liên
bang Nga thế chân tiếp tục Hiệp định, duy tŕ sự có mặt ở Cam Ranh. Mặc dù biết
rằng Hiệp định c̣n hạn tới năm 2004, nhưng được sự nhất trí của Bộ chính trị và
Ban Bí thư, tôi đă chỉ đạo các cơ quan chức năng của Bộ quốc pḥng và của Nhà
nước (khi tôi lên làm Chủ tịch nước) tiến hành đàm đạo một cách kiên tŕ, khôn
khéo và êm dịu, để họ rút ra, để họ trao trả quân cảng Cam Ranh trước thời hạn.
… Lúc đó tôi nói rằng các anh rút, chúng tôi chỉ xây dựng cảng cho hải quân
Việt Nam sử dụng, chứ nhất định không cho bất cứ một nước nào vào đây thuê, cam
đoan như vậỵ"(sđd, trang 235-236)
Lê Đức Anh c̣n cho rằng, ông ta sáng suốt hơn các vị lănh đạo Trung ương Đảng
trong vấn đề "cho hay không cho Hoa Kỳ thuê Cam Ranh"? Và Lê Đức Anh cho biết:
"Mỹ cũng vận động thông qua một vài nước ASEAN để thuê quân cảng Cam Ranh, ta
nói rơ Việt Nam không chứa, không tàng trữ vũ khí hạt nhân, không cho ai sử dụng
cảng của ḿnh, đất của ḿnh, để có vũ khí hạt nhân ở đó… Sau này Mỹ có dùng
một số nước tác động để thuê (Cam Ranh) của ta cho tàu của họ vào, thuê cảng
nhưng để lấy nước ngọt thôi. Mấy ông lănh đạo địa phương ưng lắm, cứ ra Trung
ương xin ráo riết, tôi bảo nhất định không được." (sđd, trang 236).
Tại sao Lê Đưc Anh lại ngăn cản, không để cho Hoa Kỳ thuê quân cảng Cam Ranh?
Những lư do của Lê Đức Anh nêu ra ở trên, có đúng là "ư nghĩ thật" của ông ta
hay không? Trả lời chính xác hai câu hỏi này, mọi người sẽ nhận thấy xí đồ của
Lê Đức Anh! Xí đồ của Lê Đức Anh là để dành cơ hội cho Trung Công thuê, vào lúc
thích hợp nhất! Chuyến thăm Việt Nam của Hồ Cẩm Đào vừa qua (31/10 - 2/11/2005),
và việc tiếp xúc không công khai giữa Hồ Cẩm Đào với Đỗ Mười và Lê Đức Anh, để
bàn về vấn đề "nhân sự lănh đạo tối cao của Ban Chấp Hành Trung ương Đảng CSVN
khóa X", cùng với việc cho Trung Cộng thuê dài hạn quân cảng Cam Ranh, đă chỉ rơ
xí đồ "trường kỳ mai phục" của Lê Đức Anh. Lẽ dĩ nhiên, nếu việc thuê Cam Ranh
của Trung Cộng thành công, th́ số USD bỏ vào túi của Đỗ Mười và Lê Đúc Anh, chắc
chắn là trên 6 con số không? (Theo nguồn tin t́nh báo từ Hồng kông, tháng
2-2005)
`3- Điểm sau cùng, Lê Đức Anh tự coi ḿnh là người có tài năng tổng kết kinh
nghiệm chiến tranh, với ẩn ư là từ trước tới nay, không có ai "tổng kết kinh
nghiệm chiến tranh" cho ông vừa ư… (chẳng hạn như Đại tướng Vơ Nguyên Giáp,
Đại tướng Văn Tiến Dũng, Thượng tướng Hoàng Văn Thái, Thượng tướng Trần Văn Trà
v.v …?)
V́ thế,Lê Đức Anh tuyên bố rằng: "Làm được việc này một cách đầy đủ, thấu đáo,
có ngọn có ngành - Tổng kết Kinh nghiệm Chiến tranh – th́ mang lại ư nghĩa rất
to lớn. Trước hết nó sẽ lư giải được một cách thuyết phục là v́ sao Việt Nam -
một nước nhỏ, nghèo, nền sản xuất kinh tế lạc hậu mà lại thắng được hai đế quốc
to là Pháp và Mỹ… Hai là, nếu ta tổng kết một cách khoa học và nghiêm túc th́
sẽ có ích cho công cuộc giữ nước hôm nay và mai saụ" (sđd, trang 242-243)
Trong thực tế, cho đến khi cuốn sách này ra đời, Lê Đức Anh chỉ nói – nhưng,
nói cũng không có ǵ mới và sâu sắc hơn những người khác? Trong kho tàng "những
bài học về kinh nghiệm chiến tranh" của Việt Nam, chưa hề thấy một cuốn sách hay
một luận văn nào của Lê Đức Anh viết. Do đó, ông cố t́nh bào chữa rằng: "Nguyện
vọng của tôi như vậy, nhưng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII Đại hội vẫn
bầu tôi vào Ban Chấp hành trung ương và Ban Chấp hành trung ương đă bầu tôi vào
Ủy viên Thường vụ Bộ Chính tri. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX, tôi được
bầu là Chủ tịch nước." (sđd, trang 244). Đây cũng là một cách tự đề cao ḿnh
theo lối kiêu kỳ rằng :"Tôi không muốn làm, nhưng v́ anh em cần tôi, nên tôi
không thể từ chối (?!)"
o0o
Đọc tới trang cuối cùng của cuốn "Đại tướng Lê Đức Anh" do Khuất Biên Ḥa biên
soạn, chúng tôi thật không ngờ sự lộng giả thành chân quá lộ liễu như vậy!
Đó là chưa kể những việc làm đầy tội lỗi của Lê Đức Anh, mà trong cuốn sách này
không hề nói, như "những mưu đồ chính trị bằng vụ Sáu Sứ 1991, vụ Cục II 1995,
vụ T4 1997-1999, vụ nói xấu, vu khống nhằm lật đổ Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu…"
(Theo Thư tố cáo của ông NguyễnVăn Thi, ngày 7-11-2005).
Và như Trung tướng Nguyễn Ḥa, nguyên Ủy viên trung ương Đảng CSVN các khóa V,
VI và VII, đă vạch trần sự thật một cách khái quát về nội dung của cuốn sách
này, như sau: "vừa khoe khoang, vừa nói không đúng sự thật, vừa biện minh bào
chữa cho Lê Đức Anh, phát hành trên 7.000 quyển? Trong đó, người viết (dưới sự
chỉ đạo của Lê Đức Anh) đă dùng một thông báo muộn màng (ra vào ngày 24-1-1997,
sau 12 năm) gọi là thông báo số 72/TCTW về chính sách, để bào chữa cho sự gian
dối về tuổi Đảng của Lê Đức Anh…" (Thư góp ư kiến với Trung Ương Đảng của
Trung tướng Nguyễn Ḥa, trước khi Đại Hội X họp, Hànội, 1-2-2006).
Qua việc nghiên cứu nội dung cuốn sách "Đại tướng Lê Đức Anh" do Khuất Biên Ḥa
biên soạn, chúng tôi nhận thấy rằng: Đây là một cuốn Tiểu Sử Nhân Vật Bất Chính!
Nó bất chính ngay cả sự kiện và cách kết cấu nội dung, cùng lời văn sáo rỗng,
câu văn luộm thuộm và nhiều lỗi về ngữ pháp (hay nói theo cách nói của ông Hồ
Chí Minh là: "không trong sáng", mà vẫn đục như nước chứa đầy cặn bă!). Một nhân
vật đă có nhiều hành vi xấu như ông "Cai Lé’ Lê Đức Anh, mà leo lên đến Chủ
tịch nước CHXHCNVN, th́ chứng tỏ tập đoàn lănh đạo Trung ương Đảng CSVN đă và
đang thoái hóa đến cực điểm! Sự khủng khoảng lănh đạo tối cao của Trung ương
Đảng CSVN đă trầm trọng như con bệnh trầm kha, không có thuốc chữa như vậy, là
sự báo hiệu sẽ sụp đổ trước cơn giông tố chính trị, trong một thời gian không xa
nữa!
Đông Bắc Mỹ
Mùa Xuân Bính Tuất 2006
Lê Tùng Minh